Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đặc điểm của các công ty chứng khoán ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.82 KB, 42 trang )

MỤC LỤC
I _ LỜI NÓI ĐẦU 1
II_NỘI DUNG
A_Lý Thuyết 3
1. Thị trường chứng khoán 3
2. Công ty chứng khoán 3
a. Khái niệm và phân loại công ty chứng khoán 4
b. Vai trò của công ty chứng khoán 5
c. Thành lập công ty chứng khoán 7
d. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán 10
e. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán 11
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán 11
a. Các nghiệp vụ chính 11
b. Các nghiệp vụ phụ trợ 16
B_Thực Tiễn 17
1. Đặc điểm của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 17
2. Thực trạng của các công ty chứng khoán hiện na 18
a. Ảnh hưởng của luật chứng khoán tới việc thành lập các công ty
chứng khoán hiện nay 18
b. Các công ty nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt
Nam 19
3. Giải pháp để phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam 20
III_KẾT LUẬN 26
VI_TÀI LIỆU THAM KHẢO
VII_ PHỤ LỤC
Lời nói đầu
Đôi với sự tăng trưởng của nền kinh tế chúng ta có thể theo dõi thông qua
thị trường chứng khoán, nơi được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế. Và thị
trường chứng khoán của chúng ta chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000.
Như vậy đến nay đã được 6 năm phát triển và tồn tại .Thị trường chứng khoán
là một thị trường còn rất mới mẻ và còn rất non trẻ so với thế giới. Trên thế


giới thị trường chứng khoán ra đời từ cách đây hàng trăm năm, chính xác là
vào khoảng thế kỷ 15.Lúc đó nó mới chỉ là các giao dịch thoả thuận giữa các
thương gia trong các quán cà phê ở phương tây. Quá trình phát triển của thị
trường chứng khoán trên trải qua hàng trăm năm thị trường đă gặp nhiều
thăng trầm trong lịch sử của mình. Lịch sử đã ghi nhận hai cuộc khủng hoảng
lớn của thị trường chứng khoán, đó là sự sụp đổ trong vài giờ của các thị
trường lớn ở Mỹ, Nhật, Tây Âu, Bắc Âu trong ngày thứ năm đen tối
(29/10/1929) và ngày thứ hai đen tối (19/10/1987). Lúc đó chúng ta chưa có
thị trường chứng khoán cho nên những cuộc khủng hoảng trên không ảnh
hưởng đến nền kinh tế nước ta. Trong khi chúng ta mới thoát ra khỏi chiến
tranh chưa lâu thì có thể khẳng định rằng nền kinh tế của ta vẫn còn non yếu.
Đặc biệt là thị trường chứng khoán chỉ mới 6 năm tuổi thì chỉ như một đứa bé
so với thị trường thế giới hàng trăm năm tuổi. Nhưng chúng ta co thể tự hào
và tin tưởng vào sự phát triển chúng ta, với những thành tựư đạt được trong 6
năm qua.Với chỉ số VN index đạt được trên 500 điểm và thị trường của ta
được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng và phát triển cao hơn rất nhiều nước
trong khu vực Đông Nam Á. Năm 2006 ta thấy được sự chưyển biến mạnh
mẽ của thị trường, Vn_index tăng gấp nhiều lần so với năm 2005 và điều này
cũng phản ánh đúng tình hình thị trường. Thị trường chứng khoán trở nên sôi
động và nhộn nhịp hơn rất nhiều và nó đã được sự quan tâm của rất nhiều
người. Tuy nhiên đối tượng mà đựơc mọi người quan tâm đến nhiều nhất có
lẽ là các chứng khoán trên thị trường, họ không quan tâm nhiều lắm đến các
công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán là một dịnh chế tài chính trung
gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Công ty giúp cho
các hoạt động giao dịch trên thị trường được thông suốt, an toàn, bảo vệ được
lợi ích cho các chủ thể tham gia vào thị trường. Các công ty chứng khoán
giống như những công cụ hỗ trợ, phục vụ của thị trường chứng khoán, thị
trường phát triển thì công ty chứng khoán cũng đòi hỏi sự phát triển tiến bộ
phù hợp thích nghi với thay đổi của thị trường. Hiện nay khi chúng ta đã
chính thức được công nhận là thành viên của WTO, điều đó đem lại cho

chúng ta rất nhiều lợi thế, tuy nhiên không hẳn là sẽ không phải đối mặt với
khó khăn và thách thức. Đối với các tổ chức tài chính thì việc phải đối đầu với
những thách thức, cạnh tranh mạnh mẽ từ phía rất nhiều các tổ chức tài chính
trên thế giới với thế về quy mô và kinh nghiệm. Trước những thách thức của
bên ngoài, chúng ta cần có những biện pháp sửa đổi và điều chỉnh phù hợp,
cần thiết để đối phó với những khó khăn. Thị trường chứng khoán là một thị
trường mới còn non yếu về nhiều mặt vì vậy cần rất nhiều sự hỗ trợ, điều
chỉnh để cho phù hợp đủ sức cạnh tranh với các tổ chức nước ngoài. Thị
trường này phát triển được thì các công ty chứng khoán cũng cần đổi mới,
phát triển. Muốn có được những thay đổi chuyển của các công ty chứng
khoán thì trước hết chúng ta hãy cùng tìm hiểu và đánh giá xem hiện tại
chúng ta đang ở vị trí nào. Cũng vì lý do này mà tôi quyết định đi sâu vào
mảng các công ty chứng khoán trong bối cảnh TTCK Việt Nam.
I. NỘI DUNG:
A_Lý thuyết :
1.Thị trường chứng khoán :
Quan niệm về thế nào là một thị trường chứng khoán thì hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm cho rằng thị trường chứng khoán và
thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm thị
trường tư bản. Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan
hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán chứng khoán. Thị trường chứng
khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó hai thị
trường này không tách biệt nhau nó cùng phản ánh các quan hệ bên trong và
bên ngoài của thị trường tư bản. Quan điểm thứ hai dựa trên những quan sát
trên thị trường, tại đại đa số các sở giao dịch chứng khoán các giao dịch thực
hiện là mua bán chứng khoán. Do đó thị trường chứng khoán có thể coi là thị
trường cổ phiếu, hay là nơi mua bán cổ phiếu, cổ phần của các công ty phát
hành ra để huy động vốn. Mỗi quan điểm có một điểm khác nhau nhưng
chúng ta có thể thống nhất một quan điểm như sau. Thị trường chứng khoán
là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Trong đó

