Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Sơ lược lịch sử giáo dục việt nam và một số nước trên thế giới phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.84 MB, 77 trang )

152 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
CHƯƠNG III
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU
VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
A. GIÁO DỤC ANH
I. SƠ LƯC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở NƯỚC ANH
Vương quốc Anh là gồm 4 nước: Anh, Wales, Scotland và Bắc Ai Len. Wales,
Scotland và Bắc Ireland có Chính phủ và cơ quan lập pháp riêng. Anh quản lý trực tiếp
tất cả các vấn đề bởi Chính phủ và quốc hội Vương quốc Anh. Trong các hiệp ước của
Vương quốc Anh, thì Wales, Scotland và Bắc Ai len được áp dụng một số điều Luật Giáo
dục đặc biệt riêng cho quốc gia với sự cân nhắc về quyền dân tộc. Tài liệu này chỉ đề
cập đến giáo dục Anh.
Anh là một nước có nền lòch sử giáo dục lâu đời. Hệ thống giáo dục Anh đã có từ
hàng trăm năm nay và là cái nôi của nền giáo dục hiện đại trên thế giới. Các trường đại
học danh tiếng như Oxford và Cambridge đã hoạt động hơn 800 năm nay. Cho đến đầu
thế kỷ thứ 19, giáo dục luôn gắn kết chặt chẽ với nhà thờ. Trường học được điều hành
bởi các tổ chức tôn giáo và tôn giáo đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến sự phát triển
giáo dục. Mục đích của giáo dục chính quy vào thời điểm đó là đào tạo những học sinh
ưu tú cho sự nghiệp trong nhà thờ và trong Chính phủ.
Cuộc Cách mạng công nghiệp đầu thế kỷ 19 đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến
các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa ở Anh cũng như ở các quốc gia Châu Âu khác.
Một số tổ chức đã kêu gọi việc hình thành hệ thống giáo dục quốc gia và phổ cập giáo
dục tiểu học nhằm tránh việc giai cấp công nhân ngày càng yếu kém đi. Tuy nhiên,
điều này đã gặp sự phản đối của nhiều người. Tầng lớp thượng lưu của xã hội không
tán thành cho sự phát triển văn hóa cho giai cấp lao động. Trẻ em ở những gia đình lao
động nghèo không muốn bỏ việc kiếm tiền để dành thời gian cho giáo dục. Nhà thờ lo
ngại việc mất ảnh hưởng khi trẻ em được giáo dục tại các cơ sở công lập thay vì đến các
cơ sở của nhà thờ. Việc hình thành hệ thống giáo dục quốc gia đã bò trì hoãn vì những lý
do liên quan đến kinh tế, xã hội, tôn giáo cho đến khi Luật 1870 “Forster Act” ra đời.
Luật 1870 được ban hành đã thiết lập hệ thống giáo dục quốc gia lần đầu tiên tại


Anh. Quốc hội chấp nhận hai hệ thống giáo dục gồm các trường công do Chính phủ tổ
chức và các trường tư do nhà thờ và các tổ chức từ thiện tổ chức. Luật này quy đònh việc
hình thành các trường tiểu học quốc gia dành cho trẻ từ 5 đến 13 tuổi và nền giáo dục tiểu
học là trách nhiệm của chính quyền. Việc giảng dạy giáo lý và các lễ nghi tôn giáo không
còn mang tính bắt buộc trong chương trình học, ngoại trừ ở các trường tôn giáo. Giáo dục
bắt buộc và hoàn toàn miễn phí bắt đầu có hiệu lực sau khi Luật 1891 được thông qua.
Độ tuổi giáo dục bắt buộc tăng dần trong những luật tiếp theo. Các trường trung học ở giai
đoạn này vẫn chủ yếu do giáo hội tổ chức. Những trường nội trú với học phí rất cao và
trường “grammar” là những trường cổ điển dành cho tầng lớp thượng lưu với mục đích đào
tạo ra những thành phần ưu tú, những nhà lãnh đạo trong mọi lónh vực.
153Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Năm 1899, Hội đồng Giáo dục cấp Trung ương được thành lập nhằm thiết lập hệ
thống giáo dục quốc gia từ tiểu học đến trung học. Hệ thống gồm hai hình thức giáo dục
là học thuật và học nghề. Giáo dục quốc gia gồm tiểu học và trung học đã thuộc trách
nhiệm của chính quyền thay cho giáo hội. Trong lòch sử của hệ thống giáo dục Anh,
việc kiểm soát hoạt động điều hành trường học và cấp vốn cho các trường thay đổi, phụ
thuộc vào Đảng cầm quyền cấp quốc gia và cấp đòa phương.
Những luật được thực thi trong vòng 65 năm qua:
- Luật Giáo dục và Kó năng 2008
- Luật Giáo dục và Thanh tra 2006
- Luật Giáo dục 2005
- Luật Giáo dục 2002
- Luật Cơ cấu tổ chức và Chuẩn trường học 1998
- Luật Giáo dục 1996
- Luật Giáo dục 1992
- Luật Cải cách giáo dục 1988
- Luật Giáo dục 1973
- Luật Giáo dục 1944
II. CƠ CẤU QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở ANH
Ở Anh, Quốc hội có quyền lực tối cao trong việc ban hành các điều luật trong Hiến

pháp. Luật ban hành khung pháp lý cho các cơ quan chức năng quản lý điều hành hệ
thống giáo dục. Đối với cấp tiểu học và phổ thông, Bộ Trẻ em, Trường học và Gia đình
chòu trách nhiệm về chính sách giáo dục cho học sinh đến năm 19 tuổi, trong đó có
chính sách giáo dục và bảo vệ trẻ. Các cơ quan quản lý đòa phương có trách nhiệmphân
bổ ngồn vốn, quản lý chiến lược tổng thể, trao quyền hoạt động giáo dục và dòch vụ cho
trẻ em trong vùng bao gồm: phân bổ số chỗ học trong mỗi trường; cung cấp phương tiện
đi lại tới trường; tổ chức hỗ trợ cho những em có nhu cầu giáo dục đặc biệt; hỗ trợ phúc
lợi cho học sinh; và tổ chức hình thức giáo dục cho học sinh bò đuổi học.
Bộ Kinh doanh, Sáng kiến, Đại học và Kỹ năng quy đònh khung pháp lý cho bậc
đại học và cao đẳng. Cơ quan về tài chính cấp vốn và hỗ trợ kỹ thuật cho các trường
đại học. Cơ quan kiểm đònh chất lượng giáo dục chòu trách nhiệm kiểm đònh và báo cáo
kết quả kiểm đònh cho Bộ Kinh doanh, Sáng kiến, Đại học và Kỹ năng. Báo cáo của cơ
quan này có ý nghóa quan trọng trong việc cấp vốn của các trường vào năm sau.
154 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Sơ đồ cơ cấu quản lý giáo dục ở Anh
Sơ đồ dưới đây chỉ ra cấu trúc của hệ thống giáo dục hiện nay ở Anh.
III KHÁI QUÁT HỆ THỐNG GIÁO DỤC ANH
Giáo dục ở Anh là bắt buộc và miễn phí đối với tất cả trẻ em từ 5 đến 16 tuổi. Học sinh
có thể chọn học ở trường công, trường tư, hoặc học tại nhà. Khoảng 94% trẻ em học tại các
trường công và khoảng 6% học sinh học tại các trường tư hoặc học tại nhà. Trường công phải
thu nhận mọi học sinh và được Chính phủ tài trợ kinh phí hoạt động thông qua sự điều hành
của cơ quan quản lý giáo dục đòa phương. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn vài trường chuyên
biệt “grammar school” chỉ chọn những học sinh có kết quả học tập xuất sắc vào trường. Các
trường công giảng dạy theo chương trình học quốc gia và tiến hành các kỳ thi/kiểm tra trên
toàn quốc. Các trường chòu sự thanh tra của Văn phòng về các chuẩn trong giáo dục, dòch vụ
và kỹ năng cho trẻ (Ofsted) nhằm đảm bảo hoạt động giảng dạy của trường đạt chất lượng cao
và xứng đáng với sự đầu tư về tài chính. Các loại hình trường khác nhau được điều hành theo
những cách khác nhau, tiến hành những chính sách khác nhau và đáp ứng những nhu cầu
155Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
giáo dục khác nhau. Bộ chuẩn trường học và Khung luật 1998 xác đònh 4 nhóm trường công

