Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO MỸ THỰC TRẠNG,NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.9 KB, 16 trang )

[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 1

LỜI NÓI ĐẦU

Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới hướng tới thế
kỷ XXI, không một quốc gia nào phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá
trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó cũng không ngoại lệ đối với Việt Nam - một nước
đang phát triển , đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) như
hiện nay.
Với chủ trương hướng mạnh vào xuất khẩu với lợi thế sẵn có (những mặt hàng xuất khẩu
truyền thống: nông lâm thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu và hàng dệt may) và một số hàng có
yêu cầu kỹ thuật công nghệ cao: ô tô, xe máy, hàng điện tử và dịch vụ phần mềm Trong đó,
hàng thủy sản là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Theo dự kiến trong thời gian
tới, sẽ có sự thay đổi các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nhưng thủy sản vẫn là một trong
những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của đất nước.
Điều đó khẳng định ngành thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế đất nước. Quy mô của ngành thuỷ sản ngày càng mở rộng. Xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam đã trở thành hoạt động có vị trí quan trọng hàng nhất nhì trong nền kinh tế ngoại
thương Việt Nam, chế biến thuỷ sản trở thành một ngành công nghiệp hiện đại, đủ năng lực hội
nhập, cạnh tranh quốc tế và dành vị trí thứ 10 trong số nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu trên
thế giới. Bên cạnh đó, vai trò của ngành thuỷ sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế
quốc dân. Ngành thủy sản góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho
hàng triệu ngư dân, đảm bảo an ninh xã hội cho đấy nước cũng như góp phần thỏa mãn nhu cầu
thực phẩm ngày càng tăng của thị trường.
Nhận biết được tầm quan trọng của xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian tới , chúng tôi
đã chọn đề tài “Vấn đề xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ - thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp”




[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 2
I. Giới thiệu
- Mục đích của bài viết: Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường
Mỹ. Từ đó thấy được những thành công và hạn chế, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian tới có hiệu quả
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Trong thời kỳ nước ta đang hội nhập với các nước trong khu vực
và trên thế giới, hoạt động xuất khẩu thủy hải sản phát triển mạnh mẽ đã đóng góp to lớn vào
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đang có hoạt
động xuất khẩu thủy sản cũng gặp không ít những khó khăn do nhà nước chưa có những chính
sách hỗ trợ xuất khẩu thủy sản hợp lý và hiệu quả.
- Giới hạn nghiên cứu: từ năm 1994 đến năm 2009, và xét trên vùng lạnh thổ Việt Nam
- Phương pháp nghiên cứu: hệ thống, tổng hợp, thống kê để làm rõ vấn đề
- Nguồn số liệu: 1994-2009
- Kết cấu của bài viết: bài viết gồm 4 phần. Ngoài phần giới thiệu (I) và lý thuyết kinh tế quốc tế
(II). Hiện trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ (III) nêu lên tình hình xuất khẩu thủy
sản cũng như các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn 1994-2009.
Thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân (IV) được nêu ra trong phần này và được giải quyết trong
phần Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam vào Mỹ (V).

II. Lý thuyết kinh tế quốc tế
Bản chất của hoạt động xuất khẩu thủy sản (XKTS): Thực chất của xuất khẩu hàng hóa,
dịch vụ là sự trao đổi lao động kết tinh giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hóa. Trong
đó, những nước đang phát triển xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của mình sang thị trường các nước
đang phát triển nhằm phát huy tối ưu lợi thế tuyệt đối và tương đối của quốc gia mình trong
trao đổi và buôn bán quốc tế. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ cũng vậy.

Hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ được kết tinh bởi lao động hao phí của những
ngư dân và lợi thế về điều kiện tự nhiên, khí hậu của Việt Nam. Do đó, trong trao đổi ngang
giá, Việt Nam và Mỹ đều thu được lợi. Việt Nam đã nhận được ngoại tệ mạnh để có thể mua
máy móc, thiết bị và kỷ thuật hiện đại nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước. Người tiêu dùng Mỹ mua hàng thủy sản giá rẻ, chất lượng cao. Chính vì vậy mà
D.Ricardo cho rằng, xuất khẩu đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia và làm tăng sản
xuất, tiêu dùng quốc tế.
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 3
III. Hiện trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ
1. Về kim ngạch xuất khẩu
Ngành thủy sản Việt Nam đã nhận thức việc mở rộng thị trường xuất khẩu là rất quan
trọng trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như hình thành thế chủ động và cân đối thị
trường, tránh không lệ thuộc vào thị trường truyền thống Nhật Bản. Do đó ngành thủy sản đã
chủ động chủ trương mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường thủy sản khác như EU, Trung
Quốc và đặc biệt là thị trường Mỹ.
Ngay khi Mỹ bải bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam vào năm 1994, lô hàng thủy
sản đầu tiên của Việt Nam đã nhập cảng Mỹ, mở đầu cho quan hệ thương mại thủy sản chính
thức giữa hai quốc gia. Đặc biệt sau BTA, cơ hội cho ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường
Mỹ càng được mở rộng. Hàng trăm doanh nghiệp Mỹ đã tìm đến với hàng thủy sản xuất khẩu
của Việt Nam và có những dự án đầu tư lớn trong lĩnh vực thủy sản tại Việt Nam. Đồng thời
với việc ký kết các Hiệp ước hợp tác quốc tế - thương mại giữa hai nước, Chính Phủ Việt Nam
cũng đả chủ động tiến hành rất nhiều hoạt động thúc đẩy XKTS phát triển như các cuộc tiếp
xúc và làm việc giữa Bộ Thủy Sản Việt Nam với Cục Nghề Cá Biển Mỹ (NMFS), FDA, Hiệp
hội thủy sản Mỹ (NFI)… Ngoài ra Chính Phủ Việt Nam đã chủ động mời đoàn doanh nghiệp
và các nhà khoa học, quản ký của Mỹ sang thăm, khảo sát tình hình nuôi và chế biến cá tra, cá
basa ở An Giang, Cần Thơ; tổ chức các cuộc hội thảo về thị trường thủy sản Mỹ, các cuộc triển
lãm thủy sản trên thị trường Mỹ, áp dụng các chương trình quản lý chất lượng mà FDA và

Chính Phủ Mỹ đặt ra. Các doanh nghiệp này đều được áp dụng hệ thống kiểm tra chất lượng
sản phẩm theo tiêu chuần HACCP do FDA đặt ra và đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào Mỹ.

Bảng 1: Tình hình XKTS Việt Nam vào thị trường Mỹ
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
KNXK
(triệu
USD)
5,78
19,94
33,98
39,83
90,20
129,50
298,22
489,03
655,65
782,23
592,82

Tốc độ
tăng %

237,2
74,3
17,2
101,3
61,5
130,2
63,9
34,1
19,3
-24,2

Nguồn: Hiệp hội chế biến và XKTS Việt Nam
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 4
Số liệu của bảng trên cho thấy từ năm 1994-2001 giá trị XKTS Việt Nam vẫn tăng đều
đặn và tăng đột biến vào những năm 1995, 2000 và 2001. Năm 2000 – năm bắt đầu của những
chuyển biến to lớn trong XKTS, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của kim ngạch XKTS trên thị
trường Mỹ. Mỹ từ vị trí thứ ba trở thành thị trường tiêu thụ thủy sản lớn thứ hai sau Nhật Bản.
Với KNXK đạt gần 300 triệu USD gấp 7,6 lần so với năm 1997. Đặc biệt năm 2001, mặc dù
nền kinh tế Mỹ có nhiều khó khăn nhất là sau sự kiện khủng bố 11/9 song im ngạch XSTK của
Việt Nam sang Mỹ vẫn có sự tăng trưởng với khối lượng 71 nghìn tấn sản phẩm đạt doanh số
489 triệu USD tagn8 63,9% so với năm 2000, và tại thời điểm này, Mỹ chính thức vượt mặc
Nhật Bản trở thành thị trường XKTS lớn nhất của Việt Nam.
Bảng 2: Cơ cấu thị trường XKTS của Việt Nam
Đơn vị tính: %


1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Mỹ
11,6
13,8
20,9
28,92
31,0
35,3
24,6
Nhật Bản
42,3
40,7
32,8
26,14
27,0
26,3
31,4
EU
12,4
9,6
6,9
6,7
4,2

5,7
10,1
Trung Quốc – Hồng Kông
10,56
12,5
20,4
18,44
15,0
6,7
5,4
Thị trường khác
23,14
23,4
19,0
20,8
20,8
26,0
28,5

