Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 125 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ LIÊN






THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆ
T NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2014


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THỊ LIÊN





THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM


Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh





HÀ NỘI - 2014

3




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn cha từng đợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác
.

Tác giả luận văn


Trần Thị Liên











4
MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN
TRẺ EM VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM


7
1.1. Khái niệm trẻ em, quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em 7
1.1.1.

Khái niệm về trẻ em 7
1.1.2.


Quyền trẻ em 9
1.1.3.

Bảo vệ quyền trẻ em 12
1.1.4.

Hệ thống bảo vệ trẻ em 13
1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em 13
1.2.1.

Luật pháp quốc tế 13
1.2.2.

Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em 18
1.3. Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 23
1.3.1.

Khái niệm thanh tra 23
1.3.2.

Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 26
1.4. Mô hình thanh tra bảo vệ quyền trẻ em của một số quốc gia
trên thế giới
36
1.4.1.

Mô hình thanh tra viên vì trẻ em (Ombudsman for Children) 36
1.4.2.


Hoạt động thanh tra vì trẻ em của tổ chức phi chính phủ (NGO) 37
1.4.3.

Những kinh nghiệm về thanh tra quyền trẻ em trên thế giới có
thể được áp dụng ở Việt Nam
38
5
Chương 2:
THỰC TRẠNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ
EM HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

42
2.1. Tổ chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em ở
Việt Nam
42
2.1.1.

Giai đoạn 1990-2008 42
2.1.2.

Giai đoạn từ khi Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em giải thể
đến nay (năm 2008-nay)
44
2.2. Kết quả thanh tra về quyền trẻ em của thanh tra Lao động -
Thương binh và Xã hội
47
2.2.1.

Trong công tác tham mưu, tham gia xây dựng chính sách,
pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em

47
2.2.2.

Tiếp công dân, xử lý thư đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo
liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em
47
2.2.3.

Kết quả hoạt động thanh tra về quyền trẻ em 48
2.2.4.

Đánh giá chung kết quả thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em 54
2.3. Những hạn chế, bất cập trong thanh tra quyền trẻ em hiện nay 56
2.3.1.

Hạn chế từ các quy định pháp luật 56
2.3.2.

Hạn chế về nhận thức

74
2.3.3.

Hạn chế về mô hình tổ chức của Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội
77
2.3.4.

Hạn chế về nguồn nhân lực của thanh tra ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội

79
2.3.5.

Hạn chế về thẩm quyền của thanh tra Lao động - Thương binh
và Xã hội
84
2.3.6.

Thiếu cơ chế phối hợp về thu thập thông tin, kiểm tra, thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em
85
2.4. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trên 87
Chương 3:
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM

90
3.1. Yêu cầu khách quan nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra
về bảo vệ quyền trẻ em
90
6
3.1.1.

Bảo đảm thực hiện quyền, lợi ích trẻ em 90
3.1.2.

Bảo đảm nguyên tắc pháp chế, kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động của thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
91
3.1.3.


Xuất phát từ những tồn tại, thiếu sót của hoạt động thanh tra
về bảo vệ quyền trẻ em
92
3.1.4.

Phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính 92
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra về bảo vệ
quyền trẻ em
93
3.2.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật 93
3.2.2.

Hoàn thiện, đổi mới tổ chức Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội và hoạt động thanh tra bảo vệ quyền trẻ em
100
3.2.3.

Tăng cường số lượng, nâng cao năng lực và đảm bảo điều
kiện làm việc đội ngũ công chức thanh tra ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội
105
3.2.4.

Phân định rõ thẩm quyền thanh tra, bảo vệ, chăm sóc trẻ em
giữa các cấp, các ngành
109
3.2.5.


Tăng cường mối quan hệ phối hợp và trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức khác trong hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em
110

KẾT LUẬN
112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
114
7

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tổng hợp kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải
quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em
từ 2011-2013
47
2.2 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của
pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại
doanh nghiệp của Thanh tra Bộ từ 2011-2013
49
2,3 Tổng hợp kết quả thanh tra việc chấp hành quy định của
pháp luật đối với người lao động chưa thành niên tại
doanh nghiệp của Thanh tra Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội các tỉnh từ 2011-2013

50



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ Trang
2.1 Tổ chức bộ máy Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hiện nay
45

8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước. Vị trí của trẻ em đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau
các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" [28]. Ngày nay, tư tưởng đó
của Bác Hồ vẫn tiếp tục được kế thừa, phát triển và hoàn toàn phù hợp với tư
tưởng của thời đại "Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai". Vì vậy, bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Sự nghiệp
ấy đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Nhà nước, kết hợp chặt chẽ
giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Điều này được thể hiện trong từng bước
xây dựng và hoàn thiện nhiều chính sách, pháp luật nhằm tạo một hành lang
pháp lý cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Do đó, công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta trong những năm qua có nhiều
chuyển biến đáng khích lệ, các quyền của trẻ em đã và đang được cải thiện về
nhiều mặt [17].

