Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Sơ lược lịch sử giáo dục việt nam và một số nước trên thế giới phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.01 MB, 151 trang )

TÀI LIỆU DÙNG CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
SƠ LƯC LỊCH SỬ
GIÁO DỤC VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI
NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI
Nhóm biên soạn Nguyễn Thò Thái
Huỳnh Thò Mai Phương
Nguyễn Quang Kính
Andrea Gallina
Eberhards Kobler
Trần Phước Lónh
Nguyễn Thò Thái
Vũ Văn Hùng
Bùi Thò Thanh Hiền
Nguyễn Tiến Cương
NHỮNG NGƯỜI BIÊN SOẠN
Biên dòch
Chủ trì biên soạn và hiệu đính
Lời nói đầu
Lời giới thiệu
CHƯƠNG I - SƠ LƯC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
I. Quá trình phát triển giáo dục- Những mốc lòch sử và sự kiện quan trọng
II. Cơ cấu quản lý giáo dục ở Việt Nam
III. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay
IV. Những thách thức đối với giáo dục Việt Nam
V. Cải cách giáo dục là yêu cầu tất yếu - Phương hướng phát triển giáo dục và đào
tạo đến năm 2020
VI. Phụ lục
CHƯƠNG II - SƠ LƯC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA
MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU Á


A. GIÁO DỤC TRUNG QUỐC
I. Sơ lược quá trình phát triển của nền giáo dục Trung Quốc
II. Cơ cấu quản lý giáo dục
III. Khái quát hệ thống giáo dục Trung Quốc
IV. Những cải cách giáo dục trong thời kỳ hiện đại hoá ở Trung Quốc
B. GIÁO DỤC SINGAPORE
I. Sơ lược về Singapore
II. Các giai đoạn phát triển giáo dục của Singapore
III. Khái quát về hệ thống giáo dục Singapore
IV. Chương trình giáo dục phổ thông - Sự thay đổi về mục tiêu đào tạo
V. Những thay đổi tiêu biểu trong giáo dục từ năm 1997
VI. Những thay đổi trong cơ cấu quản lý giáo dục
VII. Các thay đổi trong chương trình giảng dạy của nhà trường và sắp xếp trong lớp
VIII. Mở rộng các cơ hội nghề nghiệp cho giáo viên
C. GIÁO DỤC MALAYSIA
I. Sơ lược quá trình phát triển giáo dục của Malaysia từ những năm 1950
II. Khái quát hệ thống giáo dục Malaysia
III. Những cải cách giáo dục gần đây
D. GIÁO DỤC NHẬT BẢN
I. Sơ lược quá trình phát triển của nền giáo dục Nhật Bản
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC
5
7
9
10
24
26
34

52
56
65
66
66
67
68
72
83
83
86
91
94
96
97
99
104
108
108
112
121
124
124
II. Khái quát hệ thống giáo dục Nhật Bản
III. Chương trình giảng dạy
IV. Giáo viên
V. Thi cử và đánh giá
VI. Những cải cách giáo dục ở Nhật Bản
CHƯƠNG III - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU
VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸƠƠ

A. GIÁO DỤC ANH
I. Sơ lược quá trình phát triển giáo dục ở nước Anh
II. Cơ cấu quản lý giáo dục ở Anh
III Khái quát hệ thống giáo dục Anh
IV. Những cải cách quan trọng trong giáo dục
B. GIÁO DỤC PHÁP
I. Sơ lược quá trình phát triển của nền giáo dục Pháp
II. Quản lý giáo dục ở Pháp
III. Cơ cấu hệ thống giáo dục Pháp
IV. Hệ thống đánh giá trong giáo dục Pháp
V. Các chương trình hỗ trợ người học
VI. Những cải cách chính gần đây
VII. Phụ lục
C. GIÁO DỤC PHẦN LAN
I. Sơ lược quá trình phát triển giáo dục Phần Lan
II. Cơ cấu quản lý giáo dục Phần Lan
III. Khái quát hệ thống giáo dục Phần Lan
IV. Những cải cách trong hệ thống giáo dục
V. Phụ lục: Những lý giải cho thành công của Phần Lan trong PISA
D. GIÁO DỤC HOA KỲ
I. Sơ lược quá trình phát triển của hệ thống giáo dục Hoa Kỳ
II. Quản lý giáo dục
III. Khái quát về hệ thống giáo dục Hoa Kỳ
IV. Hệ thống kiểm tra và đánh giá
V. Những khuynh hướng cải cách giáo dục ở Hoa Kỳ từ những năm 1980
VI. Phụ lục: Chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về dân chủ trong giáo dục Hoa Kỳ
LỜI KẾT
4 MỤC LỤC
126
135

137
146
147
152
153
153
154
155
158
162
162
163
166
173
173
175
179
187
187
189
190
193
194
203
203
204
208
211
212
218

224
5LỜI NĨI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
D
ự án Hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục - Support to the Renovation of Education Management
(sau đây viết tắt là SREM) do Liên minh Châu Âu tài trợ. Dự án có nhiệm vụ hỗ trợ Bộ đẩy
nhanh tiến trình thực hiện đổi mới quản lý giáo dục thông qua việc tăng cường khung pháp lý
cho phân cấp quản lý và thực hiện Luật Giáo dục, đồng thời xây dựng Hệ thống thông tin quản
lý giáo dục, thực hiện tin học hoá quản lý giáo dục và đổi mới phương thức quản lý trên phạm
vi toàn ngành.
Với mục tiêu hỗ trợ hiệu trưởng tăng cường nhận thức về tiến trình đổi mới và nâng cao
năng lực quản lý trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, đồng thời thúc đẩy văn hóa tự học
và học suốt đời của cán bộ quản lý giáo dục, Dự án SREM biên soạn Bộ Tài liệu dùng cho cán
bộ quản lý trường phổ thông. Bộ Tài liệu cung cấp nhiều kiến thức chung về những lónh vực
khác nhau của quản lý giáo dục và những nhiệm vụ riêng trong quản lý trường học, từ cơ bản
đến nâng cao. Ngoài ra, còn giới thiệu quá trình phát triển giáo dục ở Việt Nam và một số nước
trên thế giới, tạo điều kiện cho mỗi hiệu trưởng rút ra bài học kinh nghiệm cho riêng mình, vận
dụng các kiến thức này trong hoàn cảnh thực tế của từng trường.
Khi biên soạn, Dự án SREM cố gắng để Bộ Tài liệu phản ánh được tình hình giáo dục Việt
Nam hiện tại, đồng thời từng bước hòa nhập với các chuẩn giáo dục quốc tế. Dự án đã tham
khảo các tài liệu quản lý giáo dục trong và ngoài nước; hệ thống hóa lại các vấn đề cần thiết
đối với hiệu trưởng, dựa trên cơ sở năng lực cần có của hiệu trưởng để đáp ứng những yêu cầu
quản lý mới. Bộ Tài liệu còn là sự tổng hợp những kiến thức, kinh nghiệm và thực tiễn quản lý
giáo dục mà Dự án thu thập được qua thực tiễn và các hội thảo, giúp hiệu trưởng có tầm nhìn
rộng hơn về xu thế giáo dục hiện nay của nhiều nước trên thế giới.
Bộ Tài liệu gồm 6 cuốn:
1. Sơ lược lòch sử giáo dục của Việt Nam và một số nước trên thế giới;
2. Quản lý nhà nước về giáo dục;
3. Điều hành các hoạt động trong trường học;
4. Giám sát, đánh giá trong trường học;