Nguồn: Vụ kế hoạch và thống kê – Bộ thương mại và Bộ thủy sản

Tỷ trọng giá trị XKTS vào Mỹ tăng nhanh so với các thị trường khác. Nếu như năm 1998
XKTS sang thị trường Mỹ đạt 11,6% trong tổng giá trị hàng thủy sản của Việt Nam thì năm
1999 con số này là 13,8% năm 2000 chiếm 20,9% và năm 2001 chiếm 28,92%. Trong khi đó
các thị trường truyền thống của XKTS Việt Nam là Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản, Pháp,…
đã mất dần về mặt tỷ trọng. Điều này cho thấy thị trường Mỹ ngày càng chiếm vai trò quan
trọng trong XKTS của Việt Nam.
KNXK hàng thủy sản của Việt Nam sang Mỹ vẫn tiếp tục tăng năm 2002 đạt 655,65 triệu
USD tăng 34,1% so với năm 2001. Bước sang năm 2003 mặc dù bị CFA kiện bán phá giá mặt
hàng cá tra, cá basa nhưng KNXK vẫn đạt 782,23 triệu USD tăng 19,3% so với cùng kỳ năm

2002, đây là năm đỉnh cao về mặt số lượng và giá trị XKTS ở Mỹ của Việt Nam. Năm 2004, do
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 5
ảnh hưởng của vụ kiện SSA, sản lượng và doanh thu XKTS Việt Nam vào Mỹ giảm đáng kể
chỉ còn 592,82 triệu USD giảm 24,2% so với năm 2003. Theo tin VASEP, 6 tháng đầu năm
2005 XKTS giảm 36% khối lượng cũng như giá trị so với cùng kỳ năm trước [1]. Như vậy, cơ
cấu thị trường XKTS của Việt Nam đã có sự thay đổi cơ bản về vị trí của các thị trường chính.
Mỹ từ vị trí đứng đầu giai đoạn 2001-2003, sang năm 2004 đã xuống vị trí thứ 2 sau Nhật Bản.
Có thể nói, sự sụt giảm về kim ngạch XKTS của Việt Nam trên thị trường Mỹ là lý do
chủ yếu khiến cho 2 năm liên tiếp kim ngạch XKTS vủa cả nước không đạt được mục tiêu đề
ra ban đầu. sự sụt giảm này có nhiều lý do mà chủ yếu do tác động của vụ kiện tôm và sụt giảm
đáng kể về khối lượng, giá trị XKTS vào thị trường Mỹ. Dưới tác động của vụ kiện trên và vụ
kiện cá tra, cá basa trước đó, đạt được mức kim ngạch 2,4 tỷ USD theo kế hoạch điều chỉnh là
cố gắng rất lớn của doanh nghiệp.

2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Hiện nay, Hoa Kì là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam trong đó tôm,
cá tra, cá basa vẫn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Biểu đồ 1: Tỷ trọng các sản phẩm thủy sản chính xuất khẩu sang Hoa Kì năm 2009
Nguồn:
___________________________
[1] http:// www hatrade. com.vn. (2005), Vượt khó để đạt kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỷ USD, ngày 25-7.
66.90%
9.40%
9.40%
6.80%
0.80%
6.30%

0.40%
Tôm
Hải sản khác
Tra & basa
Cá ngừ
Mực và bạch tuộc
Cá khác
Hàng khô
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 6
Đối với mặt hàng cá tra, cá basa
Tuy Hoa Kỳ nhập khẩu cá da trơn từ nhiều nguồn khác nhau như Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia nhưng mặt hàng cá da trơn của Việt Nam vẫn chiếm ưu thế lớn.
Theo số liệu thống kê Bộ Nông Nghiệp Hoa Kì, khối lượng cá da trơn nhập khẩu vào Hoa
Kì tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Năm 2006, lượng cá da trơn nhập khẩu vào thị
trường này tăng gấp đôi so với năm 2005 ở mức 74,964 triệu pound. Năm 2007 là 84,605 triệu
pound,năm 2008 là năm kỉ lục nhất kể từ năm 1994 với khối lượng là 102,428 triệu pound. [2]
Nhưng trong thời gian gần đây, cá tra và cá basa của Việt Nam đang bị đe dọa khi mà đạo
luật Farm Bill đã được Quốc hội Hoa Kì thông qua và chuẩn bị đưa vào thực hiện, trong đó quy
định mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam nằm trong nhóm cá Catfish . Theo đạo luật này, cá
tra Việt Nam được xem là cá da trơn và phải tuân thủ những điều kiện sản xuất tương đương tại
Mỹ thì mới có thể xuất khẩu được vào thị trường này. Đạo luật Farm Bill đã được thông qua và
khi chính thức có hiệu lực thì nhiều khả năng cá tra Việt Nam sẽ hết đường vào Mỹ bởi những
rào cản kỹ thuật hết sức khắt khe, nhất là phải tuân thủ các điều kiện như phải nuôi ở ao nông,
nước giếng khoan, khác hẳn môi trường nuôi trên sông Mê Kông hiện nay ở Việt Nam .
Chính vì vậy các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam phải có ngay kế hoạch để ứng phó,
can thiệp nhằm hạn chế những điều luật thiệt thòi cho người nuôi cá Việt Nam . Trong trường
hợp xấu nhất, nông dân Việt Nam phải tự thay đổi tập quán sản xuất để nâng cao chất lượng

sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu”.
Trong 6 tháng đầu năm 2009, Việt Nam xuất khẩu 14.368 tấn cá tra, ba sa sang Mỹ và
hiện là nước có sản lượng cá ba sa xuất khẩu hàng đầu sang thị trường nước này. Năm 2008
xuất khẩu cá basa vào Mỹ đạt khoảng 44.200 tấn tăng khoảng 27% so với năm 2007. Mặc dù
gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế và do Mỹ áp đặt kiểm soát chặt chẽ nhưng tiềm
năng phát triển của cá tra, cá basa vào thị trường này vẫn rộng mở, do sản phẩm của Việt Nam
có chất lượng cao và giá cả rất cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt lâu dài, các Hiệp hội ngành hàng
cần chú trọng hơn nữa trong việc hướng dẫn kỹ thuật cho người nuôi trồng cá tra, cá basa của
Việt Nam nhằm kiểm soát chặt chẽ yêu cầu kỹ thuật, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người
tiêu dùng Mỹ. [3]
___________________________
[2] Báo cáo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
[3] Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ - Bộ Công Thương
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 7
Biểu đồ 2: Xuất khẩu cá tra và cá basa của Việt Nam sang Hoa Kì 2001-2009
Đơn vị: tấn

Nguồn: Báo cáo của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn

Đối với mặt hàng tôm
Tôm là mặt hàng thủy sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu thủy sản Việt
Nam sang Hoa Kì với mức tổng kim ngạch xuất khẩu được duy trì tương đối ổn định, trên 30
nghìn tấn.
Vụ kiện bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam bị Hoa Kì khởi kiện
vào 31/12/2003 đã làm kim ngạch tôm đông lạnh Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kì giảm mạnh.
Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu tôm sang HoaKì đạt 52.439 tấn trị giá 513 triệu USD thì năm
2004 giảm 23,5% về giá trị. Sang đến năm 2005, 2006 thì thị trường xuất khẩu tôm đã có dấu

hiệu phục hồi trở lại.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, đến cuối năm 2008, xuất khẩu tôm sang Hoa Kì
đạt 46.629 tấn với trị giá khoảng 467.279 triệu USD. So với năm 2007 mặc dù sản lượng có
tăng 15,3% nhưng giá trị xuất khẩu tôm lại giảm khoảng 3%.
Nguyên nhân là do sự giảm sút về kinh tế của cường quốc kinh tế này, khi Hoa Kì rơi vào
khủng hoảng thì người dân cũng cắt giảm chi tiêu trong đó mạt hàng tôm được liệt vào mặt
hàng xa xỉ bị cắt giảm. Sang đến năm 2009, lượng tôm xuất khẩu sang Hoa Kì hầu như không
thay đổi, khoảng 46.812 tấn nhưng giảm về mặt giá trị do giá thấp hơn giá thị trường tôm thế
giới.Tuy nhiên, năm 2009 Hoa Kì vẫn là thị trường xuất khẩu tôm thứ hai của Việt Nam sau
Nhật Bản.
1385
17251
8931
14220
14764
24281
21196
24179
25142
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
2001
2002
2003
2004