Trẻ em tự mình không thực hiện được các quyền mà phải dựa vào
người lớn. Việc thực hiện quyền trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào trách nhiệm
của gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Mặc dù đã có sự nỗ lực rất lớn của các cấp, các ngành song sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc trẻ em đang đứng trước những thách thức cam go, nhất là các yếu tố
nảy sinh do mặt trái của nền kinh tế thị trường mang lại. Khoảng cách giàu,
nghèo, phân biệt về giới giữa các gia đình, giữa các vùng vẫn có xu hướng gia
tăng làm cho nhiều trẻ em rơi vào cảnh thất học, nhiều trẻ em phải xa gia đình
để kiếm sống; các áp lực về kinh tế, xã hội, lối sống thực dụng hay sự suy đồi
của đạo đức làm tăng thêm nguy cơ trẻ em lang thang, trẻ em bị buôn bán, bị
xâm hại tình dục, bị bóc lột sức lao động, bị bạo hành cả trong nhà trường, gia
đình và ngoài xã hội.
9
Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ với khoảng hơn 25 triệu trẻ em,
chiếm khoảng gần 29% dân số. Trong đó, số trẻ mồ côi không nơi nương tựa
và số trẻ em bị bỏ rơi là 126.248; số trẻ em khuyết tật là 326.327; số trẻ em là
nạn nhân chất độc hóa học là 22.559; số trẻ nhiễm HIV/AIDS là 5.704 em; trẻ
em làm việc xa gia đình là 6.056, số trẻ em bị tai nạn thương tích là
13.594 [5], [47], [48]. Chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dân số với nhiều nhóm
đối tượng trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong khi đó, hệ thống bảo vệ, chăm
sóc còn nhiều yếu kém, lạc hậu, kiến thức, trách nhiệm của những người
chăm sóc trẻ em của gia đình và cộng đồng chưa bắt kịp thời tốc độ phát triển
dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em trong gia đình, cộng đồng và những người
chăm sóc trẻ em bị giảm sút; hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ quyền trẻ
em liên tục điều chỉnh; mạng lưới cán bộ, cộng tác viên, tình nguyện viên
tham gia công tác bảo vệ quyền trẻ em không ổn định nên việc cập nhật kiến
thức và kỹ năng bảo vệ quyền trẻ em rất hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát
về bảo vệ quyền trẻ em còn rất ít Tất cả các yếu tố đó đã và đang trở thành
rào cản trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở nước ta hiện nay; đồng
thời, đây cũng là những thách thức không nhỏ đối với những người làm công

tác bảo vệ trẻ em, trong đó có công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em.
Trước tình hình đó, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em được xem là yêu
cầu cấp thiết trong hoạt động quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
Là một trong các nhiệm vụ của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em thời gian qua đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận góp phần phát huy được những yếu tố tích cực, phát hiện
được nhiều hiện tượng tiêu cực, từ đó có hướng xử lý kịp thời, nghiêm minh,
đảm bảo pháp luật. Qua thanh tra cũng kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
nhiều chính sách trong công tác bảo vệ quyền trẻ em cho phù hợp. Tuy vậy,
đây là một lĩnh vực quản lý rộng, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức và
mang tính "xã hội", nên thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em còn tồn tại nhiều
10
hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện. Bên cạnh hệ thống luật pháp, chính
sách còn nhiều "lỗ hổng" thì thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hoạt động chưa
hiệu quả, cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ quyền trẻ em còn
quá ít về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng so với yêu cầu quản lý nhà
nước, các điều kiện để thực hiện công tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em
còn nhiều thiếu thốn, chưa có cơ chế phối hợp nhằm tập hợp sức mạnh giữa
các cơ quan, tổ chức trong hoạt động này… Do đó, việc nghiên cứu công tác
thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em để góp phần điều chỉnh, sửa đổi cơ chế,
chính sách nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước và nhu cầu ngày
càng cao của sự nghiệp bảo vệ trẻ em càng trở nên cần thiết.
Mặt khác, hiện nay ở nước ta, chưa có một công trình khoa học hay
một đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về thanh tra bảo vệ quyền trẻ em. Vì
thế, trước yêu cầu cấp thiết của công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, tôi chọn: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn
làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao công
tác thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ
trẻ em nói chung hiện nay ở nước ta.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây, đã có một số nghiên cứu chuyên khảo về lĩnh vực bảo vệ
quyền trẻ em như: "Pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam", Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia (1994); "Những điều cần biết về quyền trẻ em", của Vũ
Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996); Bộ tài liệu về lao động
trẻ em của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2009); Bộ tài liệu thanh tra
về lao động trẻ em - Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(2012) Một số công trình nghiên cứu về công tác thanh tra như: "Nâng cao
năng lực hệ thống thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội", Đề án
của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (2013); "Các công
11
ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam",
Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Hoàng Phương (2010); "Hoàn thiện
pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế",
Luận văn tiến sĩ Luật học, của Trần Thắng Lợi (2012). Hay một số bài viết:
"Luật pháp quốc tế về quyền tham gia của trẻ em", Tạp chí Lao động - xã hội
(2013); "Nâng cao nhận thức trong bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em", Tạp
chí Gia đình - Trẻ em (2014)…
Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm, các nghiên cứu mới chỉ mang tính
chất chuyên đề, nghiên cứu chủ yếu về một vài nhóm quyền trẻ em, hoặc
nghiên cứu ở tầm vĩ mô về hệ thống thanh tra ngành nói chung mà chưa có
một nghiên cứu toàn diện, đầy đủ thuộc lĩnh vực thanh tra về bảo vệ quyền trẻ
em. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và thanh tra
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Luận văn dự kiến nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thanh
tra bảo vệ quyền trẻ em; đồng thời đánh giá thực trạng công tác thanh tra bảo