chứng khoán là các giấy tờ có giá mang lại cho người chủ sở hữu quyền yêu
cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các
quyền này phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại chứng khoán khác nhau thí
có những quyền lợi khác nhau. Ngoài ra các chứng khoán phải xác định được
thu nhập cho chủ sở hữu và có thể chuyển nhượng trên thị trường .
Thị trường chứng khoán được phân ra theo nhiều tiêu thức khác nhau,
mỗi tiêu thức có một cấu trúc riêng. Xét trên những tiêu thức cơ bản như về
hàng hoá, hình thức tổ chức của thị trường, quà trình luân chuyển vốn. Tiêu
thức về hàng hoá trên thị trường, chúng ta có thể chia thị trường chứng khoán
thành 3 thị trường là thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, thị trường
các công cụ dẫn suất. Trong đó trái phiếu là các công cụ nợ hay thực chất là
việc các công ty phát hành đứng ra để đi vay theo phương thức hoàn trả cả
gốc và lãi. Công cụ dẫn suất là nơi các chứng khoán phái sinh được mua bán,
tiêu biêu như các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Về quá trình
luân chuyển vốn, theo tiêu thức này thị trường được chia làm hai gồm có thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán
được mua bán lẩn đầu tiên, giữa tổ chức phát hành với các tổ chức tài chính
lớn ra làm đại lý phát hành hoặc bảo lãnh phát hành. Thị trường thứ cấp là thị
trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành
nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Thị trường này giữ một vai trò khá quan trọng trong việc tăng tính thanh
khoản của chứng khoán. Nhìn trên góc độ hình thức tổ chức thị trường ,thị
trường dược chia thành bốn thị trường là thị trường tập trung, thị trường phi
tập trung, thị trường thứ 3, thị trường thư 4. Trong đó thị trường tập trung hay
sở giao dịch là chịu sự quản lý của nhà nước, còn thị trường phi tập trung ,thị
trường thứ 3 ,thị trường thư 4 là bên ngoài sự quản lý của nhà nước, hoạt
động trên các thị trường này diễn ra liên tục 24/24.
Thị trường chứng khoán được sự tham gia của rất nhiều chủ thể, có thể
chia thành các nhóm sau chủ thể phát hành, nhà đầu tư, các tổ chức liên quan
đến thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư là những người có tiền, tham gia

vào thị trường để mua bán kiếm lời. Có hai loại nhà đầu tư là nhóm nhà đầu
tư cá nhân và nhóm các nhà đầu tư có tổ chức. Hai nhóm này khác nhau về
mặt quy mô kinh doanh và chuyên môn, kinh nghiêm, thông tin và ưu thế
luôn thuộc về nhóm nhà đầu tư có tổ chức. Chủ thể thứ ba là các tổ chức có
liên quan đến thị trường chứng khoán bao gồm cơ quan quản lý giám sát hoạt
động thị truờng chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà
kinh doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán,
các tổ chức hỗ trợ, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam là điều hợp lý phù hợp
với xu hướng hiện nay, khi mà chúng ta gia nhập WTO và yêu cầu của phát
triển kinh tế với tốc độ cao đòi hỏi nhu cầu về vốn rất nhiều. Ngoài những
kênh huy động vốn thông thường từ các tổ chức tín dụng, thị trường chứng
khoán ra đời đã giúp cho việc tăng thêm địa chỉ để cho các doanh nghiệp có
thể huy động vốn phục vụ cho đấu tư phát triển kinh doanh. Thị trường chứng
khoán tạo cho các chứng khoán có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập
trung và phân phối vốn chuyển thời hạn vốn phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế. Nhờ có điều đó mà chúng ta có thể chuyển đổi chứng khoán thành
tiền một cách nhanh chóng, để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn. Thị
trường chứng khoán còn là cơ hội để chính phủ huy động các nguồn tài chính
tài trợ cho ngân sách mà không gây ảnh hưởng đến lạm phát, đồng thời cũng
là các công cụ của các chính sách tài chính tiền tệ để chính phủ điều tiết đến
nền kinh tế. Ngoài ra thị trường chứng khoán còn là một dự báo tuyệt vời về
tình hình nền kinh tế, vì vậy mà có thể coi thị trường chứng khoán như phong
vũ biểu của nền kinh tế. Từ những thông tin từ thị trường có thể giúp cho
chính phủ cũng như các công ty có đuợc những đánh giá hoạt động của mình
từ đó có những điều chỉnh tương thích. Tóm lại thị trường chứng khoán đem
lại rất nhiều thuận lợi cũng như khó khăn. Song nó mang lại thuận lợi hay bất
lợi là phụ thuộc vào tự bản thân các chủ thể tham gia và sự quản lý của nhà
nước.


2_ Công ty chứng khoán :
a_Khái niệm và phân loại công ty chứng khoán
Trước hết khi nói đến công ty chứng khoán thì chúng ta cần phải hiểu rõ
nó là gì. Công ty chứng khoán là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện
các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Theo quyết định 04/1998/QĐ-
UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN, công ty chứng khoán là
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt
Nam, được Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc
một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Do đặc điểm của công ty chứng
khoán có thể kinh doanh trên một lĩnh vực, loại hình kinh doanh chứng khoán
nhất định, từ đó có thể phân chia công ty chứng khoán thành các loại sau:
Công ty môi giới chứng khoán; Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán;
Công ty kinh doanh chứng khoán; Công ty trái phiếu; Công ty chứng khoán
không tập trung. Mỗi loại công ty sẽ tương ứng với từng hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Như công ty môi giớichứng khoán thì thực hiện việc
trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty
bảo lãnh phát hành chứng khoán thì hoạt động chủ yếu là bảo lãnh để hưởng
phí hoặc chênh lệch giá. Tuy nhiên hiện nay đại đa số các công ty chứng
khoán của chúng ta đều thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh chứng khoán,
đa dạng hoá dịch vụ tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Ví dụ như công ty cổ
phần chứng khoán Kim Long có các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu như: Tư vấn
tài chính và đầu tư chứng khoán, môi giới chứng khoán, tự doanh, lưu ký
chứng khoán.
Công ty chứng khoán là tác nhân thúc đẩy thị trường chứng khoán phát
triển và sự phát triển nền kinh tế nói chung. Công ty chứng khoán với các
nghiệp vụ nó tạo cho các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, các
chứng khoán có thể trao đổi dễ dàng thuận lợi trền thị trường chứng khoán.
Từ đó huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng, các nhà đầu
tư để phân bổ vào nơi có hiệu quả. Điều đó được thể hiện qua các chức năng
dưới đây của công ty chứng khoán :