5. Công nghệ thông tin trong trường học;
6. Quản trò hiệu quả trường học.
Bộ Tài liệu được biên soạn cho hiệu trưởng các trường phổ thông (kể cả các trường ngoài
công lập) và cũng sẽ rất bổ ích đối với các phó hiệu trưởng, những người giúp hiệu trưởng thực
hiện kế hoạch phát triển nhà trường. Các tổ trưởng bộ môn, giáo viên cốt cán, với hy vọng một
ngày nào đó sẽ trở thành hiệu trưởng, cũng rất cần tham khảo tài liệu này. Trong lúc chưa trở
thành hiệu trưởng, việc am tường các nhiệm vụ của hiệu trưởng sẽ giúp họ tích luỹ kiến thức,
kinh nghiệm để phát triển các kỹ năng lãnh đạo; để hỗ trợ và giám sát hiệu trưởng trong việc
đáp ứng các yêu cầu quản lý theo hướng công khai, minh bạch vv.
Dự án hy vọng các cơ sở đào tạo về quản lý giáo dục, thậm chí cả các trường sư phạm cũng
tìm thấy sự hữu dụng trong bộ tài liệu này khi thực hiện các khóa đào tạo sinh viên sư phạm.
6 LỜI NĨI ĐẦU
Dự án tin rằng những người công tác trong ngành giáo dục, từ các cán bộ trong Bộ GD-ĐT,
cho tới các cán bộ công tác tại các Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT và những người tiến hành các
hoạt động nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả hoạt động của trường học cũng sẽ tìm thấy
những nội dung bổ ích trong Bộ Tài liệu này.
Bộ Tài liệu sẽ hỗ trợ các hiệu trưởng nói riêng và các nhà quản lý giáo dục nói chung trong
quá trình phát triển năng lực quản lý của mình. Tuy nhiên, do điều kiện đòa lý, kinh tế và giáo
dục tại các vùng miền của nước ta rất khác nhau, tài liệu không thể bao quát hết và đáp ứng
đầy đủ nhu cầu thực tiễn quản lý cho từng đòa phương. Điều này đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi
cán bộ quản lý trong việc áp dụng linh hoạt vào thực tiễn đòa phương mình, phù hợp với đặc
thù nhà trường và đặc thù giáo dục của vùng miền.
Phương pháp sử dụng tài liệu
Do mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau về trình độ và kinh nghiệm chuyên môn
nên nhu cầu học tập của mỗi người là rất khác nhau. Cách sử dụng phù hợp nhất là tự học theo
những đònh hướng phát triển của bản thân (còn gọi là học tập theo lối mở). Có nghóa là, người
đọc tự chọn thời gian và nội dung muốn học theo thứ tự ưu tiên của chính mình. Nếu tự học,
người đọc cần suy ngẫm về những điều vừa đọc được, so sánh, vận dụng vào thực tế đang diễn
ra. Có thể làm điều này bất cứ lúc nào, khi ở trường, ở nhà, thậm chí trên đường đi công tác.
Theo cách này, người đọc sẽ không phải chòu áp lực từ bên ngoài mà lại có thể tự tìm ra những

gì phù hợp nhất để áp dụng cho bản thân và đơn vò của mình. Tựu chung lại, có thể đọc từng
cuốn trong Bộ Tài liệu theo bất cứ trình tự nào.
Để có thể áp dụng vào thực tiễn trường học của mình, mỗi hiệu trưởng phải tư duy và thực
hành các công việc qua các chủ đề. Cách thực hành này có thể bao gồm những hoạt động như
lập ra các bảng danh mục hoạt động cần kiểm tra, trả lời các câu hỏi, tập hợp dữ liệu và thảo
luận với các đồng nghiệp, các giáo viên trong trường hoặc các hiệu trưởng khác nhằm sưu tầm
thêm các tài liệu về lòch sử và quá trình phát triển ngành giáo dục ở đòa phương mình để cụ thể
hóa các nội dung và tình huống quản lý, tiếp thêm sức sống cho Bộ Tài liệu và làm giàu thêm
lý luận về quản lý giáo dục ở Việt Nam.
Quản lý giáo dục là một lónh vực khó, liên quan đến sự phát triển toàn diện của nhà trường
cũng như của từng cá nhân, đòi hỏi kiến thức sâu rộng, tích hợp nhiều kỹ năng và kinh nghiệm
thực tiễn của mỗi cán bộ quản lý, các nội dung được biên soạn trong tài liệu sẽ là những gợi ý
hữu ích cho những người làm công tác quản lý.
Dự án SREM chân thành cảm ơn sự cộng tác của hàng trăm hiệu trưởng các trường phổ
thông trong toàn quốc, cán bộ quản lý các Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT và các chuyên gia tư vấn
quốc tế đã tham gia xây dựng Bộ Tài liệu này.
Dự án đặc biệt cảm ơn Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã gợi ý Dự án xây
dựng Bộ Tài liệu này.
Dự án mong rằng Bộ Tài liệu sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình đổi mới quản lý giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Hiệu quả của Bộ Tài liệu này với việc nâng cao chất lượng
trường học sẽ chỉ được nhận thấy sau một thời gian, nhưng chắc chắn Bộ Tài liệu sẽ có tác động
ngay tới các hiệu trưởng vì tính cụ thể và thực tiễn của nó.
Giám đốc D án
PHẠM VŨ LUẬN
7LỜI GIỚI THIỆU
M
ục đích của quyển 1 trong Bộ Tài liệu dùng cho cán bộ quản lý trường phổ
thông nhằm cung cấp một số thông tin về quá trình phát triển giáo dục của
Việt Nam, tình hình phát triển giáo dục và xu hướng cải cách giáo dục của một số nước
trên thế giới. Trong quản lý giáo dục, giáo dục đối chiếu được xem là một phương thức

quan trọng giúp nhà quản lý hiểu được các hệ thống giáo dục khác nhau, nắm được các
vấn đề cơ bản về cải cách giáo dục, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong
quá trình phát triển và cải cách. Với việc nghiên cứu giáo dục đối chiếu, chúng ta học
tập được những cách làm hay và hiệu quả, đồng thời tránh được những sai lầm trong cải
cách mà các nước đã trải qua.
Trong cuốn sách này, ngoài giáo dục Việt Nam, chúng tôi còn giới thiệu tám hệ
thống giáo dục tiêu biểu thuộc hai nền giáo dục phương Đông và phương Tây với đặc thù
về hệ thống, trình độ phát triển và xu hướng cải cách giáo dục do những sự khác biệt căn
bản về văn hóa, lòch sử, chính trò cũng như đặc điểm kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Các nước châu Á mà chúng tôi giới thiệu gồm Trung Quốc, Singapore, Malaysia và Nhật
Bản. Các nước phương Tây mà chúng tôi chọn lựa gồm có Anh, Pháp, Phần Lan và Hoa
Kỳ. Đây đều là các quốc gia có sự phát triển giáo dục ở trình độ cao với việc phân cấp,
phân quyền trong quản lý và việc cung cấp những cơ hội giáo dục tốt nhất cho người học.
Bài học rút ra từ thực tiễn giáo dục các nước có thể cho thấy xu hướng giáo dục hiện đại
là thống nhất sự đa dạng bằng việc chuẩn hóa trong đánh giá, đa dạng hóa các loại hình
giáo dục và quản lý; tìm các biện pháp giải quyết khó khăn giữa sự cạnh tranh vượt trội
và bình đẳng trong giáo dục; phát triển giáo dục toàn diện và giáo dục hướng đến những
kỹ năng thực tiễn để giúp người học giải quyết những vấn đề của cuộc sống trong xu thế
toàn cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin.
Trong cuốn sách này, ngoài việc giới thiệu lòch sử phát triển giáo dục, chúng tôi còn
mô tả hệ thống giáo dục và đặc biệt là những vấn đề cải cách cụ thể gần đây của từng
quốc gia với mong muốn làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ quản lý trong quản lý
trường học cũng như trong tiến trình cải cách giáo dục ở Việt Nam.
Do thời gian chuẩn bò tài liệu có hạn, chúng tôi chưa giới thiệu hết những hệ thống
giáo dục và những nỗ lực cải cách giáo dục của tất cả các nước, đặc biệt là Hàn Quốc,
Nga, Đức, Úc, New Zealand, Canada, v.v mặc dù đây là những nước có quan hệ quốc
tế về giáo dục rất gần gũi với Việt Nam. Những tài liệu mà chúng tôi sử dụng khá đa dạng
và gồm nhiều thứ tiếng khác nhau, nên chắc chắn trong quá trình biên soạn và tổng hợp
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự lượng thứ của quý độc giả.
TM. Nhóm biên soạn