lập chính: Trường cộng đồng được quỹ tư nhân cấp tiền, được đòa phương tình nguyện quản
lý và được khu vực tình nguyện hỗ trợ.
1. Giáo dục Mầm non và dự bò tiểu học
Trong những năm qua, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu mở rộng và xây dựng hệ thống
giáo dục mầm non và chăm sóc trẻ em công lập, hợp tác với các đơn vò tư nhân và tự
nguyện. Đối với trẻ từ 3 tháng đến 3 năm tuổi, chương trình giáo dục chủ yếu là do đơn
vò tư nhân và tự nguyện cung cấp và cha mẹ học sinh trả phí. Với trẻ từ 3 đến 5 tuổi, có
các lớp học trong những trường mẫu giáo công lập và các lớp mẫu giáo trong trường tiểu
học cũng như trong các cơ sở tư thục và tự nguyện. Đã có chương trình giảng dạy ngoài
giờ miễn phí cho trẻ 3 và 4 tuổi ở Anh. Những trẻ được hưởng giáo dục miễn phí có thể
tham gia 5 buổi học 2 tiếng rưỡi/tuần trong 38 tuần/năm. Nói chung, phần lớn những trẻ
3 và 4 tuổi đều tham gia một chương trình học nhất đònh, trước khi đi học chương trình
bắt buộc. Nhiều trẻ em bắt đầu đi học mẫu giáo từ 3 hoặc 4 tuổi.
Ở Anh, kể từ sau Luật Giáo dục 2002, giai đoạn nền tảng trong giáo dục đã được chính
thức ban hành. Điều này mang lại quyền lợi cho trẻ em, từ 3 tuổi đến cuối lớp tiếp nhận các
em mới vào trường (thường là 5 tuổi) trong chương trình giảng dạy công lập. Theo Luật, trẻ em
trong giai đoạn này sẽ được giảng dạy hướng tới “những mục đích học tập đầu đời”, bao gồm
6 nội dung chính (nhân cách, phát triển về mặt xã hội và tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ và chữ
viết; toán học, kiến thức và hiểu biết về thế giới, phát triển về thể chất; phát triển sự sáng tạo.
Bảng dưới đây tổng kết cấu trúc của hệ thống giáo dục cùng với các giai đoạn khác nhau.
2. Giáo dục Tiểu học
Giáo dục bắt buộc bắt đầu từ 5 tuổi. Học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp 6 học các
môn học bắt buộc gồm tiếng Anh, toán, khoa học và những môn nền tảng như lòch sử,
đòa lý, nhạc, nghệ thuật và giáo dục thể chất. Học sinh tiểu học sẽ học từ năm nhất lên
đến năm thứ sáu mà không phải qua một kỳ thi nào. Học sinh được chú trọng vào việc
học bằng cách tự khám phá hơn là học thuộc lòng. Lớp 1 và 2 được gọi là “infants”, lớp
3 đến lớp 6 được gọi là “juniors”.
3. Giáo dục Trung học
Sau 6 năm ở bậc tiểu học, học sinh thường chuyển sang trường phổ thông ở độ tuổi 11.
Chương trình giáo dục trung học gồm 5 năm và còn gọi là bậc. Ở lớp 7, 8, 9, học sinh học

chương trình chung, vào lớp 10 (bậc 4), học sinh bắt đầu học để chuẩn bò cho một loạt các kỳ
thi được gọi là chứng chỉ tốt nghiệp phổ thông trung học (GCSE). Cuối bậc 5, học sinh vào lứa
tuổi 16 trải qua kỳ kiểm tra GCSE gồm 9 hoặc 10 môn học, 4 trong số đó là các môn tự chọn.
156 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Chứng chỉ này đánh giá quá trình học tập của học sinh phổ thông trung học và ảnh hưởng
trực tiếp đến sự lựa chọn các khoá học tiếp theo của học sinh tại Anh quốc. Chứng chỉ GCSE
có thang điểm từ A là cao nhất đến G là thấp nhất.
Sơ đồ hệ thống giáo dục Anh
4. Trường bậc 6 - Từ 16 đến 18 tuổi
Sau khi hoàn thành giáo dục bắt buộc và hoàn thành kỳ thi GCSE ở độ tuổi 16, học sinh
có thể hợp pháp rời trường và bắt đầu đi làm. Tuy nhiên, hầu hết học sinh tiếp tục học thêm 2
năm nữa trong những chương trình huấn luyện tại các trường kỹ thuật; hoặc trường nghề; hoặc
tiếp tục để chuẩn bò vào trường đại học, để lấy chứng chỉ A (A levels). Năm thứ nhất được
gọi là “Bậc 6 cấp thấp”; năm thứ hai gọi là “Bậc 6 cấp cao”. Những kỳ thi A-levels được thi
vào cuối mỗi năm 1 và năm 2. Kết quả 2 năm sẽ là điểm A-levels. Theo thường lệ, các trường
đại học chọn sinh viên thi A-levels với 3 hoặc 4 môn học tại các trường đào tạo chuyên biệt.
Điểm A-levels càng cao, sinh viên càng có cơ hội vào các trường đại học hàng đầu.
5. Giáo dục Đại học
Thông thường chương trình đại học ở Anh và xứ Wales khoảng 3 năm, (các ngành
Y, Dược và Kiến trúc có thời lượng lớn hơn). Ở Scotland, chương trình đại học là 4 năm.
157Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Một số trường đại học có chương trình cử nhân rút gọn 2 năm. Mỗi năm học thường được
chia thành 2 đến 3 học kỳ. Sinh viên sẽ nhận được bằng Cử nhân về các môn khoa học
xã hội (BA) cho các ngành như ngôn ngữ, nghệ thuật, khoa học xã hội; Cử nhân Khoa học
(BSC) cho các bộ môn khoa học và Cử nhân Kỹ thuật (BEng) cho các ngành liên quan
đến kỹ thuật và công nghệ. Chỉ tiêu đầu vào các trường đại học dành cho sinh viên quốc
tế bao gồm tiếng Anh (IELTS 6.0) và A-levels hoặc một năm Dự bò đại học.
Học sau đại học là bước kế tiếp của bậc đại học. Có hơn 20.000 khoá đào tạo sau
đại học ở Anh quốc về rất nhiều chuyên ngành khác nhau, các khoá học thường có
thời gian ngắn, từ chín tháng đến hai năm. Các chương trình thạc sỹ nghiên cứu triết

lý (Mphil), thạc sỹ khoa học xã hội (MA) và khoa học nghiên cứu (MSc) có thể kéo dài
từ 1 đến 3 năm. Khoá tiến sỹ là một chương trình nghiên cứu từ 3 năm trở lên. Với sinh
viên quốc tế, hầu hết những chương trình thạc só hay tiến só đều yêu cầu họ có bằng đại
học được công nhận và Anh ngữ thông thạo (trình độ IELTS 6.5).
6. Các chương trình giáo dục khác
Nếu không học GCSE hoặc chứng chỉ A, học sinh có thể học các khóa dạy nghề.
Đây cũng có thể là một con đường để vào đại học. Hầu hết các khóa dạy nghề là cho học
sinh trên 16 tuổi, được dạy tại các trường cao đẳng công lập. Các trường cao đẳng (FE),
của cả hệ thống công lập và tư thục, dạy nhiều chương trình đa dạng bao gồm các khóa
Anh ngữ, các khóa lấy chứng chỉ GCSE, chứng chỉ A hoặc các văn bằng tương đương,
các khóa hướng nghiệp, các khóa dự bò và một số khóa đại học. Sau khi học xong chứng
chỉ A, học sinh có thể nộp đơn vào các trường đại học qua hệ thống tuyển sinh UCAS.
IV. NHỮNG CẢI CÁCH QUAN TRỌNG TRONG GIÁO DỤC
1. Phát triển giáo dục toàn diện ở mỗi đứa trẻ (Luật Giáo dục 1944)
Trong lòch sử giáo dục của Anh đầu thế kỷ 20, Luật Giáo dục 1944 (còn được biết đến là
Butler Act) có giá trò ảnh hưởng quan trọng nhất đến hệ thống giáo dục và nó thay thế tất cả các
luật trước đó. Chính phủ nhận ra rằng giáo dục là vấn đề quan trọng của mỗi cá nhân và của
quốc gia. Nếu giáo dục mong muốn nuôi dưỡng tinh thần, trí tuệ và thể chất tốt cho cộng đồng,
nó phải nuôi dưỡng tinh thần, trí tuệ và thể chất của mỗi cá nhân. Trẻ em phải là trung tâm cho
mọi hoạt động giáo dục. Giáo dục không chỉ liên quan đến học thuật mà phải liên quan đến sự
phát triển toàn diện của từng đứa trẻ với sự nuôi dưỡng đầy đủ về tinh thần, đạo đức, trí tuệ
và thể chất. Khái niêm này được sự đồng thuận của tất cả các tầng lớp xã hội và các đảng đối
lập. Trong lòch sử giáo dục Anh, những giá trò tôn giáo, tâm linh được xem là quan trọng tối cao.
Một lần nữa, Luật 1944 nhấn mạnh việc rèn luyện tâm linh, thực hiện các lễ nghi tôn giáo và
cầu nguyện chung của tất cả học sinh trước khi bắt đầu ngày học ở trường (sau này, vấn đề này
bò chỉ trích là không phù hợp với những người không có niềm tin vào tôn giáo). Giáo dục chính
158 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
quy được miễn phí cho tất cả trẻ em và các cơ quan quản lý giáo dục đòa phương phải đảm bảo
đáp ứng nhu cầu học tập của bất cứ ai. Luật 1944 cũng đã quy đònh việc phát triển những giá
trò tinh thần, đạo đức, văn hóa ở trẻ em. Để giúp trẻ em phát triển thể chất tốt, Chính phủ hỗ trợ

nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện thể chất, hỗ trợ mở rộng cơ hội và điều kiện cho trẻ em
và thanh niên tham gia các môn thể thao. Trường học phải đảm bảo việc học sinh trong trường
có chế độ ăn uống dinh dưỡng, an toàn và hợp lý.
Luật 1944 quy đònh trách nhiệm của cơ quan quản lý giáo dục đòa phương trong việc đáp
ứng những nhu cầu xã hội và phúc lợi, hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Trẻ em phải
được đảm bảo có cơ hội tốt nhất để phát huy hết năng lực bản thân. Các nhà giáo dục phải
hiểu những đặc điểm riêng biệt của mỗi cá nhân cũng như những trở ngại thành công của mỗi
đứa trẻ. Nhiệm vụ của các cơ quan quản lý là phải cung cấp tất cả các công cụ hỗ trợ cần thiết
vì sự thành công của học sinh. Luật 1944 đã thực sự mang lại ý nghóa lòch sử quan trọng trong
việc phát triển giáo dục ở Anh. Tuy nhiên, Luật này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và hệ thống
giáo dục được tiếp tục cải cách ở những luật tiếp theo.
2. Loại bỏ chính sách tuyển chọn học sinh (năm 1965)
Để có được hệ thống giáo dục như ngày nay, Chính phủ Anh quốc đã vượt qua
được tính bảo thủ đặc trưng để quyết tâm cải tổ hệ thống giáo dục. Ở những năm 1945,
hệ thống giáo dục ở Anh được phân chia thành ba hệ thống và đi theo chính sách tuyển
lựa từ rất sớm. Khoảng năm 11 tuổi, tất cả trẻ em Anh đều phải trải qua một kỳ thi vào
cuối bậc tiểu học để phân loại trình độ học sinh. Những học sinh nào qua được kỳ thi
này mới được vào học các trường trung học chuyên biệt gọi là “Grammar School”. Học
sinh ở những trường chuyên biệt này được xem là có năng lực và hầu hết được chọn vào
các trường đại học danh tiếng sau khi tốt nghiệp.
Những học sinh nào không qua được kỳ thi phân loại này, phải đi học những
trường gọi là “secondary modern” có trình độ thấp hơn nhiều, hoặc phải học ở trường
kỹ thuật. Kỳ thi ở năm 11 tuổi đã quyết đònh phần lớn tương lai học tập và nghề nghiệp
của đứa trẻ. So với trường chuyên biệt, trường “secondary modern” và trường kỹ thuật
ít nhận được sự quan tâm của Chính phủ hơn, ít được đầu tư về nguồn lực hơn và ít có
đội ngũ giáo viên có năng lực hơn. Tâm lý học sinh thi trượt và phải học ở những trường
secondary và trường kỹ thuật được đánh giá là “nhụt chí”. Sự phân loại trình độ học
sinh và mức độ ưu tiên đầu tư giữa trường chuyên biệt “grammar school” và “secondary
modern” ở Anh trong giai đoạn này khá giống với sự chênh lệch từng tồn tại giữa các
trường công lập và trường bán công Việt Nam trong những năm trước đây.

Không có một vấn đề nào khó khăn và gây nhiều tranh cãi bằng vấn đề làm sao tổ
chức được một hệ thống giáo dục có thể đáp ứng được nhu cầu của tất cả mọi trẻ em,
giàu cũng như nghèo, thông minh cũng như không thông minh, phát triển sớm cũng như
159Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
chậm. Ðòi hỏi chung cho hầu hết mọi cải cách trong hệ thống giáo dục là làm sao đào
tạo ra những công dân, những nhà lãnh đạo để có thể đóng góp tốt nhất cho sự phát
triển xã hội. Kiểu hệ thống phân loại này được xem là chỉ ưu tiên cho học sinh xuất sắc,
cho tầng lớp “thượng lưu, quý tộc”, gây lãng phí rất lớn về nguồn nhân lực tiềm tàng và
là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong xã hội.
Trong nhiều năm, giáo dục là một trong những điểm chính phân biệt hai Đảng
Bảo thủ và Lao động. Trong lúc Đảng Lao động kiên quyết chống việc tuyển chọn học
sinh và chủ trương một nền giáo dục bình đẳng dựa vào hệ thống các trường trung học
tổng hợp thì Đảng Bảo thủ vẫn chủ trương phải lựa chọn học sinh xuất sắc để đào tạo ở
các trường chuyên biệt. Năm 1965, Đảng Lao động đã quyết tâm cải tổ hệ thống giáo
dục của đất nước và giáo dục Anh đã chuyển sang một hệ thống giáo dục không tuyển
chọn, hủy bỏ những trường trung học “secondary modern” và thành lập hệ thống những
trường trung học tổng hợp. Như vậy, những trường trung học tổng hợp phải nhận tất cả
học sinh không phân biệt năng lực hay thành phần xã hội. Khi chuyển từ hệ thống giáo
dục tuyển lựa và phân loại học sinh từ sớm sang hệ thống giáo dục không tuyển lựa, các
nhà lãnh đạo Anh hy vọng rằng sẽ loại bỏ được một trong những bất cập của giáo dục
Anh về bất bình đẳng và chênh lệch trình độ giữa học sinh các trường.
3. Những cải cách dưới thời Tony Blair (1997-2007)
Ở nước Anh, trong hai thập kỷ vừa qua, đã có những báo cáo và yêu cầu phải cải cách
giáo dục do những mối quan ngại về chuẩn kiến thức cũng như chất lượng học tập của học
sinh ngày càng thấp. Một vài báo cáo đã phê bình các trường vì các chuẩn thấp và ngày
càng yếu kém. Nhiều người cũng xem kết quả hoạt động yếu kém của nền kinh tế so với
các quốc gia khác, là do lực lượng lao động được đào tạo kém và thiếu kỹ năng cần thiết.
Trong suốt một thập kỷ cầm quyền lãnh đạo từ 1997 - 2007, Thủ tướng Tony Blair đã nỗ lực
trong công tác cải thiện chất lượng giáo dục tại các trường học ở Anh. Cải cách được tiến
hành trên diện rộng với việc xây dựng tài liệu cấp quốc gia, đào tạo nhân lực theo tầng bậc,

sử dụng hệ thống về trách nhiệm giải trình để đưa ra những kết quả và thanh tra trường học
để đảm bảo rằng việc áp dụng những hoạt động đổi mới có hiệu quả hơn. Chính phủ xây
dựng chương trình đào tạo giáo viên và tổ chức chương trình quan hệ công chúng toàn quốc
để đánh giá cao sự nghiệp giảng dạy và triển vọng của giáo viên. Anh đã thu hút nhiều
giáo viên trẻ tài năng bằng mức lương 7.000 bảng Anh (tương đương 14.000 đô la Mỹ) cho
những giáo viên đã tốt nghiệp chương trình đào tạo giảng dạy một năm.
Chất lượng giáo dục được đánh giá qua kết quả các bài kiểm tra và các nhà giám
sát giáo dục của Chính phủ trực tiếp xuống giám sát và tìm ra nguyên nhân dẫn đến
chất lượng bài kiểm tra kém của học sinh. Những trường có thành tích yếu kém cũng
được kiểm tra kỹ, đóng cửa một số trường hoạt động kém hiệu quả, xây dựng lại từ đầu
160 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
một số trường. Chuyên gia giám sát giáo dục đi rà soát chất lượng giáo dục của từng
trường học ít nhất ba năm một lần, kiểm tra môi trường giảng dạy, năng lực của đội ngũ
lãnh đạo trường học và đưa ra những gợi ý cần phải sửa đổi.
Tài liệu tham khảo
[1] EURYDICE (undated) Overview of education systems in England, Wales and Northern
Ireland, EURYDICE at NFER, at />cfm?file_uuid=585D09DA-C299-53CD-AD5E-0BC73ACB905F&siteName=nfer
retrieved on 9
th
May 2009.
[2] Eurydice (2001) Date at home, The Financing of Schools in England, Wales and
Northern Ireland, At NFER, 2001, available at the NFER Website: />Eurydice/pdfs/The%20financing%20of%20schools.pdf, retrieved on 9
th
May 2009.
[3] Hannaway Jane, Marilyn Murphy Jodie Reed (2004) Leave No City Behind, England/
United States Dialogue on Urban Education Reform, The Urban Institute, Education Policy
Centre & Temple University, Centre for Research in Human Development and Education.
[4] House of Commons (2008) Preparing to deliver the 14–19 education reforms in
England, Thirty–ninth Report of Session, 2007–08, Report, together with formal minutes,
oral and written evidence, Ordered by The House of Commons, to be printed 23 June

2008, Committee of Public Accounts.
[4] Higham Rob, David Hopkins And Elpida Ahtaridou (2007) Improving School
Leadership: Country Background Report for England, OECD: Paris
[5] Jaekyung Lee (2001) School Reform Initiatives as Balancing Acts: Policy Variation
and Educational Convergence among Japan, Korea, England and the United States,
Education Policy Analysis Archives, Volume 9, Number 13, April 2001.
[6] Training and Development Agency for Schools, retrieved
9
th
May, 2009.
Nguồn internet:
History of education in England, available at:
/>governments_from_1979_to_1997, retrieved on 10
th
May 2009.

retrieved on 9
th
May 2009.

161Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
B. GIÁO DỤC PHÁP
THAY ĐỔI TRIẾT LÝ GIÁO DỤC
I. SƠ LƯC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NỀN GIÁO DỤC PHÁP
Cộng hòa Pháp là quốc gia có diện tích lớn thứ hai Châu Âu với dân số khoảng trên
65 triệu người
(41)
. Về mặt hành chính, nước Pháp được chia làm 26 vùng
(42)
, 100 khu

vực, 341 quận, 4.232 tổng và 36.680 xã /phường, trong đó chỉ có các cấp vùng, tỉnh
và xã/phường là có chính quyền do dân bầu.
Từ thế kỷ 17, Pháp đã trở thành một cường quốc và tiến hành xâm chiếm thuộc đòa
ở hầu hết các châu lục trên thế giới. Vì vậy, văn hóa Pháp nói chung và giáo dục Pháp
nói riêng có những ảnh hưởng nhất đònh đến các quốc gia từng là thuộc đòa của Pháp.
Tiếng Pháp đến nay vẫn là một trong những ngôn ngữ phổ biến nhất trên thế giới. Nền
giáo dục Pháp đã phát triển từ rất sớm. Ngay từ những năm 1880, luật sư Jules Ferry, lúc
đó là Bộ trưởng Bộ Giáo dục
(43)
, đã xây dựng hệ thống trường học của nền cộng hòa cơ
bản duy trì đến hiện nay. Theo đó, tất cả trẻ em dưới 15 tuổi, bất kể nam hay nữ, đều
phải đến trường và được hưởng giáo dục miễn phí.
Nước Pháp là một trong những nước có mức chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục
cao nhất trong khối các nước công nghiệp phát triển (OECD)
(44)
. Ngân sách giáo dục
cao hơn tất cả các khu vực hành chính khác. Hầu hết các trường do Nhà nước trực tiếp
quản lý, kể cả phần lớn các trường tư cũng được Nhà nước trợ cấp và điều hành. Giáo
viên có trình độ chuyên môn cao và đặc trưng chung của các trường là rất đề cao học
vấn, chú trọng truyền đạt kiến thức và dạy để học sinh vượt qua các kỳ thi. Đặc tính
không liên quan đến tôn giáo là một trong những nền tảng được quy đònh trong Hiến
pháp nước Pháp, bởi nó được sử dụng như một công cụ cho sự gắn kết và hòa hợp xã
hội; theo đó, các trường công ở Pháp không giảng dạy về tôn giáo.
Trước những năm 1960, giáo dục Pháp về cơ bản được tổ chức như một hệ thống
41.
Số liệu tháng 6 năm 2009
42.
Trong 26 vùng có 22 vùng thuộc chính quốc và 4 vùng không thuộc chính quốc.
43.
Bộ Giáo dục thời điểm đó có tên là Bộ Giảng huấn quốc gia (Ministry of National Instruction).

44.
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế gồm 30 nước phát triển là: Áo, Úc, Bỉ, Canada, Cộng hòa Séc,
Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hi Lạp, Hungari, Iceland, Ireland, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg,
Mexico, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Só,
Thổ Nhó Kỳ, Hoa Kỳ và Vương Quốc Anh.s
162 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
kép với một bên là các trường tiểu học, bao gồm những cơ sở giáo dục được gọi là cơ
sở giáo dục sau tiểu học (enseignement primaire supérieur) cùng với giáo dục hướng
nghiệp và một bên là giáo dục trung học và giáo dục đại học. Sau một loạt các cải
cách, hệ thống này đã được đònh hình và thống nhất lại hoàn toàn, theo đó hệ thống
giáo dục phổ thông được sắp xếp thống nhất từ tiểu học lên trung học và đại học và
duy trì đến hiện nay. Kể từ năm 1967, Pháp qui đònh giáo dục miễn phí và bắt buộc
đối với trẻ từ 6 đến 16 tuổi. Trường học dành cho cả học sinh nam và nữ học chung.
Pháp cũng đã được ghi nhận là có thành tích vượt trội trong phát triển Giáo dục Mầm
non từ những năm 1970 vì hầu hết trẻ trong độ tuổi từ 3 đến 5 tuổi đều được đi học
mẫu giáo.
Tại các trường học ở chính quốc, biên chế năm học do Bộ Giáo dục quốc gia thống
nhất quy đònh, theo đó một năm học thường bắt đầu từ đầu tháng 9 và kết thúc vào
đầu tháng 7 năm sau, khoảng trước ngày Quốc khánh nước Pháp 14 tháng 7. Tại các
trường tiểu học và trung học, chương trình giảng dạy và sách giáo khoa cũng được Bộ
Giáo dục quốc gia thống nhất quy đònh, ngoại trừ một số học phần chuyên biệt do học
sinh tự chọn.
Những ý kiến chỉ trích gần đây, đặc biệt là ý kiến của các nhà giáo dục Anh,
Mỹ thường có quan điểm giáo dục thực dụng, nhấn mạnh rằng giáo dục Pháp quá từ
chương, áp đặt, quá chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức mà bỏ qua việc phát triển
các kỹ năng phân tích hay xây dựng nhân cách cho trẻ. Chương trình học quá rộng và
áp lực kiểm tra thi cử đối với học sinh quá nhiều. Học sinh có nhiều áp lực từ phía giáo
viên cũng như bài tập ở nhà. Ngoài ra, ít có hoạt động nhóm trong học tập, học sinh
được dạy là phải tự chòu trách nhiệm về bản thân và giáo viên không giữ vai trò chính
trong việc chăm lo đời sống cho học sinh. Một điều cũng đáng quan tâm là hệ thống

giáo dục đang bỏ quên nhiều trẻ trong các khu vực xa xôi, những nơi có sự tập trung
đông các dân tộc thiểu số với nhu cầu cần có sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa giáo dục với
thế giới việc làm.
Nhìn chung, với một nền giáo dục sớm phát triển nhưng vẫn còn tồn tài nhiều vấn
đề về triết lý giáo dục, nước Pháp đang có những điều chỉnh về giáo dục trong thế kỷ
21 cho phù hợp với nền kinh tế tri thức và sự tiến bộ về khoa học công nghệ.
II. QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở PHÁP
1. Phân cấp quản lý
Hệ thống quản lý giáo dục của Pháp có tính tập trung rất cao. Chính quyền Trung
ương nắm giữ quyền lực cơ bản trong việc xây dựng, triển khai chính sách giáo dục và
chương trình giáo dục quốc gia. Chính quyền Trung ương cũng chòu trách nhiệm tuyển
163Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
dụng, đào tạo và trả lương cho giáo viên. Cơ quan giáo dục Trung ương là Bộ Giáo dục
quốc gia. Bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc gia là một trong những người có vò trí cao nhất
trong nội các Chính phủ.
Các vùng được phân chia thành các khu vực giáo dục (académies), mỗi khu vực
giáo dục gồm một hoặc vài tỉnh/thành phố
(45)
. Lãnh thổ Pháp được chia thành 35 khu
vực giáo dục, 26 khu vực trong số đó nằm ở đại lục Pháp và 9 khu vực nằm ở các lãnh
thổ ngoài đại lục. Các khu vực giáo dục cũng phụ trách các trường của Pháp thuộc khu
vực đó đóng ở nước ngoài. Ví dụ, Trường Trung học Pháp Charles de Gaulle ở London
(Anh) lại thuộc quyền quản lý của khu vực giáo dục Lille (Pháp). Việc sắp xếp các khu
vực giáo dục theo vùng đòa lý nhưng lại không tương ứng với các đơn vò chính quyền
thường xuyên gây ra các mâu thuẫn giữa các cơ quan quản lý giáo dục của khu vực với
các cấp chính quyền đòa phương.
Nhà nước cung cấp 2/3 tổng kinh phí cho hệ thống giáo dục, chủ yếu là để
trả lương cho giáo viên, ngoài ra chi cho các hình thức hỗ trợ tài chính khác nhau
như cấp học bổng cho học sinh, trợ cấp vào năm học mới Luật Phân quyền năm
1982 và năm 1983 đã nâng cao đáng kể vai trò đối với giáo dục của các cấp chính