-Tạo cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa nhà đầu tư và chủ thể
phát hành, thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành.
-Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch, thông qua hệ thống
khớp lệnh hoặc khớp giá.
- Tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán, thể hiện
qua việc hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt đổi
thành chứng khoán.
- Góp phần điều tiết bình ổn thị trường thông qua hoạt động tự
doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường.
b_ Vai trò của công ty chứng khoán:
Với các chức năng trên mà các công ty chứng khoán có các vai trò khá
quan trọng trên thị trường chứng khoán với các chủ thể trên thị trường chứng
khoán. Đối với các tổ chức phát hành mục tiêu của họ khi tham gia vào thị
trường chứng khoán là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng
khoán. Nhưng để phát hành họ phải thông qua các công ty chứng khoán để
được bảo lãnh phát hành. Lúc nay công ty chứng khoán đóng vai trò nhà bảo
lãnh và đại lý phát hành, như vậy công ty đã tạo ra cơ chế huy động vốn phục
vụ cho nhà phát hành.
Đối với các nhà đầu tư thì công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi
phí và thời gian giao dịch từ đó nâng cao hiệu quả cho các khoản đầu tư.
Công ty chứng khoán thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư,
quản lý danh mục đầu tư để thực hiện điều này. Một nhà đầu tư trên thị
trường muốn thực hiện một giao dịch không qua trung gian để hạn chế chi
phí, nhưng người đó sẽ phải tốn rất nhiều công sức cũng như chi phí để tìm
hiểu thông tin.
Thông qua các công ty chứng khoán với trình độ chuyên môn cao và uy
tín nghề nghiệp có thể giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm chi phí và thời gian
sức lực và qua công ty chứng khoán thông tin sẽ bảo đảm, chính xác hơn.
Đối với thị trường chứng khoán thì công ty chứng khoán có hai vai trò
chính là góp phần tạo lập giá cả và điều tiết thị trường, góp phần tăng tính

thanh khoản cho các tài sản tài chính. Trong vai trò đầu tiên thì công ty chứng
khoán là người tạo lập giá cả cho thị trường và điều tiết thị trường. Điều đó
được giải thích như sau, giá cả giao dịch giữa các nhà đầu tư trên thị trường
không được trực tiếp thoả thuận mà thông qua công ty chứng khoán để đặt
lệnh trên thị trường. Còn trên thị trường sơ cấp thì giá cả được thoả thuận
giữa tổ chức phát hành và công ty chứng khoán, thông qua công ty chứng
khoán định giá cho chứng khoán của tổ chức phát hành. Như vậy công ty
chứng khoán đóng vai trò tạo lập giá cho thị trường. Ngoài ra các công ty
chứng khoán còn dành một tỷ lệ nhất định để nhằm ổn định thị trường. Công
ty chứng khoán làm điều này để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, và còn là
bảo vệ chính bản thân công ty chứng khoán. Vai trò thứ hai của công ty chứng
khoán là góp phần làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Thị
trường chứng khoán có vai trò làm môi trường cho thanh khoản các chứng
khoán. Nhưng các công ty chứng khoán mới là người thực hiện điều đó, công
ty chứng khoán tạo ra một cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường
cấp 1 công ty thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá.
Công ty chứng khoán không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản
xuất kinh doanh cho những nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản
cho các chứng khoán thông qua việc phát hành tiếp trên thị trường thứ cấp.
Sau khi phát hành trên thị trường thứ cấp, các chứng khoán có dễ dàng
chuyển đổi thành tiền mặt và ngược lại, thông qua các hoạt động của công ty.
Điều đó làm cho các nhà đầu tư yên tâm về khả năng thanh khoản cùa chứng
khoán, từ đó làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính trên thị
trường chứng khoán.
Đối với các cơ quan quản lý thị trường, công ty chứng khoán có nhiệm
vụ cung cấp thông tin trên thị trường cho các cơ quan quản lý. Các công ty
cung cấp được thông tin bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành vừa là
người trung gian môi giới mua bán và giao dịch trên thị trường. Công ty cung
cấp thông tin cho các cơ quan quản lý do nguyên tắc hoạt động của công ty
chứng khoán là phải công khai minh bạch, và nó cũng là một quy định của

pháp luật. Những thông tin mà công ty chứng khoán cung cấp được các cơ
quan quản lý sử dụng để kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng lũng
đoạn, bóp méo thị trường .
Tóm lại công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán, có vai trò cần thiết đối với nhà đầu tư, tổ chức phát
hành, cơ quan quản lý thị trường, thị trường chứng khoán nói chung. Những
vai trò đó được thể hiện ở trong phần các nghiệp vụ của công ty chứng khoán
ở phần sau.
c_Thành lập công ty chứng khoán:
- Một tổ chức, hay cá nhân có nhu cầu thành lập một công ty chứng
khoán, họ sẽ phải đứng trước rất nhiều lựa chọn và quy định cho công ty của
mình. Trước tiên, lựa chọn đầu tiên là về mô hình của công ty trên thề giới
hiện nay có hai xu hướng là mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô
hình công ty chứng khoán chuyên doanh. Cơ sở cho sự phân loại này đó là
phạm vi hoạt động của công ty chứng khoán trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh tiền tệ, các dịch vụ tài chính.
* Mô hình công ty chứng khoán đa năng là công ty được tổ chức dưới
hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng
khoán, kinh doanh tiền tệ, và các dịch vụ tài chình. Có thể hiểu là các ngân
hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán,
bảo hiểm, kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức
đa năng một phần và đa năng hoàn toàn . Đa năng một phần là một ngân hàng
muốn kinh doanh nhiều hoạt động phải lập công ty con tương ứng với số
lượng hoạt động kinh doanh. Các công ty con hạch toán độc lập và hoạt động
độc lập với các lĩnh vực kinh doanh còn lại. Loại hình này được gọi là mô
hình ngân hàng kiểu Anh. Hình thức còn lại các ngân hàng được phép hoạt
động kinh doanh trực tiếp tại cùng một ngân hàng nhiều hoạt động chứng
khoán, tiền tệ, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính khác. Loại hình này có tên là
mô hình ngân hàng kiểu Đức. Hai hình thức này có những ưu nhược khác
nhau, loại hình kiểu Đức giúp cho ngân hàng kết hợp nhiều lĩnh vực kinh