NGUYỄN THỊ THÁI
LỜI GIỚI THIỆU
For Better Education Management!
9Chng I - S LC LCH S PHT TRIN GIO DC VIT NAM
CHệễNG I
Sễ LệễẽC LềCH Sệ PHAT TRIEN
GIAO DUẽC VIET NAM
10 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - NHỮNG MỐC LỊCH
SỬ VÀ SỰ KIỆN QUAN TRỌNG
1. Giáo dục Việt Nam trong thời phong kiến và thời thuộc đòa
1.1. Giáo dục Việt Nam trong thời phong kiến
Kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới khi Ngô Quyền xưng vương, đánh tan
quân Nam Hán, chấm dứt hơn nghìn năm Bắc thuộc, hầu như không có tài liệu nói về
giáo dục (với nghóa hẹp là dạy và học chữ). Tuy nhiên, căn cứ vào việc sử sách ca ngợi
công lao của Thái thú Sỹ Nhiếp mở mang việc học tại Giao Chỉ và một số đoạn nói về
một vài người Việt đỗ đạt và làm quan ở phương Bắc, có thể nói trong thời Bắc thuộc
đã có một tầng lớp người Việt biết chữ. Hơn nữa, cùng với việc du nhập đạo Phật, chắc
chắn chùa chiền phải là nơi dạy chữ để đào tạo các nhà sư và truyền bá kinh kệ.
Bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ hai, cùng với việc xây dựng và bảo vệ đất nước, tổ tiên
ta đã dành nhiều công sức phát triển nền giáo dục dân tộc. Cơ sở giáo dục đầu tiên của
Nhà nước phong kiến Việt Nam (được ghi nhận trong sử sách) là Quốc Tử Giám Thăng
Long, do vua Lý Nhân Tông cho thành lập vào năm 1076. Lúc đầu Quốc Tử Giám chỉ
nhằm dạy con cái vua quan, sau mở rộng dần cho những thanh thiếu niên có tư chất
và đủ trình độ trong dân gian. Vào năm 1483, Quốc Tử Giám đã có 300 xá sinh (sinh
viên nội trú) gồm con em gia đình quý tộc, quan lại, chưa kể số con em dân thường,
học giỏi được phép đến nghe giảng (như sinh viên ngoại trú). Về lực lượng giảng dạy,
ngoài những quan chức ở Quốc Tử Giám, triều đình còn cho phép các nhà nho uyên
thâm đến giảng dạy (tương tự giáo sư thỉnh giảng ngày nay). Sau này, triều Nguyễn đóng
đô tại Phú Xuân, đã mở Quốc Tử Giám tại Huế. Ngày nay, Quốc Tử Giám Thăng Long

được xem là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Sau khi mở mang việc dạy học ở
kinh đô, dần dần Nhà nước phong kiến chú ý đến việc tổ chức hoạt động giáo dục ở
đòa phương. Năm 1397, thời vua Trần Thuận Tông, triều đình cho đặt học quan ở các
lộ, phủ lớn (đơn vò hành chính tương đương với cấp tỉnh ngày nay) để lo việc giáo dục.
Đến thế kỷ XV - XVI, nền giáo dục Việt Nam đã phát triển rực rỡ. Các phủ, lộ đều có
trường công.
Đồng thời với việc phát triển hệ thống giáo dục, Nhà nước phong kiến rất quan
tâm tổ chức các kỳ thi, xem đây là biện pháp quan trọng nhằm chọn người tài giỏi
tham gia bộ máy điều hành quốc gia. Năm Ất Mão (1075), dưới thời vua Lý Nhân
Tông, triều đình mở kỳ thi Nho học tam trường để tuyển Minh kinh bác học. Thống
kê từ chính sử, trong thời gian 84 năm (1442 đến 1526), Nhà nước phong kiến đã tổ
chức 26 khoa thi Hội. Theo quy đònh thời đó, trước thi Hội có thi Hương, như vậy tổng
số các kỳ thi lên tới 52, chưa kể cứ sau một kỳ thi Hội còn một kỳ thi Đình để chọn 3
11Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
người đứng đầu và xếp hạng những người trúng tuyển. Năm 1471 (đời vua Lê Thánh
Tông), số quan lại có phẩm tước là 5.370, riêng ở triều đình (Nhà nước Trung ương)
là 2.755, phần lớn được lựa chọn qua thi cử. Các triều đại tiếp theo, việc thi cử vẫn
được duy trì và phát triển với quy mô lớn hơn, kể cả trong thời gian Trònh - Nguyễn
phân tranh. Theo thống kê chưa đầy đủ, tổng số các tiến só, phó bảng và tương đương
(trúng tuyển thi Hội) kể từ khoa thi đầu tiên 1075 đến khoa thi cuối cùng 1919 là
2.848 người.
Cần lưu ý là, các quy đònh về thi cử dưới thời phong kiến hết sức chặt chẽ, chứng
tỏ năng lực quản lý đối với hệ thống giáo dục của các triều vua từ Lý, Trần đến hậu Lê,
Nguyễn rất cao. Kỳ thi Hội năm 1442 có 450 thí sinh, trúng tuyển 33 (chiếm 7,3%).
Kỳ thi Hội năm 1448 có 750 thí sinh, trúng tuyển 27 (chiếm 3,6%). Tuy chuyện buôn
quan, bán tước cũng có lúc xảy ra nhưng việc gian lận trong thi cử thì rất hiếm và đối
với những người có hành vi gian lận trong thi cử dù ở bất kỳ cấp bậc nào cũng đều bò
trừng trò nghiêm khắc. Bằng việc tuyển chọn nhân tài thông qua thi cử, tuy hết sức khắt
khe nhưng lại mang yếu tố dân chủ vì đã tạo được cơ may cho con cái tầng lớp bình
dân. Một điều đặc biệt lý thú là, trong giai đoạn mới thành lập, vương triều Trần cũng

đã tính đến điều kiện học tập không đồng đều giữa các đòa phương, từ đó quy đònh một
kỳ thi có hai trạng nguyên: kinh trạng nguyên cho khu vực thuận lợi và trại trạng nguyên
cho khu vực khó khăn.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân thời phong kiến, bên cạnh một số lượng không
nhiều các trường công, tại nhiều làng xã, đã có những gia đình mời thầy đến ở trong
nhà, dạy con em mình và thanh thiếu niên trong làng. Nhà chủ chòu trách nhiệm chu
cấp cho thầy. Như vậy, từ xa xưa dạy học đã là một nghề. Hơn nữa, theo Nho giáo, đối
với mỗi con người, vò trí của ông thầy chỉ ở dưới vua và trên cả cha mẹ (quân - sư - phụ).
Trong xã hội Việt Nam, quan niệm phổ biến của không ít người là “dù nghèo, cũng cố
cho con học dăm ba chữ để làm người”. Còn để trở thành người lãnh đạo, theo cách lựa
chọn quan lại của hầu hết các triều đại, nhất thiết phải học giỏi và đỗ đạt trong các kỳ
thi (thi văn hoặc thi võ). Cũng nên nhớ rằng, cùng với các kỳ thi chọn tiến sỹ, Nhà nước
phong kiến còn tổ chức các kỳ thi lại viên, tuyển chọn những người biết chữ, biết tính
toán, để làm thuộc lại ở các sảnh, viện, giúp việc cho các quan đầu triều.
Suốt cả nghìn năm, người Việt Nam học chữ Hán (đọc chữ Hán theo cách phát âm
riêng của người Việt) và sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức để ghi chép. Mặc dầu
vậy, nhờ phát triển giáo dục, duy trì và hun đúc ý thức độc lập dân tộc, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc, người Việt đã không bò Hán hoá. Bên cạnh việc sử dụng chữ Hán, người
Việt Nam còn dựa theo chữ Hán chế tác chữ nôm để ghi chép, biểu đạt bằng tiếng
Việt. Người đầu tiên, được sách sử ghi tên, có công đối với việc phát triển chữ nôm
là Nguyễn Thuyên. Ông đã dùng chữ nôm làm bài văn tế đuổi cá sấu, được vua Trần
Nhân Tông cho đổi sang họ Hàn - Hàn Thuyên, ví ông như Hàn Dũ, văn sỹ đời Hán
bên Tàu cũng đã làm văn đuổi cá sấu. Bản thân vua Trần Nhân Tông cũng có bài phú
Cư trần lạc đạo viết bằng chữ nôm. Sau này, nhiều tác phẩm văn chương, lòch sử, y
học, khoa học có giá trò rất lớn đã được viết bằng chữ nôm. Tiêu biểu là Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi, bản dòch Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thò Điểm, Truyện Kiều
của Nguyễn Du.
1.2. Giáo dục Việt Nam thời thuộc Pháp
Từ cuối thế kỷ XIX đến gần nửa thế kỷ XX, trong hơn 80 năm nước ta bò thực dân
Pháp xâm lược. Dưới chế độ thuộc đòa, nền giáo dục Nho học được thay thế dần bằng