quyền đòa phương do dân bầu, tức là các hội đồng vùng, khu vực và xã/phường. Hiện
tại, những đơn vò này đóng góp khoảng 20% chi phí cho giáo dục. Mỗi cấp chính
quyền đòa phương chòu trách nhiệm về một bậc trong hệ thống giáo dục. Xã/phường
chòu trách nhiệm về việc xây dựng, cung cấp trang thiết bò và duy trì các trường tiểu
học và mẫu giáo cũng như trả lương cho nhân viên không trực tiếp giảng dạy. Các
khu vực chòu trách nhiệm về việc xây dựng, cung cấp trang thiết bò và duy trì các
trường trung học cơ sở và hỗ trợ tài chính cho việc đi lại đến trường. Các vùng có
trách nhiệm tương tự như trên với các trường trung học phổ thông và tham gia lập kế
hoạch cho hoạt động giáo dục như kế hoạch đào tạo của vùng, xúc tiến các chương
trình đầu tư.
Trách nhiệm về quản lý hoạt động hàng ngày tại các trường được giao cho Hiệu
trưởng. Chức danh của họ khác nhau tùy theo từng loại hình trường: Hiệu trưởng trường
tiểu học là Directeur, Hiệu trưởng trường trung học cơ sở gọi là Principal và Hiệu trưởng
trường trung học phổ thông gọi là Proviseur. Hiệu trưởng có thể hoặc không tham gia
giảng dạy, tùy thuộc vào sự bố trí ở đòa phương. Họ ngày càng thiên về vai trò là người
quản lý nhiều hơn. Hiệu trưởng thực ra không có trách nhiệm về việc chỉ đònh đội ngũ
nhân viên, mặc dù đang bắt đầu có những thay đổi về điều này.
45.
Khái niệm khu vực giáo dục ở Pháp khác với khái niệm khu vực hành chính. Nước Pháp có 35 khu
vực giáo dục trong khi có 100 khu vực hành chính, cho nên mỗi khu vực giáo dục gồm một hay vài khu
vực hành chính.
164 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Cấp chính quyền đòa phương Trường
Hội đồng xã phường/Mairie Trường tiểu học (bao gồm trường mẫu giáo)
Hội đồng tỉnh/Conseil Général Trường trung học cơ sở
Hội đồng vùng/Conseil Régional Trường trung học phổ thông
Phân cấp trách nhiệm hỗ trợ tài chính cho Giáo dục phổ thông của các cấp chính quyền đòa phương
2. Các Hội đồng trong trường học
Tất cả các trường đều có Hội đồng trường, gồm các cán bộ quản lý, đại diện giáo
viên, cha mẹ học sinh (đối với trường trung học có thêm đại diện học sinh). Ở trường

mẫu giáo, Hội đồng này được gọi là Hội đồng nhà trường (Conseil d’école), trong khi ở
trường trung học cơ sở và trung học phổ thông nó được gọi là Hội đồng quản lý (Conseil
d’administration). Hội đồng trường có quyền giới hạn nhưng giữ vai trò cố vấn rất quan
trọng. Hội đồng họp 3 lần trong một năm. Vai trò của Hội đồng trường ở trường trung
học cơ sở và trung học phổ thông quan trọng hơn so với ở trường mẫu giáo. Hội đồng
này thông qua ngân sách của trường, các nội quy và quy chế, các quy trình kỷ luật và
chi phí của một số dòch vụ nhất đònh. Chủ tòch Hội đồng trường là Hiệu trưởng. Đại diện
cha mẹ học sinh được bầu ra hàng năm thông qua bỏ phiếu kín trong số những cha mẹ
có học sinh theo học ở trường.
Ở trường trung học còn có Hội đồng lớp để giải quyết các vấn đề liên quan đến học
hành, đặc biệt là việc đònh hướng học tập cho từng học sinh và xét việc học sinh ở lại
lớp. Cả học sinh và cha mẹ học sinh đều có đại diện trong hội đồng này.
Ngoài ra ở trường trung học còn có Hội đồng kỷ luật, giải quyết các trường hợp vi
phạm kỷ luật nghiêm trọng, liên quan đến việc cho nghỉ học tạm thời hay vónh viễn với một
học sinh nào đó. Cả học sinh và cha mẹ học sinh đều có đại diện trong hội đồng này.
3. Quản lý giải quyết khiếu nại trong giáo dục ở Pháp
Ở Pháp, có một hệ thống về khiếu nại chính thức dành cho tất cả cha mẹ học sinh
theo cơ chế trung gian hòa giải. Quy trình được áp dụng tùy theo mức độ, phụ thuộc
vào bản chất của khiếu nại và bậc học của học sinh. Các cấp sẽ bao gồm Hiệu trưởng,
Thanh tra giáo dục, cán bộ trung gian hòa giải về giáo dục. Nếu khiếu nại liên quan tới
một quyết đònh do cơ quan giáo dục của tỉnh, vùng hoặc quốc gia ban hành thì khiếu
165Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
nại sẽ chuyển tới cán bộ trung gian hòa giải cấp tương đương. Mặc dù quyết đònh của
người hòa giải không gắn với cơ quan quản lý giáo dục nhưng những tư vấn của họ nói
chung sẽ được chấp thuận và làm theo. Ngoài việc sử dụng cơ chế trung gian hòa giải
để giải quyết khiếu nại nêu trên, cũng có các biện pháp về pháp lý thông qua tòa án.
III. CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHÁP
1. Nhà trẻ
Mỗi đòa phương đều có nhà trẻ cho trẻ em dưới 3 tuổi. Nhà trẻ thường do chính
quyền xã/phường quản lý; một số nhà trẻ được quản lý bởi các tổ chức phi lợi nhuận

được cấp phép, một số là các hộ gia đình nhận giữ trẻ tại nhà. Ở nhiều đòa phương, trẻ
chỉ có thể được nhận vào các nhà trẻ nếu cả hai bố mẹ đều đang đi làm bởi vì số lượng
hạn chế. Mức độ dòch vụ trong các nhà trẻ rất khác nhau, một số nhà trẻ nhận trông trẻ
cả ngày, nhưng nhiều nhà trẻ chỉ trông trẻ nửa ngày. Phần lớn chi phí đã được bao cấp
bởi chính quyền xã/phường; phụ huynh phải đóng một khoản tiền nhỏ cho các dòch vụ
của nhà trẻ; mức đóng góp của phụ huynh tùy thuộc vào mức thu nhập của họ.
2 Giáo dục Tiểu học
Trường mầm non: Trường mầm non thường gắn liền với trường tiểu học ở đòa
phương, một vài đòa phương có thể phối hợp với nhau để xây dựng trường mầm non
riêng. Học sinh được nhập học vào trường theo đòa bàn tuyển sinh qui đònh theo vùng
đòa lý. Học sinh ngoài đòa bàn tuyển sinh đòi hỏi phải có giấy phép chấp nhận của
chính quyền đòa phương. Việc nhập học cho học sinh được tổ chức thông qua chính
quyền xã/phường và sau đó thông qua trường. Quy trình này gọi là quy trình ghi danh
vào trường mầm non (Inscription à l’école maternelle).
Trường tiểu học: Pháp có 60.000 trường tiểu học, cung cấp giáo dục chính qui cho
học sinh học bậc tiểu học trong 5 năm. Trẻ theo học trường tiểu học từ năm lên 6 tuổi.
Trẻ nhỏ tuổi hơn cũng có thể được nhập học nếu nhà trường xét thấy có khả năng theo
học và nếu trường còn chỗ. Trẻ được học các kó năng cơ bản trong 3 năm đầu tiên (gồm
lớp dự bò - CP và các lớp sơ cấp 1, 2 - CE 1, 2), sau đó học giai đoạn tiếp theo (các lớp
trung cấp 1, 2 - CM 1, 2) cho đến khi kết thúc bậc tiểu học. Như vậy không có tên gọi
các lớp 1, 2, 3, 4, 5 như hầu hết các nước trên thế giới. Phần lớn các trường học trong 4
ngày, nghỉ ngày thứ tư. Từ năm 2008, học sinh tiểu học không phải đi học vào sáng thứ
bảy, trước đó đây là nét rất đặc trưng của giáo dục Pháp so với các nước phương Tây.
Giống như trường mầm non, học sinh nhập học vào các trường theo đòa bàn tuyển
sinh quy đònh theo vùng đòa lý. Cha mẹ nếu muốn cho con học ở một trường khác không
thuộc đòa bàn tuyển sinh này phải có lý do chính đáng và được chính quyền đòa phương
166 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
3. Giáo dục Trung học
Giáo dục Trung học được chia thành hai giai đoạn liên tiếp thường gọi là các chu
kỳ. Chu kỳ đầu tương đương đương với trung học cơ sở (học ở trường collège), chu kỳ

thứ hai tương đương với trung học phổ thông (học ở trường Lycée). Có một số điểm đáng
lưu ý về hệ thống trường học ở Pháp khác với hầu hết các nước trên thế giới. Thứ nhất,
tên gọi lớp học giảm dần khi càng lên cao; cụ thể thứ tự và tên gọi các lớp là đệ lục,
đệ ngũ, đệ tứ, đệ tam, đệ nhò, đệ nhất và lớp cuối cấp
(46)
(tương đương với các lớp 6,
Sơ đồ hệ thống giáo dục phổ thông của Pháp
cả nơi đi và nơi đến chấp thuận nếu xét thấy bố hoặc mẹ hoặc cả hai bố mẹ đi làm ở
ngoài đòa bàn và gặp khó khăn trong việc đưa đón con. Chính quyền đòa phương cũng
có trách nhiệm đồng ý cho trẻ sang học ở đòa bàn khác nếu trẻ có nhu cầu được chăm
sóc y tế thường xuyên mà nhu cầu này chỉ có thể đáp ứng được ở đòa bàn khác, hoặc
nếu anh, chò, em của trẻ trong cùng năm học đang theo học ở trường của đòa bàn đó.
167Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
46.
Do ảnh hưởng của giáo dục Pháp, trước năm 1975 ở miền Nam nước ta có cách gọi các lớp giống như của Pháp.
47.
Du học sinh các nước như Việt Nam khi làm hồ sơ học đại học tại Pháp thường khai là có bằng tú
tài đại cương - Bac G
48.
Do dân số Pháp phát triển tương đối ổn đònh nên các con số này cũng duy trì tương đối ổn đònh qua
các năm học.
7, 8, 9, 10, 11, 12). Thứ hai, bậc trung học phổ thông đã được phân ban theo chuyên
ngành, do vậy tùy vào chuyên ngành, học sinh sẽ lấy bằng tú tài khoa học (Bac S), bằng
tú tài văn chương (Bac L), hay bằng tú tài đại cương (Bac G)
(47)
. Cách thức này giúp
học sinh đònh hướng rõ ràng cho bậc đại học hoặc có đủ kỹ năng đi làm việc sau khi
tốt nghiệp tú tài nếu không có năng lực về học vấn.
Học sinh không phải lúc nào cũng có quyền tự do lựa chọn loại hình trường trung
học hay chuyên ngành cho mình. Khi kết thúc năm cuối cùng của trường trung học cơ