doanh, nhờ đó hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh nhờ đa dang hoá đầu
tư .Ngoài ra hình thức này còn làm tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng
trước những biến động trên thị trường tài chính, các ngân hàng còn có thể tận
dụng lợi thế về quy mô .Tuy nhiên mô hình này không thể không có nhược
điểm, đó là sự phân tán trong hoạt động của nó . Điều đó sẽ làm giảm khả
năng chuyên sâu, chuyên môn hoá của công ty. Điều đó sẽ làm giảm đi sự
phát triển của thị trường vì lý do các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ
và thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ thị trường chứng
khoán như bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản
lý doanh mục đầu tư. Và do không tách bạch đựoc hoạt động giữa ngân hàng
và hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật
không lành mạnh sẽ gây ra tình trạng lũng đoạn thị trường, và điều đó sẽ dẫn
biến động trên thị trường chứng khoán, và tác động mạnh tới kinh doanh tiền
tệ, gây ra khủng hoảng dây chuyền dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính.
Điều này được thể hiện ở việc ngân hàng có thể dùng vốn vay, nguồn tiền tiết
kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán, và khi thị trường chứng khoán biến
động xấu sẽ dẫn đến tinh trạng mất khả năng thanh toán không giả được nợ
của một ngân hàng rồi từ đó theo hiệu ứng dây chuyền mà kéo sập cả một hệ
thống tài chính khổng lồ trên thế giói như vào năm 1929-1933. Sau điều đó
các ngân hàng đã có xu hướng chuyển toàn bộ sang hình thúc kinh doanh kiểu
Anh, chỉ còn lại một số nước kinh doanh theo kiểu Đức.
* Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh, hoạt động kinh doanh
chứng khoán trong mô hình này sẽ do một công ty chứng khoán độc lập đảm
nhiệm và các ngân hàng không được tham gia. Mô hình này tách biệt hẳn hoạt
động giữa ngân hàng và công ty chứng khoán, từ đó hạn chế bớt rủi ro cho đối
với ngân hàng và thị trường tài chính. Đồng thời nó giúp cho các công ty
chứng khoán được chuyên môn hoá sâu hơn trong lĩnh vực chứng khoán, từ
đó thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Mô hình này hiện nay đang
được ứng dụng khá rộng rãi ở nhiều nơi như Mỹ, Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc
Ngày nay trong xu thế hình thành các tập đoàn tài chính khổng lồ mà một

thị trường đã cho phép hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên
phải được tổ chức dưới hình thức các công ty mẹ con. Việt Nam hiện nay các
công ty chứng khoán được thành lập chủ yếu theo hình thức kiểu Anh. Một
ngân hàng bỏ vốn ra để thành lập công ty chứng khoán hoạt động độc lập với
ngân hàng mẹ, phù hợp với quy định ngân hàng không dược kinh doanh
chứng khoán.
- Lựa chọn đối với các công ty chứng khoán tiếp theo đó là về loại hình
tổ chức công ty. Hiện nay có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán là
công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.Trước tiên,
chúng ta tìm hiểu về loại hình công ty hợp danh. Công ty hợp danh là doanh
nhiệp có ít nhất là hai thành viên hợp danh, ngoài ra còn có thể có các thành
viên góp vốn. Thành viên góp vốn phải là các cá nhân, có trình độ chuyên
môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu toàn bộ trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Đối với thành viên góp vốn chỉ
phải chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình. Loại hình công ty hợp
danh không được phép phát hành chứng khoán. Công ty hợp danh được thành
lập chủ yếu đối với những lĩnh vực trọng và có tính chất đặc biệt như tư vấn
tài chính, khám chữa bệnh, chứng khoán Nhưng để được thành lập công ty
rất khó khăn do đó loại hình này không được phổ biến ở Việt Nam, và chủ
yếu là sử dụng hai hình thức tổ chức công ty cổ phần, và công ty trách nhiệm
hữu hạn. Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu công
ty là các cổ đông. Trong đó vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ đông nắm giữ cổ phần và chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn đã đóng góp vào doanh nghiệp. Điều khác biệt cơ bản giữa công ty cổ
phần với công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn là việc công ty cổ
phần được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên chính lĩnh vực mà
nó kinh doanh. Loại hình tổ chức công ty trách nhiệm hữu hạn có hai loại
trách nhiệm một thành viên và từ hai thành viên trở lên. Các thành viên của
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của

doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Nhưng
vấn đề đáng quan tâm là các công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép
phát hành cổ phiếu, nhưng có thể phát hành một số loại chứng khoán khác để
huy động vốn. Tóm lại do khả năng huy động vốn được bằng cách phát hành
cổ phiếu và các loại chứng khoán khác mà hai loại hình tổ chức sau được ưa
dùng hơn hình thức công ty hợp danh. Và điều kiện thành lập công ty hợp
danh cũng rất phức tạp và khó khăn hơn hẳn so với hai loại hình còn lại.
- Nhưng ngoài các điều kiện để thành lập các công ty trên, kinh doanh
chứng khoán còn là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt đòi hỏi phải có một số
điều kiện kèm theo về các mặt vốn, nhân sự, cơ sở vật chất. Điều kiện về vốn,
công ty chứng khoán phải có mức vốn tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn
pháp định thường được quy đinh cụ thể cho từng loại hình hoạt động kinh
doanh. Trong quy định trước đây về vốn pháp định cho từng loại hình kinh
doanh chứng khoán tại điều 30 Nghị định 48/1998 như sau:
Môi giới : 3 tỷ đồng
Tự doanh : 12 tỷ đồng
Quản lý danh mục đầu tư : 3 tỷ đồng
Bảo lãnh phát hành : 22 tỷ đồng
Tư vấn đầu tư chứng khoán : 3 tỷ đồng
Tuỳ theo từng hoạt động kinh doanh cần có mức vốn tương đương theo
quy định trên. Nếu công ty chứng khoán xin cấp phép cho nhiều loại hình
kinh doanh thì mức vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của từng loại hình
riêng lẻ. Tại Nhật bản, đối với công ty chứng khoán tham gia 3 loại hình kinh
doanh môi giới, tự doanh, bảo lănh phát hành phải có mức vốn điều lệ là 10 tỷ
yên tương ứng với 1345.5 tỷ đồng. Còn bên Trung Quốc thì đối với công ty
chứng khoán đa năng thì vốn điều lệ là 500 triệu NDT, còn các công ty chứng
khoán chỉ chuyên môi giới thì vốn điều lệ là 50 triệu NDT.
Điều kiện về nhân lực đối với các các người quản lý và nhân viên công
ty chứng khoán phải đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm, cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực. Hầu hết các