nền giáo dục Pháp - Việt, chủ yếu để đào tạo người phục vụ cho bộ máy cai trò của
thực dân. Trong năm học 1936 - 1937, ở vào thời điểm thònh vượng nhất của xứ Đông
Dương, cả nước chỉ có 2.322 trường sơ học (3 năm), bình quân 3 làng, chừng 3.000 dân
có một trường, số học sinh bằng 2% dân số; 638 trường tiểu học (3 năm), bình quân 34
làng, chừng 30.000 dân có một trường, số học sinh bằng 0,4% dân số; 16 trường cao
đẳng tiểu học (4 năm), bình quân 1,2 triệu dân có một trường, số học sinh bằng 0,05%
dân số; 3 trường trung học công và 3 trường trung học tư ở ba thành phố (Hà Nội, Huế,
Sài Gòn), số học sinh trung học công bằng 0,0019% dân số. Năm học 1941 - 1942,
toàn Đông Dương có 3 trường đại học (Luật, Y - Dược, Khoa học) đặt tại Hà Nội với tổng
số 834 sinh viên (628 sinh viên người Việt). Trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt, tiếng
Pháp chiếm ưu thế và là chuyển ngữ ở bậc đại học. Với một nền giáo dục như vậy, trên
95% dân số Việt Nam mù chữ. Nhưng, vượt ngoài mong đợi của chính quyền thực dân,
từ trong nền giáo dục đó vẫn xuất hiện một đội ngũ trí thức uyên thâm về học thuật,
nồng nàn lòng yêu nước, có những đóng góp rất to lớn vào công cuộc giành lại độc lập,
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Trong lónh vực giáo dục dưới thời thuộc Pháp, bên cạnh hoạt động của hệ thống
trường lớp của Nhà nước thực dân - phong kiến, có hai sự kiện quan trọng: Một là,
phong trào Duy Tân do một số nhà Nho yêu nước (Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp…) khởi xướng mà nội dung quan trọng là lập trường học, cổ xúy lòng yêu
nước, phê phán chế độ quân chủ lỗi thời, khuyến khích thực nghiệp, với mong muốn
thực thi học thuyết “Chấn dân khí - Khai dân trí - Hậu dân sinh” nhằm nâng dân tộc
ngang tầm thời đại để trên cơ sở đó giành lại độc lập. Phong trào Duy Tân diễn ra sôi
nổi ở Quảng Nam bắt đầu từ năm 1902, đến năm 1907, với việc thành lập Đông Kinh
Nghóa Thục ở Hà Nội (do Lương Văn Can chủ xướng), phong trào Duy Tân đã tiến vượt
bậc cả về tổ chức và lý luận. Hai là, Hội truyền bá chữ quốc ngữ do các trí thức yêu
nước thành lập ngày 05/11/1938. Ban lãnh đạo gồm các ông Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ,
12 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
1.
Người thay mặt Chủ tòch Hồ Chí Minh ký ba sắc lệnh này là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Bộ
trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Phan Thanh, Quản Xuân Nam, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Huyên,
Hoàng Xuân Hãn, Lê Thước, Trần Văn Giáp… Trong suốt 7 năm tồn tại, tính đến tháng
8 năm 1945, Hội đã giúp cho hơn 7 vạn người biết đọc, biết viết, biết tính toán. Bên
cạnh kết quả đó, phong trào truyền bá chữ quốc ngữ còn đào tạo được nhiều cán bộ
trung kiên, có kinh nghiệm về chống nạn thất học, đã cung cấp cho Cách mạng một số
cán bộ và chiến só để sau này, qua rèn luyện đã trở thành những cán bộ quản lý chủ
chốt của ngành giáo dục của bộ máy chính quyền mới.
2. Từ ngày độc lập đến kháng chiến thứ nhất thắng lợi (1945-1954)
2.1. Trong năm đầu của chế độ Dân chủ Cộng hòa
Sau khi nhân dân giành được chính quyền và tuyên bố nền độc lập của đất nước,
ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời (03/9/1945), Chủ tòch
Hồ Chí Minh đã xác đònh: “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm” là ba
nhiệm vụ trọng yếu của Chính phủ và nhân dân ta lúc đó. Ngày 06/9/1945, Người đã gửi
thư cho học sinh nhân dòp khai giảng năm học 1945 - 1946, khẳng đònh sự ra đời của
một nền giáo dục mới với sứ mệnh phục vụ công cuộc giữ gìn độc lập và phục hưng đất
nước, trong đó chỉ rõ mục đích học tập của thế hệ trẻ mà cũng là nhiệm vụ chiến lược
của nền giáo dục mới là làm cho “non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp”, “dân tộc Việt
Nam sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Ngày 08/9/1945, Chính phủ ban hành các văn kiện pháp lý quan trọng: Sắc lệnh
số 17-SL: “Đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam”, Sắc lệnh số 19-SL:
“Trong toàn cõi Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình
dân học buổi tối” và Sắc lệnh số 20-SL: “Trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học bắt
buộc, việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người”
(1)
Tiếp đó, vào đầu tháng 10 năm 1945, Chủ tòch Hồ Chí Minh lại ra Lời kêu gọi toàn dân
chống nạn thất học.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ và hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tòch Hồ Chí
Minh, chỉ trong vòng chưa đầy một năm, cả nước đã có gần 75 ngàn lớp học bình dân
với gần 96 ngàn giáo viên (người biết chữ dạy người không biết chữ) giúp cho hơn 2,5
triệu người thoát khỏi nạn mù chữ. Như vậy, ngay khi nền cộng hoà dân chủ vừa được

thành lập, xoá nạn mù chữ và nâng cao trình độ học vấn của toàn dân đã trở thành một
quốc sách và việc học tập để biết đọc, biết viết, biết tính toán đã được nhân dân tiếp
nhận làm một tiêu chí biểu hiện văn hoá. Từ đó, qua suốt nhiều thập kỷ, Việt Nam kiên
trì thực hiện xoá mù chữ và nâng cao trình độ học vấn của toàn dân.
13Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Song song với việc tổ chức để các trường mở cửa, tiếp tục công việc giảng dạy, học
tập, Bộ Giáo dục cố gắng giúp Chính phủ kiến tạo cơ sở pháp lý cho chính sách giáo
dục của chế độ mới. Năm 1946, trong bối cảnh phải tập trung đối phó với mưu mô gây
chiến của các thế lực thực dân, Chính phủ đã ban hành hai sắc lệnh số 146-SL và số
147-SL. Nội dung chủ yếu của hai sắc lệnh này là:
(i) Khẳng đònh tôn chỉ của nền giáo dục nước nhà là phụng sự lý tưởng quốc gia
và dân chủ; ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục là: dân tộc, khoa học, đại
chúng.
(ii) Xác đònh cơ cấu của nền giáo dục mới, sau giáo dục ấu tró (tiền học đường), có
ba cấp học:
Đệ nhất cấp, là bậc học cơ bản, thực hiện trong 4 năm học.
Đệ nhò cấp, có hai ngành: (i) ngành học tổng quát gồm hai bậc: bậc phổ thông 4
năm và bậc chuyên khoa 3 năm; (ii) ngành học chuyên môn, gồm hai bậc: bậc
thực nghiệm 1 năm và bậc chuyên nghiệp từ 1 - 3 năm (tuỳ theo ban).
Đệ tam cấp, có đại học (gồm các ban: văn khoa, khoa học, pháp lý ) và cao đẳng
chuyên môn, sinh viên học ít nhất 3 năm. Tiếp nối đại học là các “nghiên cứu viện”.
Song song với ba cấp học là ba cấp của ngành sư phạm, gồm sư phạm sơ cấp, sư
phạm trung cấp, sư phạm cao cấp.
(iii) Ấn đònh những điều khoản pháp lý để thực hiện bậc học cơ bản: tất cả trẻ em
từ 7 - 13 tuổi đều có thể đến trường, không phải trả tiền học và từ năm 1950 sẽ
là bậc học bắt buộc. Đối với đại học, từ 1950 trở đi, các môn học được dạy bằng
tiếng Việt. Đây là một quyết đònh táo bạo, thể hiện tinh thần dân tộc của đội ngũ
trí thức Việt Nam, vì tiếng Pháp, trong một thời gian dài trước đó vốn được dùng
làm chuyển ngữ ở tất cả các nhà trường.
(2)