vệ quyền trẻ em ở Việt Nam và gợi mở một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng của hoạt động này.
* Mục đích
Với mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là:
- Tổng hợp và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền trẻ
em, bảo vệ quyền trẻ em, thanh tra, tổ chức thanh tra và hoạt động của thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em nằm trong tổng thể Thanh tra Lao động - Thương
binh và Xã hội; có tham khảo mô hình tổ chức thanh tra vì trẻ em của một số
nước trên thế giới.
12
- Phân tích thực trạng công tác thanh tra bảo vệ quyền trẻ em hiện nay
ở Việt Nam, đánh giá những thành tựu đã đạt được và đặc biệt là những hạn
chế, vướng mắc của công tác này, có lý giải các nguyên nhân cụ thể dẫn đến
các hạn chế, vướng mắc đó.
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức
và hoạt động cùng các điều kiện để thực hiện mô hình đó nhằm mục đích cuối
cùng là đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra về bảo vệ
quyền trẻ em nói riêng và quản lý nhà nước trong lĩnh vực Lao động - Thương
binh và Xã hội nói chung.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: "Thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em trong điều kiện
hiện nay ở Việt Nam" - được nghiên cứu với tư cách là một trong những hoạt
động thuộc phạm vi thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên
phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu vấn đề thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em một
cách khách quan dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của

Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách hành chính.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện mục đích và nội dung nghiên cứu trên, luận văn sử dụng
các phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, so
sánh, thống kê và một số phương pháp khác.
Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo
sát, các báo cáo, kết luận thanh tra, báo cáo thống kê về nguồn nhân lực
13
Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Thanh tra Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội các địa phương từ năm 2010 đến năm 2013.
5. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Với các kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn
có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong việc đúc kết một số vấn đề lý luận về
thanh tra bảo vệ quyền trẻ em; đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra bảo vệ
quyền trẻ em; đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hiệu quả
hoạt động của thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và tổ chức, hoạt
động của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội nói chung, đáp ứng
yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Đặc biệt, tác giả có tham khảo một số mô hình tổ chức bảo vệ quyền
trẻ em trên thế giới, rút ra một số điểm có thể áp dụng tại Việt Nam, nhằm
mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra về bảo
vệ quyền trẻ em thuộc lĩnh vực mà tác giả luận văn đang công tác.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả
các cán bộ, công chức trong ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc
bất kỳ ai quan tâm đến công tác thanh tra cũng như làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy lĩnh vực này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em và thanh
tra bảo vệ quyền trẻ em.
Chương 2: Thực trạng thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em hiện nay ở
Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thanh
tra về bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam.
14
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
VÀ THANH TRA VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM

1.1. KHÁI NIỆM TRẺ EM, QUYỀN TRẺ EM VÀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.1.1. Khái niệm về trẻ em
Tùy vào góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể, khái niệm trẻ em
được hiểu ở nhiều cách khác nhau.
Triết học xem trẻ em là một "khâu" tất yếu trong mối quan hệ biện
chứng với tiến trình phát triển của xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ
em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Sự phát triển của xã hội, tương lai của
một quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn
đầu của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân
cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội
dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Theo đó, tâm lý học
phân chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển
và tiếp thu nhận thức khác nhau: Tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ,
tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thành niên mới lớn [21].
Xã hội học lại xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác
với người đã trưởng thành. Trẻ em là người chưa đạt đến sự phát triển đầy đủ
về mặt thể chất và tinh thần để được coi là người lớn. Do đó, trẻ em được xã
hội quan tâm, tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát

triển một cách toàn diện.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ
tuổi. Trên cơ sở độ tuổi, pháp luật xác định năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dành cho chủ thể đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, một cá nhân
được xem xét là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào ngày tháng năm sinh của
15
người đó tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật. Hiện nay trên thế giới, độ
tuổi để xác định một cá nhân là trẻ em có sự khác nhau, tùy thuộc vào mỗi quốc
gia, mỗi nền văn hóa-xã hội. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
năm 1989 xác định: "Trẻ em là người dưới 18 tuổi". Tương tự, hầu hết các quốc
gia Châu Âu, Bắc Mỹ đều xác định độ tuổi dưới 18 tuổi là trẻ em [48], [60].
Khoa học pháp lý Việt Nam hầu như chưa đưa ra một khái niệm cụ
thể nào về sự điều chỉnh pháp luật chung đối với trẻ em mà chỉ một số ngành
luật cụ thể đề cập đến các khái niệm liên quan đến trẻ em. Nhưng nhìn chung,
tương đồng với các quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng xác định
một cá nhân là trẻ em thông qua độ tuổi tại thời điểm xác định. Theo quy định
tại Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì "Trẻ em là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi". Theo quy định này, trẻ em có hai đặc trưng, một là
công dân Việt Nam và hai là độ tuổi được xác định là dưới 16 [5], [12], [38].
Như vậy, có thể rút ra khái niệm như sau:
Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển của con người
tính từ lúc sinh ra cho đến trước giai đoạn trưởng thành (thường dưới 18
tuổi), có thể chất, tâm sinh lý phát triển chưa đầy đủ cần được bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục để phát triển.
Bên cạnh khái niệm trẻ em, trong khoa học pháp lý Việt Nam đã và
đang sử dụng khái niệm người chưa thành niên. Hầu hết các ngành luật sử
dụng khái niệm này như Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật
Hành chính… Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 nêu định nghĩa về người chưa
thành niên: "Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên". Trên cơ
sở khái niệm được đã đưa ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định năng lực hành vi

dân sự của người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi [39, Điều 20] và người chưa đủ mười sáu tuổi là người không có năng lực
hành vi dân sự [39, Điều 21]. Bộ luật Hình sự trên cơ sở cách hiểu đồng nhất
với quan điểm của Bộ luật Dân sự, tuy không đưa ra khái niệm thế nào là
16
người chưa thành niên, nhưng có quy định về trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười sáu tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm [37, Điều 12]. Như vậy trong pháp luật Việt Nam, để phân
biệt hai khái niệm trên, có thể thấy rằng: Việc căn cứ để xác định một người
là trẻ em hay là người chưa thành niên đều dựa vào độ tuổi được xác định của
người đó. Cũng dựa vào độ tuổi được xác định đó, khái niệm trẻ em nằm
trong khái niệm người chưa thành niên. Hay nói cụ thể hơn, trẻ em trong pháp
luật Việt Nam nằm trong nhóm người chưa thành niên dưới mười sáu tuổi.
Theo pháp luật quốc tế, cách hiểu người chưa thành niên được hiểu là đồng
nhất với khái niệm trẻ em trên cơ sở xác định độ tuổi dưới 18.
1.1.2. Quyền trẻ em
Quyền là một khái niệm được dùng để miêu tả một nguyên tắc có liên
quan đến những lợi ích cơ bản mà con người được hưởng, không phân biệt
đặc điểm hay hoàn cảnh của cá nhân đó [59].
Việc công nhận quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân đồng
nghĩa với trách nhiệm của những người khác trong việc hành động để thực
hiện quyền của một cá nhân hay một nhóm cá nhân [12], [59].
Trước đây, quan niệm cho rằng, trẻ em do còn non nớt về thể chất và
tinh thần, nên quyền trẻ em bao gồm những biện pháp nhằm che chở, bảo vệ
khỏi mọi sự xâm hại; trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc một cách đặc
biệt. Tuy nhiên, cách tiếp cận này vô hình chung đã coi trẻ em là đối tượng
phụ thuộc, phải chịu sự chi phối hoàn toàn này không xuất phát từ góc độ
"quyền của trẻ em" mà việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em như một sự bao dung,