nước đều yêu cầu nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành
nghề, ở nước ta những nhân viên môi giới, tư vấn, tạo lập thị trường cũng cần
phải có các chứng chỉ do Ủy ban chứng khoán cấp. Ngoài ra những người giữ
chức danh quản lý đòi hỏi phải có giấy phép đại diện.
Điều kiện về cơ sở vật chất, các tổ chức hay cá nhân sáng lập công ty
chứng khoán phải đảm bảo yêu cầu cơ sở tối thiểu cho công ty chứng
khoán .Do đặc thù của công ty chứng khoán là trung gian trong giao dịch mua
bán cổ phiếu cho nên nó đòi hỏi phải có đầy đủ cơ sở vật chất để thực hiện
các lệnh trong giao dịch. Hiện nay nước ta có trung tâm giao dịch thực hiện
khớp lệnh thông qua hệ thống máy tính công nghệ cao để khớp lệnh. Vấn đề
khớp lệnh đã được máy tính làm thay. Tuy nhiên để đưa được lệnh của nhà
đầu tư từ công ty chứng khoán về sàn giao dịch để khớp lệnh thì phải thực
hiện thông qua hệ thống mạng lưới điện thoại. Điều này làm hạn chế các rủi
ro trong quá trình giao dịch bằng mạng Internet, khắc phục khả năng tấn công
của tin tặc vào hệ thống mạng máy tính đánh cắp dữ liệu, phá hoại các giao
dịch. Sử dụng đường truyền điện thoại để khớp lệnh đòi hỏi phải hệ thống cơ
sở vật chất hiện đại để tăng khả năng khớp lệnh cho nhà đầu tư.
Hoàn thành xong các lựa chọn, điều kiện các nhà sáng lập phải xin cấp
phép của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hồ sơ thông thường bao gồm các tài
liệu sau : đơn xin cấp phép, giấy phép thành lập doanh nghiệp, phương án
nhân sự, phưong án hoạt động, điều lệ công ty, các tài liệu minh chứng về
vốn, tình hình sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của
đội ngũ quản lý và các giấy tờ khác theo quy định. Từ sau khi nộp đơn cho
đến khi nhận được cấp phép hoạt động nhà đầu tư phải đợi chờ khoảng ít nhất
là hai đến ba tháng. Và công việc cuối cùng của công ty chứng khoán sau khi
được thành lập đó là công bố thông tin trên đại chúng theo quy định của luật.
d_Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán.
Hoạt động trên thị trường chứng khoán rất là phức tạp, có rất nhiều điều
hạn chế đối với công ty chứng khoán trong quá trình kinh doanh. Điều đó đòi
hỏi các công ty chứng khoán hoạt động theo những nguyêng tắc nhất định để

khắc phục những sai sót, khiếm khuyết. Để khắc phục điều đó công ty chứng
khoán hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc đạo
đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
* Trước hết nói về nhóm nguyên tắc đạo đức, công ty chứng khoán là
trung gian trong giao dịch của khách hàng, và do đó công ty phải đảm bảo
giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Đồng thời có
nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng về các thông tin liên quan đến khách hàng
như thông tin về tài khoản, khi chưa được sự cho phép của khách hàng hoặc
có chỉ thị của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty chứng khoán khi hoạt
động tư vấn yêu cầu phải có các thông tin về mức độ rủi ro của hoạt động, và
khả năng sinh lời của nó. Để đảm bảo cho khách hàng không bị lừa gạt trong
các dịch vụ của công ty. Các công ty chứng khoán không được phép nhận bất
kì một khoản hoa hồng thêm nào khác ngoài các khoản hoa hồng thông
thường. Đồng thời với việc tư vấn đó là công ty chứng khoán không được
dùng các thông tin nội bộ để giao dịch phục vụ cho lợi ích của mình, một số
công ty ngoài các hoạt động như môi giới, tư vấn còn có hoạt động tự doanh
là việc công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch cho mình để thu lợi
nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Điều đó dẫn đến các bất đồng về quyền lợi
trong giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Theo nguyên tắc
đạo đức thì các công ty chứng khoán sẽ phải ưu tiên thực hiện lệnh cho khách
hàng trước rồi mới đến lượt mình. Công ty chứng khoán cũng là một nhà kinh
doanh do đó nó không được phép tiến hành các hoạt động gây ra sự hiểu lầm
về giá cả của khách hàng từ đó kiếm lời. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh
không phải là hoạt động chính của công ty do đó hoạt động phá hoại thị
trường của các công ty sẽ rất ít hoặc không có. Bản thân các công ty chứng
khoán đều muốn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho khách hàng của mình, có
như vậy công ty mới thu hút được sự chú ý của khách hàng. Hiện nay một số
nơi các công ty chứng khoán còn đóng góp thành một quỹ để đề phòng rủi ro
mất khả năng thanh toán của công ty cho khách hàng, góp phần bảo vệ lợi ích
cho nhà đẩu tư. Thông qua đó tạo ra một cảm giác an toàn cho khách hàng, từ

đó thu hút được nhiều nhà đẩu tư mở tài khoản giao dịch tại công ty.
* Nhóm nguyên tắc mang tính tài chính có tác dụng làm tách biệt các
quan hệ về tài sản giữa công ty với tài sản của khách hàng. Các công ty chứng
khoán để có thể thực hiện được điều trên trước hết cần phải bảo đảm được các
yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo kết quả kinh
doanh theo quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. Đồng thời phải bảo
đảm các nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh với khách hàng. Trong đó
công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng gửi trong tài
khoản tại công ty. Ngoại trừ các trường hợp phục vụ kinh doanh của khách
hàng. Các công ty cũng không được phép dùng các chứng khoán cùa khách
hàng để đi thế chấp vay tiền phục vụ cho các hoạt động của công ty, điều đó
rất nguy hiểm cho công ty và khách hàng, và cả tổ chức mà công ty thế chấp
chứng khoán. Nhưng công ty có thể thực hiện các hoạt động trên nếu được sự
đồng ý của khách hàng bằng các văn bản.
e_Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán:
Các công ty chứng khoán tổ chức cơ cấu của công ty theo các loại hình
nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện và theo quy mô hoạt động kinh
đoanh chứng khoán. Tuy nhiên các công ty chứng khoán đều có đặc điểm
chung về cơ cấu tổ chức là gồm có hai khối : nghiệp vụ và phụ trợ. Trong đó
khối nghiệp vụ là khối thực hiện các giao dịch kinh doanh và dịch vụ chứng
khoán. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng các nhu cầu
của khách hàng, đồng thời cung cấp các sản phẩm dịch vụ đáp ứng các nhu
cầu của khách hàng. Tương ứng với mỗi nghiệp vụ trong khối này sẽ là một
phòng, ban của công ty như phòng môi giới, phòng tư vấn, phòng tự doanh,
phòng quản lý doanh mục đầu tư, phòng ký quỹ, phòng bảo lãnh phát hành.
Căn cứ vào quy mô thị trường cũng như sự chú trọng vào các nghiệp vụ mà
công ty sẽ chuyên sâu theo từng lĩnh vực nghiệp vụ nhất định.
Khối phụ trợ là khối không thể thiếu được trong các công ty chứng
khoán, mặc dù nó không thực hiện trực tiếp các nghiệp vụ chứng khoán cũng
như không tạo ra thu nhập. Nhưng nó lại khối điều hành các hoạt động của