2.2. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp
Mặc dầu Chính phủ Dân chủ Cộng hòa tìm mọi cách để giữ gìn nền độc lập trong
mối quan hệ hữu nghò với nước Pháp, nhưng thực dân Pháp lại muốn duy trì ách thống
trò đối với Việt Nam cũng như toàn cõi Đông Dương. Do đó nhân dân ta buộc phải tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
14 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
2.
Để chuẩn bò cho việc dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ trong nhà trường, các nhà khoa học người Việt
đã phải rất cố gắng để xây dựng hệ thống thuật ngữ bằng tiếng Việt ở nhiều bộ môn khoa học, tiêu biểu
là các công trình “Danh từ khoa học Toán-Lý-Hoá” (Hoàng Xuân Hãn), “Danh từ Vạn vật học” (Đào Văn
Tiến), “Danh từ Y học” (Lê Khắc Thiền), “Nông học” (Lê Văn Can, Nguyễn Hữu Quân)
Tại vùng tự do, các trường học tiếp tục hoạt động. Để tạo nguồn đào tạo cán bộ
phục vụ kháng chiến và xây dựng đất nước sau ngày kháng chiến thắng lợi, năm 1950,
Chính phủ chính thức thông qua đề án cải cách giáo dục.
Mục tiêu đào tạo của nhà trường khi đó được xác đònh là: Giáo dục, bồi dưỡng
thế hệ trẻ thành những người công dân lao động tương lai, trung thành với chế độ dân
chủ nhân dân, có đủ năng lực phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Để phù hợp
với hoàn cảnh chiến tranh, nội dung chủ yếu của cuộc cải cách lần này là thay đổi
cơ cấu giáo dục phổ thông (rút bớt số năm học) và điều chỉnh quan hệ giữa các bộ
phận của hệ thống giáo dục để thống nhất với sự thay đổi đó. Theo đó, cơ cấu giáo
dục phổ thông gồm 3 cấp, thực hiện trong 9 năm: cấp I có 4 lớp, không kể lớp vỡ
lòng (học đọc và viết chữ Việt); cấp II có 3 lớp; cấp III có 3 lớp. Về nội dung giảng
dạy, tạm gác lại một số môn học (như ngoại ngữ, âm nhạc, vẽ, nữ công gia chánh);
bổ sung một số môn học mới (như thời sự, chính sách, giáo dục công dân, tăng gia
sản xuất). Do chương trình phổ thông tạm rút ngắn, sau khi tốt nghiệp lớp 9, để vào
đại học, học sinh phải qua trường dự bò đại học (lúc đầu là 2 năm sau đổi thành 1
năm). Đồng thời, hệ thống giáo dục bình dân và giáo dục chuyên nghiệp cũng thay
đổi (sau chương trình xoá mù chữ, có chương trình tiểu học bình dân và trung học
bình dân ). Trường đại học y dược, trường đại học khoa học (chủ yếu là văn khoa và
toán học) vẫn tiếp tục hoạt động.

Tại vùng tạm chiếm, các trường học giảng dạy, học tập theo một chương trình 12
năm, căn bản dựa trên một chương trình được canh tân bởi một số học giả yêu nước từ
đầu năm 1945 (Chương trình Hoàng Xuân Hãn), khi Đông Dương thuộc Pháp bò người
Nhật xâm chiếm
(3)
. Đặc trưng của nền giáo dục ở vùng tạm chiếm là giảm bớt màu sắc
của của nền giáo dục thuộc đòa, tiếng Việt được thay thế cho tiếng Pháp trong giảng
dạy ở giáo dục phổ thông, nhiều nội dung có yếu tố dân tộc đã được đưa vào chương
trình. Tuy nhiên, chương trình vùng tạm chiếm vẫn chòu ảnh hưởng nặng nề của nền
giáo dục của Pháp.
3. Giáo dục Việt Nam trong những năm đất nước bò tạm thời chia cắt
3.1. Ở miền Bắc
Sau khi hoà bình được lập lại, trên miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã tiếp quản giáo dục ở vùng mới giải phóng và tích cực chuẩn bò cho một cuộc cải
cách giáo dục (thứ hai) trong bối cảnh vừa phục hồi kinh tế, xây dựng miền Bắc vừa đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong cuộc cải cách giáo dục lần này, mục đích giáo dục được xác đònh là: Đào
3.
Chương trình của học giả yêu nước Hoàng Xuân Hãn
15Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh thiếu niên thành “những người phát triển về mọi mặt,
những công dân tốt, cán bộ tốt”. Nhằm mục đích đó, nội dung giáo dục mang tính toàn
diện (coi trọng 4 mặt: đức, trí, thể, mỹ) với phương châm: “Liên hệ lý luận với thực tiễn,
gắn nhà trường với đời sống xã hội”.
Về mặt phương pháp, cuộc cải cách lần này đã xoá bỏ nền sư phạm quyền uy, khai
mở quan hệ thầy - trò dân chủ, phát huy tác dụng của các hoạt động ngoại khoá và từng
bước đưa hoạt động lao động công ích, lao động sản xuất vào nhà trường, xem đó như
là phương thức quan trọng để hình thành nhân cách.
Thông qua cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, hệ thống giáo dục phổ thông 12
năm tại vùng mới được giải phóng và hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm ở vùng tự do

đã được thống nhất thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm (cấp I có 4 lớp, cấp II
có 3 lớp, cấp III có 3 lớp)
(4)
. Hệ thống này ít nhiều mô phỏng theo hệ thống giáo dục
của Liên Xô lúc đó.
Để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, Chính phủ chủ trương “Tận lực phát
triển giáo dục phổ thông”. Đến cuối kỳ kế hoạch 5 năm (1961 - 1965), mạng lưới trường
lớp được mở rộng: Phần lớn các xã có trường cấp I; hai hoặc ba xã có một trường cấp
II; phần lớn các huyện có trường cấp III. Loại trường vừa dạy tri thức phổ thông, vừa
dạy kỹ thuật sản xuất ra đời như trường phổ thông công nghiệp ở thành phố, trường
phổ thông nông nghiệp ở nông thôn, trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm ở các
tỉnh miền núi. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, ở hầu hết các xã trên miền Bắc,
nhân dân thành lập “Ban bảo trợ học đường”, huy động sức người, sức của xây dựng
các trường cấp I, cấp II, đề cử người ở đòa phương làm giáo viên, tự đònh mức đóng góp
để trả lương thầy, từ đó xuất hiện hình thức trường dân lập. Chính phủ quy đònh: Giáo
viên dân lập và giáo viên quốc lập hưởng mọi chính sách, chế độ như nhau, chỉ khác
tiền lương của giáo viên dân lập do ngân sách đòa phương đài thọ, có sự hỗ trợ thích
đáng của Nhà nước.
Cũng trong thời gian này, bên cạnh các trường đại học Y - Dược, Sư phạm, Tổng
hợp, có thêm các trường đại học mới: Nông Lâm, Bách khoa, Kinh tế , hệ thống giáo
dục đại học được củng cố, hoàn chỉnh một bước nhằm đào tạo đội ngũ trí thức mới.
Các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề được thành lập, trong đó đặc biệt quan
trọng là những lớp dạy nghề bên cạnh xí nghiệp đã góp phần cung cấp nhân lực cho
công cuộc xây dựng miền Bắc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước.
Điều đáng lưu ý là, các trường phổ thông công nghiệp và trường phổ thông nông
16 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
4.
Thực chất, chương trình giáo dục phổ thông còn có lớp vỡ lòng, dạy học sinh tập đọc, tập viết trước
khi vào lớp 1.
5.

Chỉ thò 114/TTg ngày 27/3/1957
6.
Theo cuốn “Escalade de guerre et du crime par Nixon au Việt Nam” (Cuộc leo thang chiến tranh và
tội ác do Nixon gây ra ở Việt Nam)
nghiệp đã có chương trình giảng dạy, học tập giàu tính thực hành, tiếc rằng khi quân
đội Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc, các loại trường này không
còn điều kiện để duy trì.
Song song với việc triển khai cải cách giáo dục ở phổ thông, Chính phủ thành lập
Ban lãnh đạo Trung ương thanh toán nạn mù chữ, xác đònh giáo dục bình dân là một
bộ phận không thể thiếu trong kế hoạch Nhà nước
(5)
và phát động thực hiện kế hoạch
3 năm thanh toán nạn mù chữ (1956 - 1958). Kết quả, đến năm 1959 đã có 2.161.362
người đã thoát nạn mù chữ, hầu hết dân cư trong các tỉnh đồng bằng biết đọc, biết viết;
đưa tỷ lệ dân số biết chữ trong độ tuổi 12 - 50 lên 93,4%. Tuy vậy, kết quả xoá mù chữ
lần này, cũng như về sau này, không bền vững, do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
nhân chủ yếu là do chưa thực hiện phổ cập giáo dục cấp I.
Trên cơ sở kết quả xoá mù chữ đã đạt được, hệ thống giáo dục bình dân chuyển
trọng tâm sang nâng cao trình độ học vấn của người lớn - người lao động và được gọi
là hệ thống bổ túc văn hoá, song hành với hệ thống giáo dục phổ thông. Với phương
châm “cần gì học nấy”, hệ thống bổ túc văn hóa rất đa dạng về hình thức tổ chức cũng
như về chương trình học. Hình thức học tập tại chức có loại trường/lớp dành cho đối
tượng công tác tại cơ quan, xí nghiệp, có loại trường/lớp dành cho đối tượng là nông
dân. Hình thức học tập tập trung có trường phổ thông lao động (dành cho cán bộ quản
lý), trường bổ túc văn hóa công nông dành cho những người lao động trẻ tuổi để đưa
vào đại học nhằm đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nông. Mỗi loại
hình trường/lớp lại có chương trình và sách giáo khoa (hoặc tài liệu học tập riêng) nhằm
“phù hợp với đối tượng và mục tiêu đào tạo”.
Song song với việc mở các trường bổ túc văn hóa tập trung, ở miền Bắc còn có các
trường học sinh miền Nam để nuôi, dạy con em các cán bộ miền Nam. Nhiều học sinh