sở, hội đồng lớp sẽ tiến hành đánh giá khả năng, năng khiếu và động cơ học tập của
học sinh. Báo cáo này sẽ đề xuất về loại hình giáo dục trung học phổ thông mà họ cho
là phù hợp nhất với trẻ. Mong muốn của phụ huynh học sinh được xem xét trước khi đưa
ra quyết đònh cuối cùng. Nếu không có sự thống nhất giữa hội đồng lớp và mong muốn
của phụ huynh học sinh, Hiệu trưởng nhà trường là người đưa ra quyết đònh cuối cùng.
Đại đa số học sinh theo học tại các trường công dưới sự giám sát của Bộ Giáo dục
quốc gia. Tuy vậy, có khoảng 100.000 học sinh thuộc các dạng khuyết tật học ở những
trường chuyên biệt dưới sự hỗ trợ của Bộ Y tế và 200.000 học sinh theo học ở các
trường trung học nông nghiệp (các khoá đào tạo kó thuật và dạy nghề). Ngoài ra, khoảng
300.000 học sinh khác từ 16 tuổi trở lên trải qua các lớp học việc (thông qua các hợp
đồng lao động). Kể từ cuộc cải cách năm 1987, hình thức học việc như vậy có thể trang
bò cho học sinh các loại bằng nghề khác nhau
(48)
.
Trường tư cũng được đặt dưới sự quản lý một phần của Bộ Giáo dục quốc gia.
Các trường tư của Pháp tiếp nhận khoảng 15% học sinh tiểu học và 20% học sinh ở
bậc trung học. Tỷ lệ này luôn ổn đònh trong các thập kỷ qua. Phần lớn các trường tư là
trường Thiên chúa giáo. Các trường này ký hợp đồng với Nhà nước để chòu trách nhiệm
về lương cho cán bộ nhân viên ngoài các khoản khác do Nhà nước hỗ trợ, cho nên học
phí được thu ở mức độ vừa phải so với chuẩn của hầu hết các nước khác. Đối với các
trường tư không có các hợp đồng như vậy (tiếp nhận khoảng 50.000 học sinh), người
học phải đóng học phí rất cao, ngang với các nước châu Âu khác. Gần đây, trường tư đã
trở nên phổ biến hơn và tình trạng cầu vượt quá cung được thấy ở nhiều khu vực thành
phố của Pháp, đặc biệt đáng chú ý ở Paris và các khu vực phía Nam, nơi tập trung các
trường trung học phổ thông tư thục tốt nhất. Trường tư có cùng chương trình học như
trường công và cũng phải chòu các qui đònh thanh tra của Chính phủ như trường công.
168 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Giáo viên ở trường tư không nhất thiết phải có trình độ như trình độ yêu cầu đối với giáo
viên trường công, tuy nhiên, chuẩn giảng dạy không được thấp quá.
Song song với hệ thống trường học thông thường còn có các chương trình lớp đặc

biệt hoặc lớp ghép thường được lồng ghép vào các trường tiểu học và trường trung học.
Những chương trình như vậy bao gồm các lớp có chức năng như cầu nối đưa trẻ khuyết
tật trở lại với hệ thống trường học thông thường (CLIS) và các lớp ghép giữa giáo dục
phổ thông và giáo dục hướng nghiệp (SEGPA) được thiết kế dành cho các thanh thiếu
niên gặp khó khăn trong học tập do các vấn đề về tâm lý, tình cảm hoặc hành vi ứng
xử và cho những học sinh chậm tiếp thu. Ở các trường giáo dục đặc biệt dưới sự hỗ trợ
của Bộ Y tế cũng có các chương trình như vậy. Mục đích của nó là giúp số học sinh này
(chiếm khoảng 5% số học sinh trong mỗi nhóm lứa tuổi) đạt được mức độ kó năng tối
thiểu, tức là được cấp giấy chứng nhận khả năng chuyên môn (CAP) theo đó sẽ được
vào học các chương trình đào tạo kỹ năng nghề đặc biệt.
3.1. Trường trung học cơ sở
Từ 11 đến 15 tuổi trẻ học ở trường trung học cơ sở (collège) gồm 4 lớp: đệ lục (lớp
nhập môn), đệ ngũ và đệ tứ (các lớp trung), đệ tam (lớp đònh hướng). Kể từ năm 1975,
chỉ có duy nhất một loại hình trường trung học cơ sở đại trà dành cho tất cả học sinh
thuộc mọi khả năng bất kể kết quả học tập đạt được ở mức độ nào.
Chương trình giáo dục trung học cơ sở gồm các môn: tiếng Pháp, toán, vật lý, hóa
học, lòch sử - đòa lí, giáo dục công dân, khoa học sự sống và trái đất, kó thuật, nghệ thuật
tạo hình, nhạc và thể dục thể thao. Hiện nay, lớp đệ tam (năm cuối cấp trung học cơ
sở) là thời điểm đầu tiên mà học sinh được lựa chọn một số môn mà các em muốn học
và đònh hướng chương trình mà các em muốn theo. Riêng với môn ngoại ngữ, các em
đã phải chọn một ngoại ngữ ngay từ lớp đệ lục và một ngoại ngữ nữa trong lớp đệ tứ.
Kết thúc bậc học trung học cơ sở, học sinh phải tham gia một kỳ thi toàn quốc để được
cấp “Bằng tốt nghiệp chu kỳ đầu - BEPC”
(49)
.
Phụ huynh thường mong muốn gửi con mình đến trường trong đòa bàn tuyển sinh,
mặc dù họ có thể gửi con mình đến trường ngoài đòa bàn nếu vẫn còn chỗ và kèm theo
đơn xin học vào trường ngoài đòa bàn. Đơn này sau đó sẽ được xem xét bởi cán bộ đòa
phương với quyết đònh cuối cùng thuộc về Cơ quan quản lý giáo dục sau khi xem xét về
số lượng và các lý do thỏa đáng.

3.2. Trường trung học phổ thông
Từ 16 đến 18 tuổi trẻ học ở trường trung học phổ thông (THPT). Sau lớp đệ tam, các
169Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
51.
Tương đương với bằng tốt nghiệp THCS ở Việt Nam
em tiếp tục chuyển lên học hoặc là ở trường THPT đại cương và công nghệ gồm các lớp
đệ nhò, đệ nhất và lớp cuối cấp hoặc là trường THPT nghề.
Những học sinh mong muốn tiếp tục học đại học sẽ theo học trường THPT đại
cương và công nghệ và thường tốt nghiệp ở tuổi 18. Khối đào tạo đại cương gồm 3
ngành: Kinh tế và xã hội (toán, khoa học kinh tế và xã hội, ngôn ngữ), Văn học (văn
chương cơ bản, văn chương và ngôn ngữ, văn chương và nghệ thuật, văn chương
và toán học) và Khoa học (toán, lí, hoá, khoa học sự sống và trái đất, kó thuật công
nghiệp). Khối đào tạo công nghệ gồm 8 ngành: Khoa học kó thuật thực hành, Khoa
học kó thuật công nghiệp, Khoa học kó thuật quản lí, Khoa học kó thuật y tế và xã hội,
Kó thuật nhạc và múa, Ngành khách sạn, Khoa học kó thuật nông học và sinh vật
và Khoa học kó thuật môi trường. Những học sinh này sẽ được cấp bằng tú tài theo
chuyên ngành mà theo đó chúng có thể học lên đại học, học được cấp bằng cao đẳng
kỹ thuật (Brevet de Technicien Supérieur - BTS) hoặc bằng kỹ nghệ (Diplôme de
Métiers d’Art - DMA).
Còn những học sinh muốn đi làm ngay sau khi ra trường sẽ học trường THPT nghề.
Những học sinh học lấy Chứng chỉ khả năng chuyên môn (CAP) hoặc Chứng chỉ nghề
(BEP) sẽ chỉ học trong 2 năm (từ 15 đến 17 tuổi, tương đương với lớp đệ nhò và đệ nhất).
Những học sinh này nếu tiếp tục học hai năm nữa sẽ lấy Bằng tú tài nghề (BP). Như
vậy, khác với ngạch THPT đại cương và công nghệ, học sinh học ở ngạch này sẽ thường
lấy bằng tú tài ở tuổi 19. Kể từ năm 1985, những học sinh sau khi lấy bằng tú tài nghề
có thể học lên bậc đại học trong khuôn khổ đào tạo nghề.
Ngoài ra, còn có các trung tâm học việc gọi là Trung tâm đào tạo nghề (CFA),
mặc dù không thuộc hệ thống trường trung học nhưng cũng là một phần của giáo dục
phổ thông.
Chính phủ đang nỗ lực để cải thiện vò thế của trường THPT nghề và tăng số lượng