công ty, nó vận hành mang tính chất hỗ trợ khối nghiệp vụ. Khối này bao gồm
các phòng ban như : phòng nghiên cứu phát triển, phân tích và thông tin thị
trường, kế hoạch công ty Do xu hướng phát triển và hội nhập mà công ty
chứng khoán có thêm các phòng ban về mạng lưới, chi nhánh, văn phòng, đại
lý. Các công ty ngoài việc phát triển thị trường và quy mô mà các công ty còn
có xu hướng mở rộng thêm các hoạt động của ngành khác như bảo hiểm, ngân
hàng.
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán :
Tương tự như cơ cấu tổ chức của công ty, các nghiệp vụ của công ty cũng
được phân thành hai nhóm là nhóm nghiệp vụ chính và nhóm nghiệp vụ phụ
trợ.
a. Các nghiệp vụ chính:
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán :
Đây là một hoạt động phổ biến nhất ở các công ty chứng khoán, gần
như công ty chứng khoán nào cũng có hoạt động này. Môi giới chứng khoán
là việc công ty chứng khoán đứng làm trung gian hoặc đại diện mua bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Thông qua công ty chứng
khoán đại diện cho khách hàng giao dịch mua bán chứng khoán tại các sàn
giao dịch hoặc trên thị trường OTC, và khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm
đối với các kết quả giao dịch đó. Thông qua hoạt động môi giới, công ty
chứng khoán sẽ cung cấp cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu
tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng
khoán với nhau. Trong một số trường hợp nhất định hoạt động môi giới còn
giúp cho nhà đầu tư lấy lại tinh thần, tỉnh táo, sáng suốt trong việc đưa ra
quyết định. Thực hiện nghiệp vụ môi giới này rất là khó khăn và vất vả, các
nhân viên môi giới phải vừa có kiến thức tinh thông về thị trường chứng
khoán, vừa cần phải có các kỹ năng giao tiếp tốt. Nhân viên môi giới phải có
kiến thức về chứng khoán giỏi, giúp cho khách hàng có được thông tin chính
xác và hoàn hảo từ đó đưa ra được quyết định chính xác. Nhưng nhân viên
môi giới ngoài kiến thức ra cũng cần có các tiêu chuẩn nhất định về phẩm

chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và sự công tâm cung
cấp cho khách hàng dịch vụ tốt nhất.
- Nghiệp vụ tự doanh :
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành giao dịch mua bán
chứng khoán cho chính mình. Các hoạt động tự doanh của công ty chứng
khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên giao dịch trên sở giao
dịch chứng khoán nhà nước hoặc trên thị trường OTC. Tại một số thị trường
thực hiện cơ chế khớp giá, thì hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Khi đó công ty chứng
khoán sẽ là nhà tạo lập thị trường và hoạt động mua bán chứng khoán với các
khách hàng để hưởng trênh lệch giá cả của hoạt động mua bán chứng khoán.
Đây là điều khác với hoạt động môi giới chứng khoán công ty chứng khoán
không nhận được hoa hồng mà thu được lợi nhuận từ hoạt động mua bán
chứng khoán để thu được chênh lệch. Hoạt động này công ty chứng khoán
phải tự bỏ tiền, còn đối hoạt động môi giới công ty chứng khoán không phải
bỏ tiền mua bán chứng khoán. Tuy nhiên công ty thực hiện hoạt động này vì
mục đích lợi nhuận từ chính hoạt động mua bán chứng khoán của mình, đồng
thời còn vì mục đích nhằm làm ổn định thị trường hạn chế các biến động trên
thị trường sẽ dẫn đến những tác động tệ hại. Nhưng mà hoạt động này gắn với
lợi nhuận trực tiếp của công ty do đó có thể dẫn đến những tiêu cực từ phía
công ty chứng khoán trong việc thực hiên các lệnh giao dịch. Do hoạt động tự
doanh song hành cùng với hoạt động môi giới, và công ty chứng khoán là đầu
mối có khả năng tiếp cận thông tin nhanh chóng và kịp thời .Từ đó các công
ty chứng khoán có được những dự báo thích hợp về thị trường từ đó có được
các quyết định chính xác Như vậy các công ty chứng khoán sẽ cạnh tranh với
khách hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch.Do đó cần phải có biện
pháp bảo đảm quyền lợi của khách hàng trong các giao dịch. Hiện nay các
công ty chứng khoán khi khớp lệnh đều ưu tiên thực hiện các lệnh của khách
hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty trong hoạt động tự doanh. Điều đó
đã trở thành luật và một số nơi thì hoạt động này yêu cầu phải thành lập hai

loại công ty chứng khoán riêng biệt là công ty môi giới và công ty tự doanh.
Điều này nhằm đáp ứng các vấn đề về tính minh bạch của công ty chứng
khoán trong hoạt động của mình, sự minh bạch này được thể hiện qua sự tách
biệt về mặt vốn, tài sản, chứng khoán giữa khách hàng và công ty. Thông qua
hoạt động tự doanh công ty chứng khoán tạo lập thị trường cho các chứng
khoán mới bằng cách mua bán chứng khoán trên thị trường cấp hai. Trên thế
giới, các nhà tạo lập thị trường cho các chứng khoán dựa trên cơ chế giao
dịch trên thị trường OTC. Trên thị trường OTC các nhà tạo lập thị trường liên
tục báo giá để mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư khác nhau. Họ duy
trì liên tục thị trường này trên 24 giờ để phục vụ nhu cầu mua bán cùa khách
hàng và của các công ty với nhau.
Nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện theo hai
hình thức giao dịch trực tiếp và giao dịch gián tiếp:
~ Giao dịch trực tiếp là giao dịch tay đôi giữa hai công ty chứng
khoán, công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Hoạt
động này chủ yếu thực hiện các giao dịch đối với các chứng khoán trên thị
trường OTC.
~ Giao dịch gián tiếp, công ty chứng khoán giao dịch giống như
mọi nhà đầu tư trên thị trường tập trung, để khớp lệnh. Lệnh của họ được thực
hiện bất cứ lúc nào mà họ cũng không xác định được trước. Đây là hoạt động
của nghiệp vụ tự doanh các công ty chứng khoán không tự thực hiện các lệnh
của họ theo giá thoả thuận, yêu cầu của họ. Còn đối với hoạt động giao dịch
trực tiếp của nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện dựa
trên nguyên tắc thương lượng trên thị trường OTC.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành :
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoàn ra công chúng
thì tổ chức phát hành phải thông qua công ty chứng khoán để bảo lãnh, tư vấn
phát hành, phân phối chứng khoán ra công chúng. Nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán ra công chúng là hoạt động mang lại thu nhập nhiều nhất,
nó chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng doanh thu. Nghiệp vụ bảo lãnh chứng