tốt nghiệp các trường bổ túc công nông và trường học sinh miền Nam đã được tuyển
vào đại học trong và ngoài nước, về sau trở thành nguồn cán bộ quản lý ở miền Nam
sau ngày giải phóng, trong đó có một số trở thành những trí thức có tên tuổi hoặc nhà
lãnh đạo của đòa phương hoặc của cả nước.
Trong thời gian Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc (1965 - 1972), nhà trường cũng
trở thành mục tiêu bắn phá. Chỉ trong 4 năm đầu của cuộc chiến tranh bằng không quân
của Mỹ, đã có 1.558 ngôi trường bò phá huỷ. Trong đó có: 1.334 trường cấp I, 179 trường
cấp II, 38 trường cấp III, 7 trường đại học
(6)
. Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt,
phương hướng hoạt động giáo dục đã được Chính phủ xác đònh là: Tiếp tục phát triển,
17Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
bảo đảm an toàn cho học sinh, gắn hơn nữa hoạt động của nhà trường với đời sống, sản
xuất và chiến đấu. Trường, lớp từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến giáo
dục đại học được sơ tán ra khỏi thành phố, thò xã, các đầu mối giao thông và những
điểm tập trung dân cư lớn, tiếp tục duy trì hoạt động dạy và học. Thành công lớn nhất
trong thời gian này là nhà trường ở tất cả các cấp đã giáo dục, rèn luyện được một thế
hệ thanh thiếu niên sẵn sàng thực hiện nghóa vụ công dân trong thời chiến, góp phần
tạo ra một hệ thống giá trò về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghóa xã hội.
3.2. Ở miền Nam
Trong thời kỳ 1954 - 1975, ở vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, cũng như về
sau này ở vùng giải phóng, hoạt động giáo dục vẫn diễn ra để đáp ứng nhu cầu học tập
của người dân và đảm nhiệm chức năng đào tạo nhân lực. Tuy nhiên, hoạt động giáo
dục ở hai vùng có đặc điểm riêng, thậm chí đối nghòch nhau.
Ở vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, nền giáo dục chuyển dần từ chỗ chòu
tác động và ảnh hưởng của nền giáo dục Âu Pháp sang chòu tác động và ảnh hưởng
của nền giáo dục Bắc Mỹ. Hệ thống giáo dục phổ thông trải qua một vài lần thay đổi,
song vẫn theo cơ cấu khung: tiểu học (5 năm), trung học cấp thấp (4 năm), trung học
cấp cao (3 năm) gồm nhiều ban. Giáo dục đại học vẫn có thiên hướng hàn lâm nhiều

hơn thực hành, tập trung vào vào các ngành khoa học cơ bản, luật, kinh tế, hành chính.
Các trường đại học thuộc các ngành này phát triển nhanh hơn các trường kỹ thuật, công
nghệ, nông - lâm - súc. Mặt khác, tiếp xúc với nền giáo dục Bắc Mỹ, một số nhà giáo
dục cũng đã học tập, tiếp thu được một số kinh nghiệm giáo dục Hoa Kỳ, trên cơ sở đó
đề xuất một số sáng kiến góp phần canh tân giáo dục nhất là về xây dựng chương trình
và phương pháp dạy học. Điều đặc biệt là, suốt trong thời gian đô thò miền Nam nằm
trong sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, mặc dù chòu tác động và ảnh hưởng của
nền giáo dục Bắc Mỹ, tuổi trẻ học đường vẫn duy trì tinh thần phản kháng và đã có
những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc.
Ở vùng giải phóng, Bộ Giáo dục trong Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam
Việt Nam đã ban hành chương trình phổ thông 12 năm, với loại sách giáo khoa khác
hẳn sách giáo khoa dùng trong vùng tạm chiếm, thể hiện rõ rệt tinh thần yêu nước, chống
xâm lược và tay sai. Bộ chương trình và sách giáo khoa này có nhiều cải tiến cả về nội
dung và phương pháp so với chương trình và sách giáo khoa 10 năm ở miền Bắc.
4. Giáo dục Việt Nam từ 1975 đến 1986
4.1. Trong những năm đầu thống nhất đất nước
Tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước của
18 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
7.
Trong chế độ cũ có tới 2.500 trường tư thục, trong đó một nửa do các tổ chức tôn giáo mở
nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn. Sau ngày chiến thắng, đối với lónh vực
giáo dục ở các tỉnh miền Nam, Chính phủ tập trung vào hai nhiệm vụ: (i) Xoá bỏ tàn dư
của nền giáo dục cũ; (ii) Thực hiện xoá mù chữ cho nhân dân trong độ tuổi 12 - 50.
Về nhiệm vụ thứ nhất, Bộ Giáo dục đã khẩn trương xây dựng và ban hành hành
chương trình 12 năm mới, biên soạn và in 20 triệu bản sách giáo khoa theo chương trình
đó để thay thế sách giáo khoa cũ ở miền Nam. Hầu hết giáo viên của chế độ cũ được
tuyển dụng lại; đồng thời, thực hiện công lập hoá trường tư thục
(7)
, tách nhà trường ra
khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, đưa dần toàn bộ trường tư vào sự quản lý của Nhà nước.

Về nhiệm vụ thứ hai, Chính phủ chủ trương nhanh chóng xoá nạn mù chữ và đẩy
mạnh bổ túc văn hoá, xem đó là nhiệm vụ cấp bách số một. Một lần nữa, hoạt động xoá
nạn mù chữ trở thành một biểu hiện của lòng yêu nước, thu hút hàng triệu người tham
gia giảng dạy, học tập hoặc giúp đỡ người học. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành
phố miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405.870 người đã được xác
đònh không biết chữ, đã có 1.323.670 người thoát nạn mù chữ, đạt 94,14% kế hoạch.
4.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba
Trong khi thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt đối với giáo dục miền
Nam và tiếp tục phát triển giáo dục ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ cũng khẩn trương
chuẩn bò cho một cuộc cải cách giáo dục nhằm tiến tới một nền giáo dục quốc dân
thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất nước.
Ngày 11/01/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghò quyết số 14-
NQ/TW về cải cách giáo dục. Theo đó, những đònh hướng có tính nguyên tắc cho cuộc
cải cách giáo dục lần thứ ba này là:
- Về mục tiêu giáo dục: Chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi ấu thơ cho đến lúc
trưởng thành nhằm tạo cơ sở ban đầu cho con người phát triển toàn diện; thực
hiện phổ cập giáo dục toàn dân nhằm tạo điều kiện thực hiện 3 cuộc Cách mạng
(về quan hệ sản xuất, về khoa học - kỹ thuật và về văn hoá - tư tưởng); đào tạo
và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động phù hợp yêu cầu phân
công lao động xã hội.
- Về nội dung giáo dục: Hướng vào việc “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
(đức, trí, thể, mỹ), tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập thể, đủ sức
gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghóa xã hội của nhân dân…”.
- Về nguyên lý giáo dục: Yêu cầu học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
19Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
động, nhà trường gắn liền với xã hội.
- Về hệ thống giáo dục: Thay thế hệ thống phổ thông 12 năm ở miền Nam và hệ
thống 10 năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm mới,
trong đó, trường cấp I và trường cấp II được sáp nhập thành trường phổ thông cơ
sở (9 năm), đồng thời chuẩn bò phân ban ở trung học phổ thông. Nhiều trường đại