học sinh học việc. Đây là một phần của chiến lược giảm tỷ lệ thất nghiệp trong thanh
niên và bổ sung sự thiếu hụt lao động trong một số ngành. Chiến lược này đang tạo ra sự
hiệu quả nhất đònh khi số học sinh theo học nghề ngày càng tăng. Một số trường trung
học đã được đổi tên thành Trường trung học nghề (Lycée de Metiers) để thể hiện vò
trí nâng cao của chúng, thể hiện mong muốn của Chính phủ về tính linh hoạt hơn trong
hệ thống trường trung học phổ thông và để tạo nhiều cơ hội đào tạo và đào tạo lại cho
người lớn.
Kết thúc bậc học THPT, học sinh phải tham gia một kỳ thi tú tài toàn quốc để được
cấp bằng tú tài, một điều kiện tiên quyết để học lên cao đẳng hoặc đại học.
170 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
4. Giáo dục Đại học
Giáo dục Đại học của Pháp gồm chương trình cử nhân 3 năm, chương trình thạc sỹ
2 năm và chương trình tiến sỹ 3 năm. Có 2 loại bằng thạc sỹ: Thạc só nghiên cứu dành
cho những người hướng vào mục đích nghiên cứu giảng dạy và Thạc só chuyên ngành
dành cho những người muốn học chuyên sâu hơn để làm việc trong các chuyên
ngành khác nhau. Kết quả của kỳ thi tú tài là cơ sở để xét tuyển sinh đại học, cho nên
học sinh Pháp không phải qua kỳ thi tuyển sinh đại học. Đối với sinh viên quốc tế, việc
tuyển sinh thông qua kỳ thi kiểm tra tiếng Pháp và xét duyệt hồ sơ. Các trường công
lập được Nhà nước hỗ trợ tiền học phí cho sinh viên nên mức học phí chỉ vào khoảng
từ 200 đến 400 euro một năm. Các trường tư thục có học phí thường từ 4.000 euro trở
lên một năm.
Không giống như hệ thống trường đại học ở hầu hết các nước phương Tây, Giáo
dục Đại học của Pháp có một hệ thống kép gồm các trường đại học và các trường lớn
(Grandes Ecoles).
Hệ thống các trường đại học gồm hai loại: Các trường tổng hợp và các học
viện kỹ thuật. Các học viện kỹ thuật gồm: Các viện đại học chuyên nghiệp (Instituts
Universitaires Professionnalisés), các viện đại học công nghệ (Instituts Universitaires
de Technologique), các trường đào tạo khoa học ứng dụng (Instituts Nationnaux des
Sciences Appliquées), các trường cấp bằng kỹ thuật cao cấp (Brevet de Technicien
Supérieur).

Hệ thống các trường lớn là nét rất đặc trưng của Giáo dục Đại học ở Pháp. Đây là
các trường chuyên ngành tuyển đầu vào rất giới hạn so với các trường đại học khác và
đào tạo ra đội ngũ trí thức chất lượng cao cho Nhà nước. Ở các trường này, sinh viên phải
học hai năm dự bò và sau đó phải vượt qua một kỳ thi rất cạnh tranh. Nếu không vượt
qua kỳ thi, sinh viên phải chuyển sang học năm ba tại các trường đại học tổng hợp hoặc
học viện kỹ thuật để lấy bằng cử nhân. Sinh viên tốt nghiệp trường lớn có bằng cấp
giá trò hơn cả bằng Thạc só ở các đại học khác. Hệ thống các trường này bao gồm: Các
trường kỹ sư (Écoles d’Ingénieur), các trường quản lý (Écoles de Gestion), các trường sư
phạm (Ecole Normale Supérieure), các trường hành chính quốc gia (Ecole Nationale
d’Administration), các viện nghiên cứu chính trò (Institut d’Études Politiques), các trường
thú y quốc gia (Ecoles Nationales Vétérinaires) Các sinh viên Pháp theo học tại các
trường sư phạm và các trường hành chính quốc gia được trả lương và đương nhiên họ
phải có trách nhiệm phục vụ theo phân công của Nhà nước sau khi ra trường.
171Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Hệ thống Giáo dục Đại học của Pháp
172 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
IV. HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC PHÁP
Hệ thống đánh giá của giáo dục Pháp sử dụng cách tính điểm theo thang điểm 20.
Về lý thuyết điểm 20 là điểm cao nhất và điểm 0 là điểm thấp nhất, nhưng trong thực
tế hiếm khi người học đạt thấp hơn điểm 6 và cao hơn điểm 16. Dựa vào thang điểm
trên người học được đánh giá (thể hiện trong bảng điểm) như sau:
+ Trên 10 là đỗ (đậu)
+ Từ 10 đến 11 là đạt yêu cầu
+ Từ 12 đến 13 là tốt
+ Từ 14 đến 15 là rất tốt
+ Từ 16 đến 17 là xuất sắc
+ Từ 18 đến 19 là khá hoàn hảo
+ 20 là hoàn hảo
Hệ thống giáo dục Pháp rất coi trọng việc thi cử và cấp bằng; các kỳ thi được tổ
chức rất nghiêm ngặt. Hiện nay vẫn tồn tại kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở (Bằng tốt

nghiệp chu kỳ đầu) và kỳ thi tú tài quốc gia. Tỷ lệ học sinh đỗ tú tài thường không cao.
Học sinh đỗ tú tài gần như chắc chắn được tuyển vào cao đẳng hoặc đại học. Chính vì
điều này mà áp lực đối với học sinh trung học là rất lớn, đòi hỏi học sinh phải nỗ lực
rất nhiều để vượt qua các kỳ thi cuối cấp.
V. CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỖ TR NGƯỜI HỌC
1. Hỗ trợ học sinh có nhu cầu giáo dục đặc biệt
Tất cả trẻ trong một đòa phương học cùng một trường trung học cơ sở trước khi chia
ra các trường trung học phổ thông khác nhau. Vì vậy, trường trung học cơ sở phải đối
mặt với nhiệm vụ là phải làm sao cung cấp cùng một chuẩn giáo dục cho mọi học sinh,
trong khi đầu vào của trẻ có thể ở các mức độ khác nhau do kết quả của thành tích đạt
được ở bậc tiểu học khác nhau. Các trường trung học cơ sở hiện có thêm nhiều nguồn lực
để phân bổ ít nhất 2 giờ một tuần trong lớp đệ lục và đệ ngũ nhằm giúp học sinh chậm
tiếp thu đạt trình độ yêu cầu.
Từ năm học 2000 - 2001 đã có những khoá học phụ đạo cùng với chương trình
giám sát cá nhân (TPE) được tổ chức cho học sinh lớp đệ nhất ngạch phổ thông đại
cương và công nghệ (năm gần cuối cấp) nhằm phát triển khả năng học tập độc lập của
đối tượng học sinh này.
173Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
Để giúp học sinh có hoàn cảnh khó khăn, Pháp đã xây dựng một chính sách phân
biệt nhưng mang tính tích cực, tức là phân bổ kinh phí bổ sung cho các trường trong
“khu vực giáo dục ưu tiên” (ZEP), nơi mà môi trường văn hoá và xã hội không thuận lợi
khiến việc giáo dục học sinh hết sức khó khăn - 18% học sinh tiểu học và 21% học sinh
trung học cơ sở đang học các khu vực giáo dục ưu tiên này.
Pháp cũng có nguồn chi phí hỗ trợ dành cho học sinh có nhu cầu giáo dục đặc biệt.
Sự hỗ trợ này có thể dựa trên từng cá nhân hay nhóm học sinh trong các trường thông
thường hay trong các cơ sở giáo dục đặc biệt. Trong các trường thông thường hoặc trong
các nhóm lớp chuyên biệt trong nhà trường, các giáo viên chuyên biệt được chỉ đònh
cùng với việc sử dụng các trang thiết bò phù hợp để hướng dẫn từng cá nhân học sinh
có nhu cầu giáo dục đặc biệt (bao gồm cả trẻ có vấn đề về hành vi ứng xử).
2. Hỗ trợ tại trường cho trẻ nhập cư