2005
2006
2007
2008
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 8
IV. Thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân
1. Thuận lợi
Thứ nhất, trong những năm qua, ngành thủy sản Việt Nam đã tận dụng được những lợi
thế riêng của mình về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nguồn lao động dồi dào để
tăng kim ngạch XKTS sang Mỹ. Chỉ trong một thời gian ngắn thị trường Mỹ đã trở thành thị
trường đứng đầu tiêu thụ hàng TSXK của Việt Nam.
Thứ hai, hàng TSXK của Việt Nam sang thị trường Mỹ đã có được một cơ cấu sản phẩm
đa dạng phong phú và ngày càng dịch chuyển theo hướng có hiệu quả hơn với sự nâng cao tỷ
trọng sản phẩm giá trị gia tăng thay thế dần các sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế.
Thứ ba, nhờ tích cực đầu tư đổi mới công nghệ chế biến, sản phẩm TSXK của Việt Nam
hiện nay đã có được chất lượng, hình thức, giá cả và mẫu mã không thua kém gì so với các
nước xuất khẩu khác tại châu Á như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc… Hàng TSXK của Việt
Nam xuất khẩu vào Mỹ đảm bảo về VSATTP theo tiêu chuẩn HACCP ngày càng cao. Đây là
yếu tố rất quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của các mặt hàng XKTS Việt Nam.
Thứ tư, số lượng các doanh nghiệp XKTS quan tâm đến XKTS vào thị trường Mỹ không
ngừng tăng và đã tạo lập mối quan hệ kinh doanh với các nhà nhập khẩu, các trung gian, các
nhà chế biến nổi tiếng tại thị trường Mỹ. Thực hiện tốt những quy định khắt khe của pháp luật
Mỹ, kể cả đối với những quy định về VSATTP và cả đối với những đạo luật liên quan đến nhập
khẩu hàng thủy sản.
2. Khó khăn
Một là, bất cập về cơ cấu mặt hàng XKTS. Các mặt hàng thủy sản của ta xuất khẩu vào
Mỹ chủ yếu ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao. Cơ cấu hàng xuất khẩu chưa đa dạng và phong phú

chỉ tập trung chủ yếu là tôm, cá tra, cá basa hiện đang chiếm tỷ trọng rất lớn. Tiềm năng về cá ở
nước ta rất lớn đặc biệt là cá biển trong khi đó chúng ta mới chỉ tập trung xuất khẩu sang Mỹ
hai loại cá nước ngọt là cá tra, cá basa. Mỹ cũng coi trọng cả nhập khẩu thủy sản phi thành
phẩm bao gồm: cá cảnh, ngọc trai… song trên thực tế chúng ta chỉ mới chú trọng XKTS thực
phẩm. Đây là vấn đề bất cập trong cơ cấu hàng TSXK của Việt Nam.
Hai là, hạn chế về năng lực cạnh tranh của hàng TSXK
- Hạn chế về giá TSXK: Nhìn chung giá cả sản phẩm TSXK của Việt Nam sang Mỹ rất
thấp chỉ bằng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Indonesia nhưng hàng thủy sản
Việt Nam vẫn không cạnh tranh nổi với hàng thủy sản của các nước khác.
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 9
- Hạn chế về chất lượng TSXK: So với chất lượng TSXK của các đối thủ cạnh tranh khác
trên thị trường Mỹ thì chất lượng hàng thủy sản của ta là rất thấp kém cụ thể là ở trong khâu
nuôi trồng và chế biến, chúng ta chưa chú trọng đến vấn đề VSATTP cũng như kiểm soát việc
đưa ra các tạp chất vào nguyên liệu dẫn đến dư lượng kháng sinh trong hàng TSXK còn cao,
đặc biệt là mặt hàng tôm.
- Khả năng chiếm lĩnh thị trường Mỹ thấp: Tuy XKTS của Việt Nam vào thị trường Mỹ
có mức độ tiến triển khá mạnh mẽ nhưng xét về tỷ trọng trong tổng lượng hàng thủy sản nhập
khẩu vào Mỹ thì thị phần hàng TSXK của Việt Nam trên thị trường này còn khá khiêm tốn
chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và thấp rất nhiều so với các nước xuất khẩu châu
á như Thái Lan, Trung Quốc đặc biệt là Thái Lan.
Ba là, phương thức xuất khẩu. Với phương thức xuất khẩu trung gian hiện nay của các
doanh nghiệp XKTS Việt Nam bên cạnh ưu điểm thì nó cũng có nhiều nhược điểm như làm
cho các doanh nghiệp XKTS Việt Nam luôn luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào đối tác của Mỹ.
Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không kiểm soát được quá trình phân phối và tiêu dùng sản
phẩm của họ và do đó không thể nắm bắt trực tiếp được những thông tin phản ảnh tình hình thị
trường về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Bốn là, chưa có kế hoạch xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng TSXK. Vì mức độ tiếp