học chuyên ngành được xây dựng và phát triển.
Đồng thời với việc ra Nghò quyết xác đònh phương hướng cải cách giáo dục, Bộ
Chính trò cũng đã quyết đònh thành lập Uỷ ban Cải cách giáo dục của Trung ương và
Chính phủ. Tổ chức này có ba nhiệm vụ:
- Chỉ đạo nghiên cứu và xây dựng các đề án về chủ trương, kế hoạch và biện pháp
thực hiện;
- Kiểm tra, đôn đốc các ngành, các đòa phương;
- Chuẩn bò dự luật cải cách để trình Quốc hội.
Cuộc cải cách giáo dục lần này được triển khai bắt đầu từ năm học 1981 - 1982.
Việc thay sách giáo khoa ở các cấp học phổ thông, một nhiệm vụ quan trọng nhất của
cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba, đã hoàn thành vào năm 1996, tạo ra sự thống nhất
về giáo dục phổ thông trong cả nước. Riêng về nội dung giáo dục, so với các chương
trình giảng dạy và học tập trước đó, chương trình cải cách mang nhiều yếu tố hiện đại
hơn, do đó tạo ra tiền đề chất lượng giáo dục có thể đạt tới trình độ cao hơn trước.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, cuộc cải cách lần này đã gặp rất nhiều khó
khăn và bộc lộ một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất là, mục tiêu và giải pháp thiếu tính
khả thi, chẳng hạn muốn phát triển quy mô lớn, muốn bao cấp về giáo dục cho mọi đối
tượng, muốn phổ cập giáo dục toàn dân Trong khi đó lại thiếu sự chuẩn bò về nguồn
lực và sự thực không thể bảo đảm về nguồn lực do chiến tranh biên giới và kinh tế suy
thoái. Một ví dụ cụ thể về giải pháp thiếu tính khả thi của cuộc cải cách giáo dục lần
thứ ba, biểu hiện của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, là việc sáp nhập trường
cấp I và cấp II thành trường phổ thông cơ sở (9 năm). Vì các điều kiện thực tế không
cho phép (đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý không đủ năng lực; trường sở, thiết bò
thiếu thốn ) nên những trường đã sáp nhập sau một thời gian đều phải tách trở lại. Về
mặt quan niệm, tư tưởng bao cấp nặng nề, nhấn mạnh giáo dục là “phúc lợi xã hội” đã
cản trở sự phát triển giáo dục. Với quan niệm đó, khi xây dựng dự toán ngân sách Nhà
nước, kinh phí giáo dục chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ sau khi đã ưu tiên bố trí cho các khu
vực khác. Người dân, do vậy, sinh ra tư tưởng ỷ lại, xem chi phí học hành của con em,
ngay cả học nghề hay học đại học, cũng dựa vào sự bao cấp của Nhà nước. Tư tưởng
này hoàn toàn không phù hợp với một nước nghèo và chậm phát triển như Việt Nam,

nhất là trong bối cảnh sau một cuộc chiến tranh kéo dài, kinh tế khủng hoảng.
20 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
5. Giáo dục Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX
5.1. Chặng đầu đổi mới
Thách thức lớn nhất trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước mà giáo dục Việt Nam
phải đối diện là: Nhà nước không đủ điều kiện cung ứng tài chính, lại mất đi một chỗ
dựa quan trọng là nền kinh tế tập thể, giáo dục lâm vào tình trạng thiếu hụt nguồn lực
nghiêm trọng. Các trường phổ thông thiếu kinh phí hoạt động, chính quyền đòa phương
nợ lương giáo viên, thầy bỏ dạy, trò bỏ học, qui mô và chất lượng giáo dục đều giảm sút.
Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cũng không đủ ngân sách tối
thiểu cần thiết để duy trì các hoạt động bình thường. Học sinh trung học chuyên nghiệp
và sinh viên đại học ra trường không có việc làm, giảng viên theo đuổi những công việc
xa lạ với nghề nghiệp để có thêm thu nhập. Bò trói buộc trong cơ chế cũ, các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp thiếu hẳn điều kiện về nguồn lực và khả năng
tự quản.
Để đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 12 năm 1986) đã chủ trương đổi mới kinh tế - xã hội, chuyển từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa. Thực
hiện đường lối đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI, trong lónh vực giáo dục, điều căn
bản là phải điều chỉnh những quan niệm và giải pháp không còn thích hợp, mạnh dạn
đề xuất và thực hiện những giải pháp mới nhằm chặn đà suy thoái, ổn đònh tình hình,
củng cố hệ thống, tạo thế và lực để tiếp tục phát triển. Phương hương và giải pháp
đổi mới giáo dục lúc đó là: Xã hội hoá, dân chủ hoá, đa dạng hoá, hiện đại hoá; vận
động xã hội, gia đình và nhà trường cùng chăm sóc thế hệ trẻ. Theo phương hướng đó,
ngành giáo dục đã nỗ lực duy trì, củng cố, tiếp tục phát triển nền giáo dục quốc dân,
tập trung chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục, xem đội ngũ là yếu tố quyết đònh hàng đầu trong việc thực hiện chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
Đối với giáo dục phổ thông, đònh hướng đổi mới là: Tiếp tục triển khai đồng thời
điều chỉnh cải cách giáo dục về mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa và cả

về quan niệm, cách làm giáo dục. Từng bước thực hiện chất lượng toàn diện theo cách
làm và mức độ phù hợp từng loại đối tượng, từng loại trường và từng đòa phương; gắn
giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp. Tiếp tục khẳng đònh mạnh mẽ trách nhiệm
của Nhà nước, đồng thời thực hiện xã hội hoá giáo dục. Trong khi xã hội hóa nguồn lực,
điều quan trọng là khắc phục tâm lý ỷ lại và thái độ khoán trắng cho Nhà nước.
Một số giải pháp được triển khai nhằm thực hiện đònh hướng đổi mới giáo dục phổ
thông lúc đó là: Chính phủ cho phép thu học phí ở tất cả các cấp học, trừ tiểu học vì là
cấp phổ cập; cho phép tổ chức trường/lớp tư thục ở giáo dục tiền học đường; các trường/
21Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
lớp bán công, dân lập ở tất cả các bậc học phổ thông. Ngành giáo dục tiến hành phân hoá
việc giáo dục theo trình độ của đối tượng, phát triển các trường chuyên cấp II, cấp III dành
cho học sinh có năng khiếu, lớp chọn trong các trường cấp II, cấp III bình thường dành cho
học sinh học giỏi (trường chuyên, lớp chọn không tổ chức ở bậc tiểu học vì phòng ngừa
chặn tình trạng quá tải, tránh nguy cơ dẫn trẻ đến chỗ phát triển phiến diện). Đẩy mạnh
thí điểm chương trình trung học chuyên ban, chuẩn bò triển khai đại trà nhằm thực hiện
phân hóa quá trình giáo dục theo trình độ, năng lực và nguyện vọng của học sinh và để
phân luồng trong giáo dục. Thực hiện giáo dục kỹ năng lao động và hướng nghiệp bằng
cách liên kết giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp. Đối với bậc tiểu học, cùng với
việc hoàn thiện từng bước chương trình cải cách hiện hành, đã thêm chương trình dành
riêng cho con em các dân tộc ít người, chương trình tối thiểu áp dụng trong các lớp học
linh hoạt dành cho những trẻ em vì điều kiện kinh tế không thể đến trường chính qui. Rút
kinh nghiệm của các chiến dòch xoá mù chữ trước đây, Chính phủ lập Uỷ ban quốc gia
chống nạn mù chữ, gắn nhiệm vụ chống nạn mù chữ với phổ cập giáo dục tiểu học.
Đối với giáo dục đại học và dạy nghề, chuyển từ đào tạo cho kinh tế quốc doanh
và tập thể sang đào tạo cho xã hội nhiều thành phần kinh tế và đáp ứng nhu cầu học tập
của thanh niên; khai thác và sử dụng mọi nguồn tài chính; tự lực xây dựng và thực hiện
các chỉ tiêu ngoài kế hoạch Nhà nước; đào tạo theo nhiều loại chương trình. Một số giải
pháp: yêu cầu người học đóng học phí và tự túc trong thời gian học tập; cho phép và
khuyến khích mở trường/lớp dạy nghề tư thục và mở trường đại học dân lập; cấu trúc lại
chương trình đào tạo (theo mô đun kỹ năng ở dạy nghề, theo ngành rộng và chia thành

hai giai đoạn ở đại học); từ đào tạo theo niên chế chuyển sang đào tạo theo học phần;
cải tiến quy trình kiểm tra, đánh giá, thi cử theo hướng “mở rộng đầu vào, sàng lọc trong
quá trình đào tạo, kiểm soát chặt chẽ ở đầu ra”; trao quyền tổ chức kỳ thi cho các trường
và cho thí sinh dự thi ở nhiều trường; thí điểm đào tạo kỹ thuật viên bậc cao; đổi mới mô
hình tổ chức và sắp xếp lại mạng lưới, thí điểm các hình thức trung học nghề và trung
học kỹ thuật; hình thành đại học, cao đẳng kiểu mới (đại học gồm nhiều trường thành
viên, đại học mở, cao đẳng cộng đồng, đại học bán công/tư thục/dân lập ); tăng chức
năng quản lý nhà nước bằng luật pháp, giảm hoạt động tác nghiệp về chuyên môn đào
tạo ở Bộ; coi trọng quyền tự chủ của nhà trường; cho phép các trường liên kết đào tạo
và liên kết với các cơ sở nghiên cứu/các doanh nghiệp.
Nhờ đònh hướng đúng đắn, sau 10 năm đổi mới, sự nghiệp giáo dục đã phát triển
và đạt kết quả đáng kể. Vào năm học 1993 - 1994, qui mô giáo dục ở tất cả các bậc
học từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục đại
học đã được mở rộng, vượt năm cao nhất của thời kỳ trước đổi mới.
Riêng ở bậc tiểu học, tỷ lệ bỏ học giảm từ 12,7% vào năm 1989 - 1990 xuống
6,58% và tỷ lệ lưu ban giảm từ 10,6% vào năm 1989 - 1990 xuống 6,18%
(8)
. Đến giữa
22 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
những năm 90 (của thế kỷ trước), tổng số học sinh tiểu học là trên 10 triệu, số học sinh
trung học cơ sở là 3,7 triệu, số học sinh trung học phổ thông là 86 vạn. Sau 5 năm, các
đòa phương đã vận động hơn 1,7 triệu trẻ em thất học đến lớp, trong đó có 200 nghìn
em đã đạt được chuẩn phổ cập, hàng trăm nghìn trẻ em bỏ học đã quay trở lại nhà
trường; hơn 1,2 triệu người lớn đi học xoá mù chữ trong đó gần nửa triệu đã biết chữ ở
trình độ tương đương lớp 3
(9)
.
Về giáo dục nghề nghiệp, lưu lượng học sinh học nghề ngắn hạn đã tăng từ 95.500
(năm 1993) lên 128.700 (năm 1994). Chương trình trung học nghề đã được 50 trường tổ
chức thực hiện, nhiều học sinh tốt nghiệp đã ra làm việc tại các cơ sở kinh tế