Những học sinh mới đến Pháp không đủ trình độ về tiếng Pháp hoặc có khó khăn
về học tập hàng ngày được hỗ trợ học các lớp chuyên sâu tiếng Pháp như một ngôn
ngữ thứ hai trong một giai đoạn nhất đònh để có thể theo học các môn ở trường và để
hoà nhập xã hội. Việc dạy các lớp này nằm ngoài chương trình dạy tiếng Pháp như một
ngoại ngữ. Lúc đầu, thời lượng học tiếng Pháp rất nhiều và sau đó sẽ giảm dần để đưa
vào các môn học khác giống như lớp bình thường. Mục đích của chương trình này là
giúp học sinh nhập cư hoà nhập càng sớm càng tốt, sau một năm học hoặc nhiều nhất
là sau hai năm trong trường hợp học sinh đến Pháp vào giữa năm học, hoặc khi mới đến
Pháp, học sinh này thể hiện kết quả học thấp khó được nhận vào giai đoạn cuối của
trường tiểu học (các lớp trung đẳng) hoặc trường trung học.
Ngoài ra còn có các lớp dành cho học sinh chưa bao giờ học tiếng Pháp được tổ
chức ở các trường trung học, đặc biệt là trung học phổ thông nghề, cũng như trường
trung học cơ sở, để học sinh trước tiên nắm được ngôn ngữ nói và sau đó là các kiến
thức cơ bản về đọc viết tiếng Pháp. Tuy nhiên, học sinh vẫn tham gia các lớp học bình
thường mà kiến thức về tiếng Pháp không phải là yếu tố xem xét chính mà là các môn
giáo dục thể chất, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình Đối với các trường tổ chức các lớp
học tiếng Pháp ban đầu nêu trên, họ phải có ít nhất 15 học sinh/lớp mới mở lớp. Nếu
chỉ với vài học sinh, Nhà nước phải có trách nhiệm chi trả tăng giờ cho những giáo viên
dạy riêng về ngôn ngữ cho đối tượng học sinh này.
3. Hỗ trợ cho gia đình khó khăn và học sinh xuất sắc
Với những gia đình khó khăn, Nhà nước có các hình thức trợ cấp khác nhau thông
qua chính quyền đòa phương. Khoản trợ cấp cơ bản giúp “quay trở lại trường học” được
gọi là Allocation Rentrée Scolaire. Đây là khoản tiền trợ cấp vào đầu mỗi năm học,
174 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ
nhằm giúp giải quyết các nhu cầu khi bắt đầu năm học mới, ví dụ, quần áo, văn phòng
phẩm. Khoản tiền này chi trả cho học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 18 đang đi học, hoặc
tham gia các lớp học việc.
Các khoản trợ cấp xã hội ở cả trường trung học cơ sở và trường trung học phổ thông
dành cho con em các gia đình gặp khó khăn về chi phí học hành, bao gồm các bữa ăn
tại trường, trang thiết bò và đi lại. Tiêu chí để được hỗ trợ sẽ do Hiệu trưởng nhà trường

quyết đònh sau khi được hội đồng trường xem xét. Chính quyền xã và tỉnh đôi khi hỗ
trợ các khoản tài chính linh động như hỗ trợ đi lại dành cho những học sinh sống ở xã,
phường đó. Với những khoản hỗ trợ chung, chính quyền đòa phương sẽ có văn bản gửi
các gia đình hoặc gửi cho các trường để thông báo lại cho cha mẹ học sinh.
Khoản hỗ trợ dành cho học sinh trường trung học cơ sở được gọi là Bourses de
Collège. Tiêu chí lựa chọn tùy theo số trẻ và số người lớn trong gia đình. Mức trợ cấp nói
chung là ít. Có 3 mức trợ cấp, phụ thuộc vào mức thu nhập và hoàn cảnh gia đình.
Khoản hỗ trợ dành cho học sinh trường trung học phổ thông được gọi là Bourses
de Lycée. Có 5 khoản trợ cấp dành cho học sinh theo học trường trung học phổ thông,
vào lúc bắt đầu vào trường hoặc trong những giai đoạn khác nhau trong quá trình học
tập của các em. Những khoản trợ cấp này cũng áp dụng cho những em học tập tại các
trung tâm học việc (CFA), với điều kiện là các em đó được coi là học sinh chính thức
đang theo học.
Những khoản hỗ trợ theo thành tích học tập ở trường trung học phổ thông được
gọi là Bourses au mérite. Khoản này do Cơ quan quản lý giáo dục trao nhưng yêu cầu
ban đầu phải gửi lên nhà trường. Việc tiếp tục cấp khoản hỗ trợ này tùy theo tiến bộ và
thành tích học tập xứng đáng.
Khoản hỗ trợ giúp thích nghi dành cho học sinh khuyết tật được gọi là Bourse
d’enseignement d’adaptation. Đây là những khoản dành cho học sinh tiểu học và trung
học cơ sở, những em bò khuyết tật hoặc có các vấn đề nghiêm trọng khác về tâm lý hay
thể chất. Những khoản này nhằm hỗ trợ chi phí, giúp khắc phục khó khăn liên quan
đến việc thích nghi với môi trường học tập. Nếu học sinh bò mất khả năng tới 50% và
không thể theo học tại trường hòa nhập bình thường, gia đình em đó sẽ được hưởng
khoản trợ cấp giáo dục đặc biệt.
VI. NHỮNG CẢI CÁCH CHÍNH GẦN ĐÂY
1. Cải cách hệ thống trường học năm 1975
Cuộc cải cách chính trong hệ thống giáo dục của Pháp là cải cách năm 1975 với
hệ thống trường trung học thống nhất và toàn diện nối tiếp sau 5 năm giáo dục tiểu học
phổ cập. Ý tưởng về hệ thống trường trung học thống nhất là nhằm tạo ra nền tảng chung
175Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ

cho việc phổ cập chu kỳ đầu của giáo dục trung học (THCS) cho đến khi học sinh hoàn
thành “Bằng tốt nghiệp chu kỳ đầu”. Hai năm đầu THCS (đệ lục và đệ ngũ) tạm gọi là
“chu kỳ quan sát” giống nhau cho tất cả mọi đối tượng học sinh. Tuy nhiên, 2 năm cuối
(đệ tứ và đệ tam) được xem là “chu kỳ đònh hướng”, phân biệt giữa một hướng thiên về
đại cương và một hướng thiên về hướng nghiệp. Sự xác đònh được đưa ra trong khuôn
khổ khung đònh hướng sau lớp đệ ngũ, tức là khi học sinh khoảng 13 tuổi, như là bước
ngoặt đầu tiên trong việc sắp xếp, phân loại học sinh trong hệ thống giáo dục ở Pháp.
Sự lựa chọn dựa trên thành tích học tập của học sinh trong 2 năm đầu trung học và gần
đây còn dựa trên cả sự lựa chọn của cha mẹ học sinh trong trường hợp họ từ chối một
sự “đònh hướng kém”.
Chu kỳ thứ hai của giáo dục trung học được kết hợp lại trong một trường trung học
phổ thông đại cương và công nghệ (LEGT). Cách kết hợp như vậy nhằm nâng cao vò thế
của giáo dục kỹ thuật. Mảng kỹ thuật và mảng đại cương học chung trong một năm học
đầu (lớp đệ nhò), sau đó chia ra theo chuyên ngành. Sau 3 năm, học sinh của mảng đại
cương sẽ lấy bằng tú tài đại cương, học sinh của mảng kỹ thuật sẽ lấy bằng tú tài công
nghệ. Trong khi mục tiêu của bằng tú tài nghề phổ thông (học ở trường THPT nghề)
là giúp những học sinh ra trường có thể tham gia ngay vào thò trường lao động, mặc dù
một số em cũng đủ sức học đại học thì mục đích chính của việc đưa ra bằng tú tài công
nghệ (học ở trường THPT đại cương và công nghệ) là nhằm chuẩn bò cho học sinh tốt
nghiệp phổ thông có thể lấy những văn bằng kỹ thuật tương đương đại học ở các khoa
kỹ thuật cao cấp (STS) hoặc viện đại học công nghệ (IUT). Tất cả các loại bằng tú tài
đều được cấp sau khi học sinh qua một kỳ thi tú tài tập trung trên toàn quốc.
2. Xu hướng phân quyền phân cấp
Cùng với xu hướng phân cấp trong hệ thống chính quyền, chủ trương phân cấp,
phân quyền trong giáo dục cũng được thể hiện rất rõ trong những thập niên gần đây.
Sự phân cấp này đã tạo ra hệ thống giáo dục linh hoạt hơn và đa dạng hơn so với hệ
thống quá cứng nhắc trước đây. Các cấp chính quyền đòa phương và các cơ quan khác
dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục quốc gia hiện nay đã được trao quyền nhiều hơn trong
quản trò trường học. Các vấn đề giờ đây không chỉ còn được quyết đònh tại Paris hoặc
do các văn phòng thuộc Bộ quyết đònh. Hàng năm, các cơ quan quản lý giáo dục của

35 khu vực giáo dục nhận được từ Chính phủ một ngân khoản chung cho từng mục chi,
số tiền đó sẽ được phân bổ tới các đơn vò giáo dục. Bên cạnh việc chòu trách nhiệm về
hoạt động giáo dục tại các trường phổ thông, các Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục
của khu vực còn là “Hiệu trưởng trên danh nghóa” của các trường đại học trong khu vực
đó và là người quản lý hợp đồng giữa những trường tư thục với Nhà nước.
Kể từ năm 1999, Giám đốc cơ quan quản lý giáo dục của khu vực đã được phân
176 Chương III - Q TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC Ở KHU VỰC CHÂU ÂU VÀ CHÂU MỸ

×