cận của các nhà XKTS Việt Nam mới dừng ở cấp độ bán buôn và nhà phân phối, chưa đến tận
tay người tiêu dùng. Cho nên thương hiệu thủy sản Việt Nam hầu như không hiện diện trên sản
phẩm của chính mình mà thay vào đó là các nhãn hiệu Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ chủ yếu biết
đến sản phẩm qua các nhà phân phối của Mỹ, chứ chưa biết đến thương hiệu sản phẩm thủy sản
Việt Nam, chưa có quan điểm rõ ràng trong việc lựa chọn hàng hóa xuất xứ. Hoạt động xây
dựng và quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam còn rất sơ khai.
3. Nguyên nhân của khó khăn, hạn chế
Về nguyên nhân khách quan
- Thị trường Mỹ là thị trường còn mới mẻ, các doanh nghiệp XKTS Việt Nam chỉ thực sự
mới thâm nhập vào thị trường Mỹ năm 2002 sau khi BTA có hiệu lực. Trong khi đó các đối thủ
cạnh tranh của ta có hệ thống bạn hàng nhập khẩu và phân phối tại thị trường này rất lâu.
- Sự tồn tại các hàng rào thương mại và VSATTP: Các hàng rào phi thuế quan được dựng
lên như quy định về tỷ trọng dư lượng các chất kháng sinh, các vụ kiện chống bán phá giá trong
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 10
những năm qua ở thị trường Mỹ đã cho thấy rõ điều đó. Điều này cản trở hoạt động xuất khẩu
hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Về nguyên nhân chủ quan
- Hệ thống pháp luật về kinh tế - thương mại của Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa tạo ra
một môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động, chưa thống nhất, thiếu đồng bộ,
chồng chéo ở nhiều lĩnh vực gây khó khăn cho việc thực hiện, chưa phù hợp với luật thương
mại quốc tế, BTA.
- Vai trò quản lý của Nhà nước đối với ngành thủy sản còn non yếu, hiệu lực và hiệu quả
quản lý chưa được nâng cao.
- Bộ máy quản lý nhà nước về thương mại và phương thức quản lý tuy đã có nhiều cố
gắng để bắt kịp các thay đổi thường nhật của thị trường Mỹ nhưng nhìn chung hoạt động của
toàn bộ hệ thống vẫn còn khá thụ động, trì trệ. XKTS vào thị trường Mỹ vẫn chưa có được định
hướng rõ ràng và cụ thể, có kế hoạch dài hạn ở tầm vĩ mô. Công tác thu nhập và phổ cập thông

tin, xúc tiến thương mại còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu
- Năng lực của doanh nghiệp còn thấp kém: thiếu am hiểu, thông tin về thị trường Mỹ
- Năng lực chế biến hàng TSXK thấp
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành (Bộ Thủy sản, VASEP) và các doanh
nghiệp, Hiệp hội: Hiện nay, tính liên kết giữa VASEP và các doanh nghiệp hay các doanh
nghiệp với nhau còn lỏng lẻo.

V. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam vào Mỹ
1. Nhóm giải pháp từ nhà nước
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường pháp lý thuận lội cho doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nâng cao khả năng cạch tranh trên thị trường Mỹ. Tiếp tục rà
soát, hoàn thiện, sửa đổi bổ sung và ban hành các Luật xuất khẩu mới. Đẩy mạnh cải cách hành
chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xóa bỏ các thủ tục rắc rối, phiền hà, tạo ra một
môi trường pháp lý ổn định nhằm gây dựng niềm tin cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ
chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu sang Mỹ theo hướng hiệu quả hơn. Khắc
phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước ở cả Trung ương và
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 11
địa phương trong kiểm tra, thanh tra thương mại, gây phiền hà, khó khăn cho các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
- Nâng cao vai trò hỗ trợ của Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản
vào thị trường Mỹ: Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thông tin về thị trường Mỹ, chính sách
xuất nhập khẩu Mỹ, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và xúc tiến thương mại
- Nhà nước hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho XKTS: Nâng cao trình độ dân trí
và học vấn cho ngư dân, chú trọng việc tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương
mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên có tham gia vào mậu dịch quốc tế.
- Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực

đào tạo của trường Đại học Thủy sản Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện nghiên
cứu nuôi trồng thủy sản III để không ngừng phát huy vai trò đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực
có trình độ nghiệp vụ thủy sản cao.
- Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiến bộ, hiện đại
vào sản xuất và chế biến TSXK; đẩy mạnh sự hợp tác liên kết giữa các cơ quan nghiên cứu
khoa học - công nghệ, các trường đại học, viện nghiên cứu thủy sản với các cơ sở sản xuất, chế
biến thủy sản để nhanh chóng ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
- Chủ động và sẵn sàng giúp các doanh nghiệp XKTS đối phó với các rào cản về chống
bán phá giá trên thị trường Mỹ

2. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp
- Tăng cường nghiên cứu thị trường Mỹ, các vấn đề cơ bản mà doanh nghiệp cần nghiên
cứu về thị trường Mỹ là:
o Hệ thống chính trị, Luật thương mại của Mỹ, những qui định điều chỉnh
quan hệ hợp đồng mua bán giữa doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp Mỹ
trong Luật thương mại Mỹ, cùng với những điểm khác biệt so với Luật thương mại
Việt Nam. Ngoài ra, cần phải nắm vững được luật và các qui định về thuế và hải
quan của Mỹ như danh bạ thuế, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, qui định về xuất
xứ hàng nhập khẩu, qui định về nhãn hiệu hàng hóa nhập khẩu, cơ sở tính thuế hải
quan…
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 12
o Nắm vững thông tin về hệ thống phân phối thủy sản của thị trường Mỹ, về
đối thủ cạnh tranh, xem xét những mặt hàng xuất khẩu, xem xét hệ thống phân phối
và những biện pháp nâng cao sức cạnh tranh hàng thủy sản.
- Tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu vào thị trường Mỹ
o Các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo. Đây là hình thức phổ biến có hiệu
quả cao nhất trong xúc tiến xuất khẩu được tiến hành dưới các hình thức: Tivi, radio,

báo, trang web, catalogue, pano, áp phích…
o Khai thác tối đa sự trợ giúp của Thương vụ Việt Nam tại Mỹ và Văn
phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam. Đây có thể coi là giải pháp hiệu quả nhất và tiết
kiệm chi phí, phù hợp với năng lực của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khi triển
khai xúc tiến thương mại cho xuất khẩu.
o Chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia các hội chợ
triển lãm, hội nghị, hội thảo.
o Tranh thủ sự tài trợ của Nhà nước bằng việc tham gia vào các đoàn của
Chính phủ và của các Bộ về xúc tiến thương mại, chủ động chuẩn bị tham gia trưng
bày giới thiệu hàng hóa và thiết lập các đầu mối giao dịch bán hàng tại trung tâm
thương mại Việt Nam ở nước ngoài do Nhà nước đầu tư xây dựng.
- Thiết lập các kênh phân phối xâm nhập vào thị trường Mỹ:
Việc thiết lập các kênh phân phối theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài có tầm
quan trọng đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Thực vậy, một doanh nghiệp muốn đi đến sự thành
công trong hoạt động cạnh tranh xuất khẩu nhất thiết phải xây dựng, lựa chọn, hoàn thiện hệ
thống phân phối cho các sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Có hai loại kênh phân phối chủ yếu trong kinh doanh XKTS tại Mỹ, là kênh phân phối
trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp. Ở Mỹ hệ thống các cửa hàng bán sỉ và bán lẻ đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phân phối. Người tiêu dùng Mỹ hoàn toàn tin tưởng gần như tuyệt
đối và có thói quen mua sắm tại các trung gian phân phối nổi tiếng. Đối với mặt hàng thủy sản
chủ yếu được bán ở các chợ, siêu thị và nhà hàng.
- Nâng cao tính cạnh tranh của hàng TSXK
o Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến phải dựa trên cơ sở dự báo xu thế phát
triển khoa học công nghệ, nhu cầu thị trường và thị hiếu thực phẩm, nhằm giúp đỡ
doanh nghiệp khai thác có hiệu quả.
[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 13
o Xây dựng và áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP

o Đa dạng hóa sản phẩm TSXK phù hợp với nhu cầu của thị trường Mỹ
nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng đồng thời cho phép
tận dụng năng lực hiện có và phân tán độ rủi ro trong xuất khẩu.
o Phát triển các mặt hàng giá trị tăng cao: Hiện nay hàng hóa có giá trị gia
tăng cao bao gồm các sản phẩm chế biến sẵn, các sản phẩm ăn liền: tôm bao bột,
tôm hấp, tôm luộc, mực Sashimi, mực cắt khoanh, các sản phẩm từ thịt ghẹ sống,
thịt ghẹ chín… Ngoài ra còn có các loại thủy đặc sản cao cấp như yến sào, cua
huỳnh đế đông lạnh, ngọc trai, agar
- Nâng cao tính cạnh tranh về giá cả thủy sản: Trong thương mại quốc tế, giá cả là một
nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp Việt Nam trong việc thâm
nhập vào thị trường. Thủy sản là mặt hàng thực phẩm nên yêu cầu về chất lượng về VSATTP
cần phải đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, giữa chất lượng và giá cả luôn có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Giá cả phản ánh chất lượng tương ứng của sản phẩm vì thế một trong những giải
pháp để nâng cao tính cạnh tranh về giá cả thủy sản trước hết là coi trọng việc nâng cao chất
lượng sản phẩm thủy sản.
- Nâng cao tính cạnh tranh về thương hiệu: Trên thị trường, cạnh tranh đang trở thành
cuộc chiến giữa các thương hiệu chứ không phải đơn thuần chỉ là cạnh tranh về giá cả và chất
lượng. Hiện nay các mặt hàng TSXK chưa có thương hiệu riêng trên thị trường Mỹ mà phần
lớn vào thị trường Mỹ thông qua trung gian hoặc dưới dạng gia công cho các thương hiệu nổi
tiếng nước ngoài. Vấn đề xây dựng bảo vệ và nâng cao sức cạnh tranh của thương hiệu đối với
các doanh nghiệp thủy sản đã và đang là một vấn đề nóng bỏng khi một số thương hiệu của
Việt Nam bị đánh mất như nước mắm Phú Quốc, Cafe Trung Nguyên, đặc biệt khi xảy ra vụ
kiện của CFA về thương hiệu "catfish", hơn bao giờ hết đòi hỏi các doanh nghiệp XKTS Việt
Nam cần có một cái nhìn chiến lược về xây dựng, phát triển, quảng bá và bảo vệ thương hiệu
ngay từ thị trường trong nước.
- Chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực: Các doanh nghiệp XKTS thực sự có năng
lực trước hết là đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp giỏi, có tư duy chiến lược đúng đắn và có
những khả năng xử lý tốt những tình huống bất ngờ xảy ra do sự thay đổi về môi trường và thị
trường.
o Nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ marketing, kỹ năng giao tiếp.

[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 14
o Các doanh nghiệp XKTS cần phải tranh thủ các nguồn hỗ trợ tài chính của
Nhà nước và các tổ chức quốc tế trong công tác đào tạo, mặt khác doanh nghiệp
XKTS cần chủ động bố trí kinh phí để đào tạo các chuyên gia giỏi theo yêu cầu của
doanh nghiệp.
o Cử cán bộ đào tạo tại chính thị trường Mỹ hoặc tham gia liên doanh, liên
kết với các doanh nghiệp Mỹ để tranh thủ học tập được kinh nghiệm quản lý của
chính các chuyên gia giỏi trong các doanh nghiệp XKTS của Mỹ. Đây là việc làm
rất tốn kém về kinh phí nhưng cũng rất cần thiết để đẩy mạnh XKTS Việt Nam
trong tương lai và vượt qua các rào cản về trình độ kinh doanh trong ngắn hạn.























[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

 GS-TS Hoàng Thị Chỉnh, PGS-TS Nguyễn Phú Tụ, ThS Nguyễn Hữu Lộc, Giáo trình
Kinh tế Quốc Tế, tái bản lần 3, NXB thống kê
 Wikipedia, “Xuất khẩu thủy sản Việt Nam”
 Báo cáo xuất khẩu thủy sản Việt Nam, www.vasep.com.vn
 Nguyễn Hữu Dũng (2004), "Cá tra, cá basa Việt Nam không thua", Thương mại Thủy
sản
 Năm 2009 – “Xuất khẩu thủy sản vượt qua suy thoái”,
/>qua-suy-thoai.htm
 “Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ”, Bộ Công Thương,
/>nam.gplist.294.gpopen.168998.gpside.1.gpnewtitle.tinh-hinh-xuat-khau-thuy-san-cua-viet-nam-sang-
hoa-ky asmx














[TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ]
March 11, 2014

Page 16



MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
I. Giới thiệu 2
II. Lý thuyết kinh tế quốc tế 2
III. Hiện trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Mỹ 3
1. Về kim ngạch xuất khẩu 3
2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 5
IV. Thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân 8
1. Thuận lợi 8
2. Khó khăn 8
3. Nguyên nhân của khó khăn, hạn chế 9
V. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam vào Mỹ 10
1. Nhóm giải pháp từ nhà nước 10
2. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15


×