che chở, sự thương hại, ban ơn.
Hiện nay, quan điểm về quyền trẻ em mang tính tiến bộ và tích cực
hơn. Trẻ em được nhìn nhận là một chủ thể trong các mối quan hệ xã hội, mỗi
17
trẻ em là một cá thể được xã hội công nhận, do đó trẻ em cũng có quyền cơ bản
của con người; các quyền của trẻ em được pháp luật tôn trọng và bảo vệ một
cách đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, trẻ em được hưởng một số quyền đặc thù mà chỉ
trẻ em mới có như quyền được khai sinh, được áp dụng các biện pháp xử lý nhẹ
hơn khi vi phạm hành chính hay được áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn người
đã trưởng thành khi có cùng một hành vi phạm tội…Trẻ em cũng có nhiều
quyền ưu tiên hơn người lớn như quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được
chăm sóc, được học tập, được bảo vệ, được tạo điều kiện để vui chơi… [19].
Theo cách hiểu của quốc tế, quyền trẻ em là quyền con người của trẻ
em, bao gồm bốn nhóm quyền cơ bản là nhóm quyền sống còn, nhóm quyền
phát triển, nhóm quyền được bảo vệ và nhóm quyền được tham gia. Nhóm
quyền sống còn bao gồm quyền của trẻ em được sống và đáp ứng những nhu
cầu cơ bản nhất để tồn tại như có mức sống no đủ, có nơi ở, dinh dưỡng và
chăm sóc sức khỏe… Nhóm quyền phát triển bao gồm những điều kiện mà trẻ
em cần có để phát triển đầy đủ nhất như quyền được hưởng giáo dục tiến bộ,
vui chơi giải trí lành mạnh, tiếp cận thông tin, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giữ
gìn bản sắc dân tộc… Nhóm quyền được bảo vệ các quyền trẻ em được bảo
vệ tránh mọi phân biệt đối xử, lạm dụng và bóc lột, được bảo vệ trước các tệ
nạn xã hội như buôn bán trẻ em, xâm phạm tình dục, nghiện ma túy, bạo lực;
bảo vệ trẻ em khỏi bị tra tấn, lạm dụng khi vi phạm pháp luật hình sự, không
bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang, lao động nặng nhọc,
độc hại, nguy hiểm Nhóm quyền tham gia bao gồm những điều kiện cho trẻ
em nhiều cơ hội tham gia vào công tác xã hội, đóng vai trò tích cực trong
cộng đồng và đất nước mình, bao gồm sự tự do diễn đạt, bày tỏ ý kiến và
quan điểm về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của các em, được tự
do tham gia hội họp hòa bình.

Việt Nam là một trong số các quốc gia rất chú trọng đến bảo vệ quyền
con người nói chung, trong đó có quyền trẻ em. Việt Nam cũng là nước thứ
18
hai trên thế giới, quốc gia đầu tiên tại Châu Á phê chuẩn Công ước quyền trẻ
em. Các quyền trẻ em tại Việt Nam được ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện và cụ
thể hóa thông qua nhiều quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau và được cụ thể hóa bằng nhiều chương trình hành động, bao gồm
các nhóm quyền: Quyền có quốc tịch và được khai sinh, quyền được chăm
sóc, nuôi dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được tôn trọng, bảo vệ
tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự, quyền được chăm sóc sức khỏe,
quyền được học tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thể dục, thể thao, du lịch, quyền được phát triển năng khiếu, quyền có tài sản,
quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Mỗi nhóm quyền lại được cụ thể hóa tại nhiều chế định pháp luật riêng nhằm
cụ thể hóa các quyền đó thông qua việc quy định quyền của trẻ hoặc các hành
vi cấm thực hiện để đảm bảo quyền của trẻ. Ví dụ, đối với nhóm quyền được
tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em được
cụ thể hóa bằng các quyền như: Trẻ em được pháp luật tôn trọng, bảo vệ tính
mạng; cấm các hành vi xâm phạm đến thân thể, danh dự của trẻ như ngược
đãi, đánh đập, bạo hành thể chất và tinh thần trẻ; cấm hành vi mua bán trẻ em
dưới mọi hình thức; cấm sử dụng lao động trẻ em làm những công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm…So sánh giữa cách hiểu về quyền trẻ em ở Việt
Nam so với quốc tế, có thể thấy rằng, các quyền trẻ em tại Việt Nam là tương
đối phù hợp và hài hòa với quyền trẻ em được quy định tại các công ước quốc
tế. Đánh giá vấn đề này, Tổ chức Unicef tại Việt Nam nhận định: "Việt Nam
đã có những nỗ lực đáng kể trong việc tạo khuôn khổ pháp lý thực hiện các
quyền trẻ em, luật pháp và chính sách liên quan của Việt Nam ngày càng
tương thích với các chuẩn mực quốc tế…" [48].
Như vậy, quyền trẻ em chính là những nhu cầu cơ bản của trẻ em
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trẻ em được hưởng mọi quyền và mọi tự