(10)
. Việc
thí điểm đào tạo kỹ thuật viên cấp cao đã thực hiện ở 6 trường trung học chuyên nghiệp
thuộc các ngành bưu chính viễn thông, kỹ thuật công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải,
kỹ thuật mỏ, hoá chất và văn hoá nghệ thuật. Khó khăn lớn là về tổ chức quá trình đào
tạo (thiếu giáo viên nên phải dạy dồn, một giáo viên dạy nhiều môn ), lại thiếu cơ sở
thực nghiệm cho các môn học nên không đảm bảo chất lượng đào tạo cao đẳng Việc
đào tạo theo mô đun kỹ năng hành nghề (MES) đã được triển khai ở 15 nghề, trong đó
đã biên soạn theo và xuất bản 5 bộ tài liệu dạy và học theo MES cho 5 nghề để áp dụng
rộng rãi. Một số trường dạy nghề đào tạo dài hạn thuộc lónh vực xây dựng, bưu chính
viễn thông cũng đang bắt đầu áp dụng phương thức đào tạo theo mô đun.
Về giáo dục đại học, các trường đi dần đến chỗ ổn đònh, từng bước tăng quy mô,
giảng viên có thêm thu nhập bằng các hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong mạng
lưới trường đại học, cao đẳng, đã có 5 đại học đa lónh vực lớn được xây dựng ở Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng; có thêm một số trường đại học
ngoài công lập. Quan hệ quốc tế được mở rộng, đội ngũ lãnh đạo, giáo sư, giảng viên có
điều kiện học hỏi, trao đổi với các đồng nghiệp nước ngoài về những vấn đề học thuật.
Mặc dù đã vượt qua những thách thức gay gắt ở giai đoạn đầu đổi mới, nhưng có
một số giải pháp nêu ở trên gặp khó khăn trong thực hiện, không phát huy được tác dụng
tích cực hoặc bò biến dạng trong thực tế, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Tháng 12 năm
23Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
8.
Năm 2004, tỷ lệ lưu ban ở TH là 1,01%; ở THCS là 0,83%; ở THPT là 1,34%
9.
Đầu năm 1990, cả nước có khoảng 2,1 triệu trẻ em 6 - 14 tuổi thất học, 2 triệu người lớn ở độ tuổi
15 - 35 bò mù chữ.
10.
Khó khăn lớn nhất đối với loại hình này là, chỉ phát huy tính ưu việt khi các kiến thức, kỹ năng phổ
thông và kỹ thuật được dạy song song; lý thuyết chuyên môn và thực hành nghề được cấu trúc theo
hướng tích hợp chứ không theo một phép cộng giản đơn chương trình giáo dục bổ túc với đào tạo nghề.

Vì không vượt qua được khó khăn này và vì thiếu điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bò chương trình trung
học nghề đã không được duy trì.
1996, Hội nghò lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đánh giá kết quả 10 năm đổi mới giáo dục, đề ra đònh hướng chiến lược phát triển
giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xác đònh nhiệm vụ giáo dục
trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX. Một số giải pháp ở giai đoạn đầu đã được
điều chỉnh như: Không mở lớp chọn ở các cấp giáo dục phổ thông và không mở trường
chuyên ở trung học cơ sở; không quy đònh cứng nhắc, đồng loạt về hai giai đoạn và bỏ
kỳ thi chuyển giai đoạn ở đại học; chuẩn bò kỹ hơn cho việc đổi mới chương trình, sách
giáo khoa ở phổ thông đặc biệt là vấn đề phân ban ở trung học phổ thông; không tiếp
tục phát triển trung học nghề
Trong hơn 10 năm (1996 - 2005), quy mô giáo dục tiếp tục tăng, tổng số học sinh,
sinh viên từ 20 triệu (năm 1996), đã tăng lên 23 triệu (năm 2005). Công tác phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở tiến triển tốt. Năm
học 2004 - 2005, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi tham gia tiểu học là 98,0%; tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp tiểu học học tiếp lên lớp 6 là 98,5%; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi tham gia trung học
cơ sở là 84,0%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học lớp 10 là 77,1%. Mạng
lưới trường lớp tiếp tục phát triển, về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu học tập tiểu học và trung
học cơ sở cho trẻ em. Chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa mới được triển
khai từ năm học 2002 - 2003, đã hoàn tất vào năm học 2008 - 2009, tạo tiền đề cho việc
nâng cao chất lượng giáo dục. Chỉ tính trong 5 năm gần đây, đã có hơn 5,3 triệu người đã
được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề trong đó 2/3 là đào tạo dài hạn. Tốc độ tăng quy mô
ở trung học chuyên nghiệp tăng bình quân 14,7%/năm. Về giáo dục đại học, từ 1998 đến
2004, quy mô đại học, cao đẳng tăng từ 760 nghìn sinh viên lên hơn 1,3 triệu, tốc độ tăng
bình quân 6,4%/năm. Giáo dục không chính quy được đẩy mạnh, mạng lưới trung tâm
giáo dục thường xuyên phủ khắp các quận huyện trong cả nước, số lượng trung tâm học
tập cộng đồng đã được phát triển ở quá nửa số xã phường. Cùng với sự phát triển đáng
kể về quy mô, việc cung ứng một cách công bằng về cơ hội giáo dục đã có bước tiến bộ
quan trọng. Khoảng cách về cơ hội tiếp cận giáo dục giữa các nhóm dân tộc được thu hẹp.
Số lượng học sinh con em dân tộc thiểu số ở trung học cơ sở tăng bình quân 7,3%/năm, ở

trung học phổ thông tăng bình quân 26,1%/năm.
II. CƠ CẤU QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
Khái niệm quản lý được đề cập ở đây bao gồm cả quản lý nhà nước và quản lý chuyên
môn. Quản lý nhà nước, ở cấp vó mô, gồm: xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách giáo dục; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật về giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục.
Theo Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Giáo dục và sự phân công của Chính phủ, Bộ Giáo dục
24 Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
và Đào tạo (GDĐT) quản lý nhà nước về giáo dục tiền học đường, giáo dục phổ thông, giáo dục
đại học và một phần giáo dục nghề nghiệp (trung cấp chuyên nghiệp); Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội (LĐTBXH) quản lý giáo dục nghề nghiệp (trừ trung cấp chuyên nghiệp).
Theo Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (UBND), Luật Giáo dục và theo sự
phân cấp của Chính phủ, UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước, bảo đảm các điều kiện
về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bò dạy học của các trường công lập thuộc
phạm vi quản lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục tại đòa phương;
đồng thời, kiểm soát các trường ngoài công lập trong việc thực hiện các quy đònh của pháp
luật. Phạm vi quản lý trong lónh vực giáo dục của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện được
phân đònh như sau: Cấp tỉnh quản lý các trường trung học phổ thông, các trường trung cấp
và trường dạy nghề, các trường cao đẳng của tỉnh, các trung tâm giáo dục thường xuyên của
tỉnh ; cấp huyện quản lý các trường mầm non, trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm kỹ
thuật tổng hợp - hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên và trung tâm dạy nghề của
huyện Cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp tỉnh quản lý về giáo dục là Sở Giáo dục và Đào
tạo (Sở GDĐT); cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp huyện quản lý về giáo dục là Phòng
Giáo dục và Đào tạo (Phòng GDĐT).
25Chương I - SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Sơ đồ cơ cấu quản lý giáo dục Việt Nam

×