khoán là việc các công ty chứng khoán giúp cho tổ chức phát hành hoàn thành
các thủ tục yêu cầu để được phát hành chứng khoán. Công ty chứng khoán
sau khi bảo lãnh cho tổ chức phát hành, họ cũng thực hiện phân phối chứng
khoán đó hoặc bán lại cho một công ty chứng khoán khác để họ phân phối
chứng khoán. Trong giai đoạn đầu khi phân phối các công ty chứng khoán có
vai trò là một nhà tạo lập thị trường, làm bình ổn giá cả. Hiện nay để bảo lãnh
phát hành cho các tổ chức phát hành chứng khoán thì ngoài các công ty chứng
khoán, còn có các tổ chức trung gían tài chính khác như ngân hàng, bảo hiểm.
Do quy mô phát hành lớn mà một công ty chứng khoán thì không thể thực
hiện được với quy mô vốn như hiện nay. Tuy nhiên các ngân hàng sẽ đứng ra
bảo lãnh phát hành sau đó họ sẽ phân phối lại cho các công ty chứng khoán tự
doanh hoặc các thành viên khác. Quy trình để một công ty chứng khoán thực
hiện bảo lãnh phát hành cho một tổ chức gồm có các bước như sau. Tổ chức
phát hành ban đầu đề nghị các công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành. Sau
đó công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức
phát hành về loại chứng khoán, số lượng, định giá chứng khoán, phương thức
phát hành chứng khoán ra công chúng đầu tư. Để được bảo lãnh phát hành tổ
chức bảo lãnh phải đệ trình phương án bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán nhà
nước. Sau khi được uỷ ban chứng khoán chấp thuận thì các công ty chứng
khoán sẽ ký kết trực tiếp hoặc lập ra nghiệp đoàn bảo lãnh để ký kết với tổ
chức phát hành. Uỷ ban cấp giấy phép phát hành cho công ty chứng khoán khi
giấy phép có hiệu lực thì công ty chứng khoán hay nghiệp đoàn bảo lãnh mới
được phép phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ
yếu là:
* Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, các
quỹ bảo hiểm, các quỹ hưu trí.
* Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hoặc các nhà đầu tư
có liên quan trực tiếp tới tổ chức phát hành.
* Bán rộng rãi ra công chúng.
Khi đến ngày ký kết trên hợp đồng công ty chứng khoán phải thanh toán

cho tổ chức phát hành tiền bán chứng khoán. Nhưng tuỳ thuộc theo cách thức
bảo lãnh giữa công ty chứng khoán và tổ chức phát hành mà khi kết thúc hợp
đồng công ty chứng khoán phải thực hiện các nhiệm vụ nhất. Như bảo lãnh
theo phưong thức cố gắng cao nhất, cam kết chắc chắn, theo phương thức dự
phòng, bán tất cả hoặc không, phương thức tối thiểu hoặc tối đa.
- Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư :
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào
chứng khoán thông qua các danh mục đầu tư nhằm mục đích sinh lợi cho
khách hàng trên cơ sở bảo toàn và tăng lợi nhuận. Đây là một nghiệp vụ tư
vấn mang tính chất tổng hợp có kèm đầu tư. Các khách hàng uỷ thác cho công
ty trong việc quyết định các hoạt động đẩu tư dựa trên chiến lược đầu tư và
những nguyên tắc mà khách hàng đặt ra như lợi nhuận kỳ vọng, mức độ rủi
ro Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát
bao gồm các bước :
* Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý là công ty chứng khoán và
khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa
ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác.
* Ký hợp đồng quản lý là việc công ty ký hợp đồng quản lý với
khách hàng theo yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư,
quyền và trách nhiệm của các bên,phí quản lý danh mục đầu tư.
* Thực hiện hợp đồng quản lý, công ty chứng khoán thực hiện
đầu tư theo uỷ thác của khách hàng như trong cam kết đã ghi nhận và phải
đảm bảo các nguyên tắc về quản lý vốn và tài sản giữa khách hàng và công ty.
* Kết thúc hợp đồng quản lý thì khách hàng có nghĩa vụ thanh
toán các chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi
công ty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hay phá sản công ty.
- Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán :
Nghiệp vụ này cũng giống như các hoạt động tư vấn khác, tư vấn đầu tư
chứng khoán là việc công ty chứng khoán sử dụng trình độ chuyên môn của
mình trong lĩnh vực chứng khoán để đưa ra các lời khuyên, phân tích cho các

nhà đầu tư. Trước các tình huống phức tạp nhà đầu tư đang đắn đo, họ có thể
sử dụng đến hoạt động tư vấn của công ty để hỗ trợ trước khi đưa ra được
quyết định cuối cùng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các
tiêu thức sau :
* Thứ nhất, theo hình thức của hoạt động tư vấn, thì gồm hai loại
là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Tư vấn trực tiếp là hoạt động tư vấn của
công ty thực hiện trực tiếp thông qua tiếp xúc, qua các phương tiện như thư từ
điện thoại. Tư vấn gián tiếp thông qua sách báo của công ty phát hành, hoạt
động này chỉ đem lại cho khách hàng các thông tin để từ đó khách hàng phải
tự tổng hợp phân tích và tự đưa ra quyết định, như vậy các quyết định sẽ
không có được sự đúng đắn.
* Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn thì hoạt động được phân
thành tư vấn gợi ý và tư vấn ủy quyền. Trong đó tư vấn gợi ý là người tư vấn
chỉ gợi ý cho khách hàng về phương thức đầu tư hợp lý còn quyền quyết định
đầu tư là của khách hàng. Tư vấn uỷ quyền là người tư vấn vừa tư vấn, vừa có
quyền quyết định theo phân cấp uỷ quyền của khách hàng.
* Theo đối tượng của hoạt động tư vấn thì bao gồm tư vấn phát hành và tư
vấn đầu tư. Tư vấn phát hành là các hoạt động tư vấn cho các tổ chức có nhu
cầu phát hành về cách thức phát hành, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ,
bản báo cáo bạch Tư vấn đầu tư là tư vấn cho các khách hàng đầu tư chứng
khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại
chứng khoán
Hoạt động tư vấn là việc nhà tư vấn sử dụng kiến thức của mình để
kinh doanh dem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đưa ra lời khuyên
để hỗ trợ nhà đầu tư trong các quyết định đầu tư, sau các quyết định thì nhà
đầu tư sẽ thu về được một khoản lợi nhuận hoặc là sẽ mất hết. Còn nhà tư vấn
thì họ không phải chịu tổn thất như nhà đầu tư, do đó nó đòi hỏi hoạt động tư
vấn phải tuân thủ một số nguyên tắc để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
Nguyên tắc thứ nhất là các các nhà tư vấn sẽ không đảm bảo chắc chắn rằng
về giá chứng khoán. Vì giá chứng khoán không phải là cố định vĩnh viễn, nó