do đã được nêu trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con
19
người mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc
mối tương quan khác. Trẻ em là người chưa trưởng thành nên có quyền được
chăm sóc và bảo vệ sự sống, tồn tại và phát triển.
1.1.3. Bảo vệ quyền trẻ em
Bảo vệ quyền trẻ em là các biện pháp nhằm đảm bảo quyền trẻ em
được thực hiện một cách đầy đủ. Do đặc điểm về sự phát triển chưa đầy đủ về
cả tâm, sinh lý của trẻ em, nên việc bảo vệ quyền trẻ em chính là việc bảo vệ
các quyền về chăm sóc, bảo vệ sự tồn tại và phát triển của trẻ từ khi sinh ra
đến khi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người trưởng thành.
Ở cấp độ chung, bảo vệ quyền trẻ em là trách nhiệm của mọi công dân
trong một xã hội đối với việc bảo vệ sự an toàn và chăm sóc trẻ em; những
hành động giúp đỡ trẻ em khi một trẻ em có nguy cơ bị tổn hại hoặc đang bị
tổn hại và loại trừ những yếu tố trong môi trường chăm sóc có thể gây tổn hại
cho trẻ được coi là bảo vệ quyền trẻ em.
Ở cấp độ cụ thể hơn, bảo vệ quyền trẻ em đề cập đến những dịch vụ
được cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và các tổ chức
phi chính phủ. Những dịch vụ này trực tiếp hướng tới việc giúp đỡ cho các
gia đình và cộng đồng để thực hiện việc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời trực
tiếp can thiệp khi một trẻ em bị tổn hại hoặc có nguy cơ bị tổn hại và cung cấp
dịch vụ can thiệp được thiết kế để kiểm soát, thay đổi và hỗ trợ cho môi
trường chăm sóc trẻ trong việc đáp ứng các nhu cầu chăm sóc của trẻ [12].
Như vậy, bảo vệ quyền trẻ em là một thuật ngữ đề cập đến trách
nhiệm của cả cha mẹ, người chăm sóc, cộng đồng và hệ thống dịch vụ của
chính phủ và phi chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ để đảm bảo mọi trẻ
em trong xã hội đều được đáp ứng sáu nhu cầu chăm sóc về thể chất, tình
cảm, tâm lý, nhận thức, xã hội và đạo đức.
20

1.1.4. Hệ thống bảo vệ trẻ em
Hệ thống bảo vệ trẻ em bao gồm tất cả những thành phần của một xã
hội được coi là có trách nhiệm đảm bảo an toàn, chăm sóc và bảo vệ cho trẻ
em. Những thành phần chính trong một hệ thống bảo vệ, chăm sóc trẻ em là
trường học, bệnh viện, trường mẫu giáo, các tổ chức của cơ quan chính phủ,
phi chính phủ có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ liên quan đến trẻ em, môi
trường sống (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội). Tất cả các thành phần
trong hệ thống bảo vệ trẻ em cần phối hợp làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ
em đều được chăm sóc, an toàn và bảo vệ.
Hệ thống bảo vệ trẻ em còn bao gồm tất cả những đường lối, chính
sách, pháp luật và kế hoạch hành động để định hướng cho việc đáp ứng các
nhu cầu về chăm sóc, an toàn và bảo vệ của trẻ em trong một xã hội [12].
Trên cơ sở hệ thống chính sách, pháp luật đó, trong quá trình thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình, thanh tra về bảo vệ quyền trẻ em cũng là một
thành phần nằm trong hệ thống đó, góp phần bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM
1.2.1. Luật pháp quốc tế
1.2.1.1. Tuyên ngôn Giơnevơ, 1924
Quá trình công nghiệp hóa ở châu Âu (thế kỷ XVII - XIX) với sự khủng
hoảng về lao động trong các công xưởng, hầm mỏ đã kéo theo tình trạng bóc
lột sức lao động trẻ em một cách phổ biến. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ I (1914 - 1918) đã đẩy hàng triệu trẻ em vào hoàn cảnh cùng khổ.
Từ năm 1919, một số tổ chức cứu trợ trẻ em đã được thành lập ở Anh và Thụy
Điển, Italia. Những năm tiếp theo, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ban
hành một số Công ước nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực lao động, việc
làm và bảo trợ xã hội. Tuy nhiên, những văn kiện thời kỳ đó chưa đặt vấn đề
dưới góc độ các quyền trẻ em.
Đến năm 1924, khái niệm quyền trẻ em chính thức được đề cập trong
luật pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc
21

