Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.45 KB, 31 trang )

Đề tài:
Trình bày thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở
Việt Nam.
Mục lục
I- Những vấn đề cơ bản CTCK tại Việt Nam………………………………………...1
1. Văn bản pháp luật điều tiết hoạt động CTCK………………………….......1
2. Cơ quan quản lý trực tiếp……………………………………………………1
3. Tổng quan về CTCK tại Việt Nam
4. Một số nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của CTCK tại VN……5
II-Thực trạng…………………………………………………………………………...5
1.Giai đoạn 2000 – 2005………………………………………………………………..5
1.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán..............................5
1.2.Chất lượng hoạt động.....................................................................................7
2.Giai đoạn 2006 – 2007……………………………………………………………......8
2.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán..............................8
2.2.Về hoạt động của các công ty chứng khoán...................................................9
a.Về hoạt động môi giới………………………………………………..10
b.Về hoạt động tự doanh ……………………………………………....11
c.Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành……………………..12
d.Hoạt động tư vấn ………………………………………………….....12
3. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến 9 tháng đầu năm 2009……………………………..15
3.1. Về số lượng và quy mô giao dịch.................................................................15
3.2.Kết quả của hoạt động kinh doanh..............................................................16
3.3.Hạn chế về hoạt động của các công ty chứng khoán....................................18
4. Giai đoạn 3 tháng cuối năm 2009 cho đến nay………………………………........19
4.1. Tình hình hoạt động tổng quan.....................................................................19
4.2 Bất cập .........................................................................................................26
1. Thao túng giá…………………………………………………….......
2.Bán khống cổ phiếu…………………………………………………...
3.Tính minh bạch………………………………………………………..


III-Giải pháp cho các công ty chứng khoán..............................................................28
I- Những vấn đề cơ bản CTCK tại Việt Nam
1. Văn bản pháp luật điều tiết hoạt động CTCK
• Luật doanh nghiệp
• Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật hướng dẫn
• Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của
CTCK
2. Cơ quan quản lý trực tiếp
• Uỷ ban chứng khoán nhà nước
• Các trung tâm giao dịch và trung tâm lưu ký mà công ty chứng khoán là
thành viên
3. Tổng quan về CTCK tại Việt Nam
1
• CTCK là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán,
bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động môi giới, tự doanh, bảo
lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán
• Cùng với sự phát triển của thị trường, số công ty chứng khoán tăng nhanh:
Cuối 2009, thị trường đã có 105 CTCK, 46 công ty quản lý quỹ, 382 quỹ
đầu tư nước ngoài, 8 ngân hàng lưu ký.
• Các nghiệp vụ và vốn pháp định cho mỗi nghiệp vụ:
 Môi giới chứng khoán: 25 tỷ
Là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong đó
công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch
thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị
trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với
hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán phải mở tài
khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ
sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty.
Trong trường hợp khách hàng của công ty chứng khoán mở tài

khoản lưu ký chứng khoán tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương
mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty chứng khoán có
trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách
hàng và phải ký hợp đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Tiền
hoa hồng môi giới thường được tính phần trăm trên tổng giá trị của
một giao dịch.
 Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ
Là nghiệp vụ mà trong đó công ty chứng khoán thực hiện mua và
bán chứng khoán cho chính mình.
Công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ tự doanh nhằm mục đích
thu lợi hoặc đôi khi nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá trên thị
trường. Chứng khoán tự doanh có thể là chứng khoán niêm yết hoặc
chưa niêm yết trên TTCK. Ngoài ra công ty chứng khoán có thể tự
doanh chứng khoán lô lẻ của khách hàng, sau đó tập hợp lại thành lô
chẵn để giao dịch trên TTCK.
Theo Điều 20 quy chế hoạt động và tổ chức của công ty chứng
khoán số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17/6/2004 quy định về hoạt động
2
tự doanh của công ty chứng khoán như sau:
· Công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để
thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình
· Khi tiến hành nghiệp vụ tự doanh, công ty chứng khoán không
được:
o Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều
lệ của công ty chứng khoán.
o Đầu tư vượt quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một
tổ chức niêm yết.
o Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức
không niêm yết.
 Bảo lãnh hát hành chứng khoán: 165 tỷ

Là việc bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước
khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng
khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán
còn lại chưa được phân phối hết.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thưc bảo lãnh phát hành sau:
· Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo
lãnh phát hành cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành
cho dù có phân phối hết hay không.
· Bão lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ
chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý phát hành cho tổ chức phát
hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán
mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số chứng khoán còn lại nếu không
phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Như vậy, kết quả của
việc bán chứng khoán của tổ chức phát hành tùy thuộc và khả năng,
uy tín và sự lựa chọn nhà đầu tư của tổ chức bảo lãnh.
· Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà theo đó,
tổ chức phát hành yêu cầu tổ rhức bảo lãnh phải bán hết số chứng
khoán dự định phát hành, nếu không phân phối hết sẽ hủy bỏ đợt
phát hành. Theo phương thức này, không có một sự bảo đảm đợt
3
phát hành có thành công hay không, nên UBCKNN thường quy
định số chứng khoán mà nhà đầu tư đã mua trong thời gian chào bán
sẽ được giữ bởi một người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng của đợt
phát hành. Nếu đợt phát hành không thành công thì nhà đầu tư sẽ
được trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc.
· Bảo lãnh với hạn mức tối thiều: là phương thức kết hợp giữa
phương thức bảo lãnh cố gắng tối da và phương bảo lãnh tất cả hoặc
không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức
bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định. Nếu số
lượng chứng khoán bán ra dưới hạn mức này thì đợt phát hành sẽ