luôn thay đổi theo những biến động của thị trường. Do đó việc các chứng
khoán có thể tăng, giảm giá bất cứ lúc nào mà chính các nhà tư vấn cũng
không thể tính trước được. Như vậy mà đòi hỏi nguyên tắc tiếp theo là phải
luôn nhắc nhở khách hàng rằng lời tư vấn chỉ có cơ sở phân tích các yếu tố lý
thuyết và những diễn biến trong quá khứ. Vì vậy khôngthể hoàn toàn chính
xác và khách hàng chính là người đưa ra quyết định cuối cùng trong việc sử
dụng các thông tin của nhà tư vấn để đầu tư.Nhưng nhà tư vấn sẽ không chịu
trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. Do nhà tư vấn
không phải chịu trách nhiệm gì trong việc đưa ra lời khuyên, do vậy họ không
được phép dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán
nào đó. Những lời phân tích đòi hỏi phải dựa trên các cơ sở khách quan, tổng
hợp khoa học, lôgic các vấn đề nghiên cứu.
b. Các nghiệp vụ phụ trợ:
Các nghiệp vụ phụ trợ là những hoạt động hỗ trợ cho các nghiệp vụ
chính của công ty chứng khoán. Các nghiệp vụ phụ trợ giúp cho các nghiệp
vụ chính được thực hiện tốt hơn, an toàn hơn.Các nghiệp vụ phụ trợ là các
nghiệp vụ như :lưu ký chứng khoán, quản lý thu nhập của khách hàng, các
nghiệp vụ tín dụng, các nghiệp vụ quản lý quỹ.
- Lưu ký chứng khoán là việc lưư giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt
buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch trên thị trường tập trung là
hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán
tại các công ty chứng khoán hay ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện lưu ký
chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản
phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán .
- Quản lý thu nhập của khách hàng hay quản lý cổ tức. Xuất phát từ
việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi
tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và
chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
- Nghiệp vụ tín dụng phát sinh ở các thị trường chứng khoán phát

triển, bên cạnh các nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng
hoa hồng, công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán.
Thông qua đó khách hàng có thể thực hiện các hoạt động mua bán khống
hoặc cho khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là
hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng mình để họ
mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản
vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng
khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải
hoàn trả đủ cả gốc vay, cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp
khách hàng không trả được nợ thì công ty chứng khoán sẽ phát mại số chứng
khoán đã mua để thu hồi nợ. Còn đối với hoạt động mua bán khống hiện nay
các nước đều cấm do nó dẫn đến tình trạng các khách hàng sẽ thâu tóm toàn
bộ thị trường bằng việc vay vốn mua bán khống. Thực tế các khách hàng
không phải trả một khoản nào để mua chứng khoán, và ngân hàng sẽ là người
bỏ tiền ra. Khi chứng khoán đó mất giá thì sẽ làm ảnh hưởng đến công ty
chứng khoán cho vay và đến thị trường tài chính.
- Nghiệp vụ quản lý quỹ là hoạt động mà các công ty chứng khoán
cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ để đầu
tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu
tư. Ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về thị trường chứng khoán đó
cho phép công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư.
Nghiệp vụ này làm tăng thêm sản phẩm cho thị trường chứng khoán. Thông
qua việc mua chứng chỉ quỹ của công ty chứng khoán thì nhà đầu tư cũng thu
được một khoản lợi nhuận từ việc sở hữu các chứng chỉ quỹ.
B_ Thực Tiễn :
1. Đặc điểm của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay :
Công ty chứng khoán Việt Nam đã trải qua 6 năm phát triển và trưởng
thành cùng với thị trường chứng khoán. Chúng ta đă được những thành tựu rất
khả quan so giai đoạn ban đầu khi thị trường mới hình thành. Ban đầu khi thị
trường mới được hình thành thì các công ty chứng khoán vẫn còn nhỏ bé về

quy mô và chất lượng hoạt động. Công ty chứng khoán ban đầu có quy mô
vốn rất nhỏ mà hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động tài chính
phức tạp, kỹ năng chuyên sâu và có tác động mang tính dây chuyền trên bình
diện rộng. Đòi hỏi công ty chứng khoán phải có quy mô vốn lớn và có đội
ngũ cán bộ quản lý, nhân viên điều hành, tác nghiệp có kiến thức tốt về quản
lý vốn đầu tư, phân tích, phán đoán diễn biến tình hình thị trường. Điều kiện
của Việt Nam lúc bấy giờ thị trường vốn chưa phát triển cho nên chúng ta đã
cho phép các ngân hàng thương mại và công ty tài chính, bảo hiểm, các tổng
công ty mạnh tham gia vào thị trường chứng khoán. Nhưng việc các tổ chức
tài chính tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ gây ra những rủi ro cho thị
trường, do đó mà các tổ chức trên không được tham gia trực tiếp vào thị
trường mà phải tổ chức dưới hình thức công ty chứng khoán độc lập. Thời kỳ
đàu chúng ta có rất ít công ty chứng khoán nhưng đến nay đã có 15 công ty
chứng khoán đã có giấy phép hoạt động. Các công ty chứng khoán hiện nay
của nước ta là:
Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Công ty cổ phần chứng khoán Sài gòn
Công ty chứng khoán Đệ Nhất
Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Á Châu
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông
Công ty cổ phần chứng khoán TP Hồ Chí Minh
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đông Á
Công ty cổ phần chứng khoán Hải phòng
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà HN

Công ty cổ phần chứng khoán Đại Việt
Các công ty chứng khoán ngày nay đã phát triển và trưởng thành hơn trước
rất nhiều, và các công ty mới thành lập thì càng ngày càng có quy mô lớn hơn.
Xu thế đó là hoàn toàn hợp lý với bối cảnh hội nhập WTO hiện nay. Và
chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự phát triển của thị trường chứng
khoán của chúng ta.
2. Thực trạng của các công ty chứng khoán hiện nay :
a. Ảnh hưởng của Luật Chứng Khoán tới việc thành lập các công ty chứng
khoán :

×