liên thông qua. Tại tuyên bố này, vấn đề quyền trẻ em mới được đề cập mang
tính liệt kê cụ thể theo 5 nhóm quyền: 1. Trẻ em phải được phát triển một
cách bình thường cả về thể chất và tinh thần; 2. Trẻ em đói phải được cho ăn,
trẻ ốm phải được chữa trị, trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải
được giáo dục, trẻ mồ côi và lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm
sóc; 3. Khi xảy ra tai họa, trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; 4. Trong đời
sống, trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại
mọi hình thức bóc lột; 5. Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng,
tài năng của chúng phải phục vụ cho đồng bào mình [1], [22], [57].
1.2.1.2. Tuyên bố (thứ hai) của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1959
Trên cơ sở mở rộng, phát triển Tuyên bố Giơ-ne-vơ 1924 và đảm bảo
thực hiện quyền trẻ em, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thống nhất thông qua
bản Tuyên bố (thứ hai) về quyền trẻ em theo Nghị quyết số 1386 (XIV) ngày
20-11-1959, yêu cầu các tổ chức, các quốc gia thành viên đảm bảo thực hiện
tất cả các quyền đối với trẻ em mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng
tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quốc tịch hoặc thành phần
xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các tình trạng khác dù của trẻ hay gia đình trẻ.
So với Tuyên bố Giơ-ne-vơ, Tuyên bố thứ hai 1959 mở rộng nhiều
quyền dành cho trẻ em, đồng thời cũng quy định trách nhiệm đối với gia đình,
xã hội, các cơ quan, tổ chức trong nỗ lực đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em.
Tuyên bố nêu ra 9 nhóm quyền trẻ em như sau: 1. Trẻ phải được chăm sóc
đặc biệt, phải có cơ hội hoặc được tạo điều kiện để giúp trẻ phát triển về thể
chất, tinh thần, đạo đức và xã hội một cách bình thường và lành mạnh, trong
điều kiện tự do và được tôn trọng nhân phẩm. 2. Trẻ em khi sinh ra có quyền
được khai sinh và có quốc tịch. 3. Trẻ em phải được hưởng những lợi ích của
an sinh xã hội, phải có sự chăm sóc và bảo vệ đặc biệt cho cả trẻ em và mẹ
của trẻ một cách đầy đủ trước và sau khi sinh; trẻ em có quyền được hưởng
các dịch vụ đầy đủ về dinh dưỡng, nhà ở, giải trí và y tế. 4. Trẻ em bị tàn tật
22
về thể xác, bị thiếu thốn về tinh thần hoặc xã hội sẽ được đối xử, giáo dục và

chăm sóc đặc biệt theo những yêu cầu đặc thù của trẻ. 5. Trẻ cần phải được lớn
lên trong sự chăm sóc và với trách nhiệm của cha mẹ. 6. Trẻ em có quyền được
hưởng giáo dục miễn phí và bắt buộc, ít nhất là ở bậc tiểu học. 7. Trẻ em phải
nhận sự bảo vệ và cứu giúp. 8. Trẻ em phải được bảo vệ chống lại mọi hình
thức bỏ rơi, ngược đãi và bóc lột. 9. Trẻ em sẽ được bảo vệ khỏi những tập tục
có thể tạo ra mọi hình thức phân biệt chủng tộc và tôn giáo [1], [23], [57].
1.2.1.3. Công ước quốc tế về quyền trẻ em, 1989
Có thể nói rằng, đây là nội dung xuyên suốt, là cơ sở pháp lý cho các
quốc gia thành viên công ước tuân thủ và thực hiện quyền trẻ em tại mỗi quốc
gia. Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được thông qua và ký kết ngày
20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990. Cho tới nay đã có 197 quốc gia
thành viên tham gia. Công ước để ngỏ cho các quốc gia tham gia ký kết, phê
chuẩn và gia nhập. Ngoài lời nói đầu, nội dung của Công ước gồm 3 phần với
54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên quan đến quyền trẻ
em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền của trẻ
em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung. Việt Nam là
nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới (sau Ga-na, 05/2/1990)
phê chuẩn Công ước.
Với bốn nguyên tắc xuyên suốt là: 1. Không phân biệt đối xử (Điều 2);
2. Bảo đảm quyền lợi tốt nhất của trẻ em (Điều 3); 3. Quyền được sống và
phát triển của trẻ em (Điều 6); 4. Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của trẻ em
(Điều 12), Công ước nêu rõ các quyền đối với trẻ em như sau: Quyền được
sống và phát triển; quyền được có họ tên và quốc tịch; quyền được giữ gìn
bản sắc; quyền được sống với cha mẹ; quyền được đoàn tụ với gia đình;
quyền được phòng ngừa việc đưa đi bất hợp pháp và không mang trở về;
quyền được bày tỏ ý kiến; quyền được tự do ngôn luận; quyền được tự do tư
tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền được tự do kết giao và hội họp hòa bình;
23
quyền được bảo vệ sự riêng tư; quyền được tiếp xúc với thông tin thích hợp;
quyền được cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng; quyền được bảo vệ chống lại sự

lạm dụng và sao nhãng; quyền được chăm sóc và bảo vệ khi bị tước mất môi
trường gia đình; quyền được nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ và nhận
sự giúp đỡ nhân đạo đối với trẻ em tị nạn; quyền được hưởng những sự chăm
sóc đặc biệt đối với trẻ em bị thiệt thòi về tinh thần và khuyết tật thể chất;
quyền được hưởng trạng thái sức khỏe cao nhất và các dịch vụ chữa bệnh
phục hồi sức khỏe; quyền được định kỳ xem xét nơi gửi trẻ; quyền được
hưởng an toàn xã hội; quyền có được mức sống đủ để phát triển thể chất, tinh
thần, tâm hồn, đạo đức và xã hội; quyền được học tập; quyền được tiếp thu
một nền giáo dục tiến bộ; trẻ em các dân tộc thiểu số hay bản địa có quyền
được hưởng đời sống văn hóa riêng, theo tôn giáo và sử dụng ngôn ngữ riêng
của mình; quyền vui chơi, giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật; quyền được bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và không phải làm các công
việc nguy hiểm, độc hại; quyền được bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất
ma túy và an thần; quyền được bảo vệ chống bị bóc lột, cưỡng bức và lạm
dụng về tình dục; quyền được bảo vệ chống buôn bán và bắt cóc; quyền được
bảo vệ chống lại những hình thức bóc lột khác; quyền được đối xử nhân đạo
khi bị giam giữ và không bị tra tấn và tước đoạt sự tự do; quyền không phải
trực tiếp tham gia chiến sự khi chưa đến 15 tuổi và được bảo vệ, chăm sóc
khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang; quyền được chăm sóc phục hồi; quyền
được hưởng các biện pháp tư pháp đặc biệt đối với người chưa thành niên; tôn
trọng những tiêu chuẩn cao hơn [1], [2], [25], [57].
1.2.1.4. Một số văn kiện quốc tế khác liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em
Bên cạnh Công ước quốc tế về quyền trẻ em là văn kiện quan trọng
nhất, quy định một cách tổng quát, đầy đủ các quyền trẻ em, Liên hợp quốc và
các tổ chức quốc tế cũng thông qua nhiều văn kiện điều chỉnh riêng biệt đối
với một số quyền dành cho trẻ em, như:
24
- Tuyên bố về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong tình trạng khẩn cấp và
xung đột vũ trang, 1974: Được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
14/12/1974; theo đó tuyên bố khẳng định phụ nữ và trẻ em cần được chăm

sóc đặc biệt; Tuyên bố cũng kêu gọi các quốc gia cần tuân thủ và thực hiện
một cách nghiêm túc quy định về việc cấm sử dụng vũ khí hóa học và vi
khuẩn để mất mát nặng nề cho phụ nữ và trẻ em; việc bỏ tù, tra tấn, bắn giết,
bắt bớ hàng loạt, trừng phạt tập thể, phá hủy nhà ở và bức đoạt nhà ở của phụ
nữ và trẻ em phải được coi là tội phạm [24].
- Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em,
1990: Văn kiện được thông qua ngày 30-9-1990 tại Hội nghị cấp cao thế giới
về trẻ em họp tại trụ sở Liên hợp quốc. Trong đó, Tuyên bố đã nêu lên sự
thách thức về tình hình trẻ em trên thế giới và nêu lên các nhiệm vụ cho các
quốc gia, cụ thể: Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng cho trẻ em; quan
tâm chăm sóc trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đảm
bảo quyền bình đẳng giữa trẻ em nam và trẻ em nữ; đảm bảo cho trẻ em được
học hết bậc giáo dục cơ sở và không có trẻ em nào bị mù chữ; tạo điều kiện
trẻ em lớn khôn và phát triển trên nền móng gia đình [26].
- Công ước số 138 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối
thiểu được đi làm việc, 1973;
- Những quy tắc tối thiểu chuẩn mực của Liên hợp quốc về xử phạt
hành chính tư pháp vị thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), được thông qua bởi
nghị quyết của Đại hội đồng ngày 29/11/1985;
- Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên
quan đến bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp nuôi con nuôi ở
trong và ngoài nước, 1986;
- Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm vị thành niên
được thông quá bởi nghị quyết của Đại hội đồng vào ngày 14/12/1990
(Hướng dẫn Riát);
25
- Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do, 1990;
- Tuyên bố của Hội nghị thế giới chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục
đích thương mại, 1996;

- Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục
đích thương mại, 1996;
- Công ước số 182 của ILO về việc cấm và những hành động tức thời
để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999;
- Khuyến nghị 190 của ILO về việc cấm và loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999.
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em
Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là luôn giành cho trẻ em những gì
tốt đẹp nhất, trẻ em là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; trẻ em là nguồn hạnh phúc gia đình, là tương lai của dân tộc [13]. Trong
khoa học lý luận chung nhà nước và pháp luật chưa có khái niệm thống nhất
về sự điều chỉnh của pháp luật đối với trẻ em. Tuy nhiên, xét một cách chung
nhất, sự điều chỉnh của pháp luật là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp luật nói
chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến trẻ em [29].
Sau đây là tóm tắt những lĩnh vực cơ bản nhất trong một số ngành luật chính
điều chỉnh trực tiếp đến vấn đề bảo vệ quyền trẻ em.
1.2.2.1. Luật Hiến pháp
Hiến pháp - đạo luật gốc, quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội, về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân và các vấn đề lớn mang tầm quốc gia. Qua gần 70 năm
lịch sử lập hiến của đất nước, được ghi nhận bằng năm bản Hiến pháp (1946,
1959, 1980, 1992 và 2013). Trong Hiến pháp, trẻ em được xem là một công
dân, hơn thế là một công dân đặc biệt. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được điều
chỉnh dưới góc độ quyền con người.

×