được hủy bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc mua chứng khoán sẽ được trả
lại cho nhà đầu tư. Đây là phương thức bảo lãnh tương đối hiệu quả,
vừa bảo vệ lợi ích cho tổ chức phát hành, vừa hạn chế rủi ro cho tổ
chức bảo lãnh.
Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với
cam kết chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ cua rnhà đầu tư và gắn
kết trách nhiệm của các công ty chứng khoán
 Tư vấn đầu tư chứng khoán:10 tỷ
Là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng trong
lĩnh vực tư vấn đầu tư chứng khoán; tư vấn tái cơ cấu tài chính,
chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp; tư vấn cho doanh
nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn,
kinh nghiệp nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của công
ty chứng khoán.
Theo quy định tại Việt Nam, khi thực hiện tư vấn đầu tư chứng
khoán cho khách hàng, các công ty chứng khoán và nhân viên kinh
doanh phải:
· Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp.
· Bảo đảm tính trung thực, khách quan và khoa học của hoạt động tư
4
vấn.
· Không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và
công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của bất kỳ loại
chứng khoán nào.
· Không được có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay
mời gọi khách hàng mua bán một loại chứng khoán nào đó.
· Bảo mật các thông tin nhận được từ người sử dụng dịch vụ tư vấn
trừ trường hợp đươc khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định
khác.

· Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động tư vấn và bồi
thường thiệt hại cho người sử dụng dịch vụ tư vấn khi vi phạm cam
kết trong hợp đồng tư vấn.
Tuy nhiên, các nhà tư vấn thường đánh giá tình huống theo kiến
thức, kinh nghiệm và tư duy chủ quan của họ, do vậy việc đánh giá
tình huống của mỗi nha tư vấn là khác nhau. Tính khách quan và
chính xác của các bản phân tích sẽ mang lại uy tín cho nhà tư vấn.
• CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
• Từ 1/1/2007 CTCK không được thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục mà
hoạt động này được chuyển sang cho công ty quản lý quỹ
• Ngoài ra CTCK được cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài
chính khác:
 Tư vấn tái cơ cấu TCDN, thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp, tư vấn
quản trị công ty cổ phần
 Tư vấn chào bán, niêm yết chứng khoán
 Tư vấn cổ phần hóa, xác định giá trị DN
 Tư vấn tài chính khác phù hợp với quy định pháp luật
4. Một số nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của CTCK tại Việt Nam
• Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phải đảm bảo tách biệt về văn
phòng làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo cáo giữa các bộ phận nghiệp
vụ có xung đột giữa lợi ích của công ty chứng khoán và của khách hàng
hoặc giữa lợi ích của các khách hàng với nhau
• Vốn điều lệ của CTCK phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định đối với từng
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
• CTCK phải duy trì tỉ lệ vốn khả dụng trên tổng vốn nợ điều chỉnh tối thiểu
bằng 5%
• Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu của CTCK không được vượt quá 6 lần
• Nợ ngắn hạn tối đa bằng tài sản ngắn hạn
5

• Hạn chế đầu tư của CTCK
 Đầu tư vào cổ phiếu hoặc phần vốn góp của công ty có sở hữu
trên 50% vốn điều lệ của CTCK
 Cùng với người có liên quan đầu tư từ 5% trở lên vốn điều lệ của
CTCK khác
 Đầu tư từ 20% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của 1 tổ
chức niêm yết
 Đầu tư từ 15% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của 1 tổ
chức không niêm yết
 Đầu tư hoặc góp vốn từ 15% trở lên tổng số vốn góp của 1 công
ty TNHH
II-Thực trạng:
1.Giai đoạn 2000 – 2005
1.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán
Ngày 28/11/1996, Chính phủ ra nghị định thành lập Ủy Ban Chứng khoán Nhà
Nước
Ngày 11/7/1998, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hai Trung tâm giao
dịch chứng khoán thuộc Ủy ban Chứng khoán nhà nước
20/07/2000 : Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức đi vào hoạt
động với:
• 4 Cty chứng khoán :SSI với vốn điều lệ ban đầu là 6 tỷ đồng
• 2 cổ phiếu niêm yết : Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE) và Công ty cổ
phần Cáp và Vật liệu viễn thông (Sacom).
• Một tuần chỉ có hai phiên giao dịch.Giá trị cổ phiếu niêm yết là 270 tỷ đồng
(theo mệnh giá). Giá trị giao dịch bình quân phiên của toàn thị trường liên
tục tăng từ 1,4 tỷ đồng.
Trong những năm đầu, thị trường chứng khoán Việt Nam còn non nớt, số nhà
đầu tư tham gia thị trường còn ít, không nhiều cá nhân, tổ chức mặn mà với việc
thành lập các CTCK. Thị trường chứng khoán phát triển chậm, không có biến động
lớn.Đến 05/05/2001 mới chỉ có 5 công ty niêm yết và 7 công ty kinh doanh chứng

khoán hoạt động tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Có 8.700 tài khoản nhà đầu
tư,
Thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục phát triển chậm chạp trong các
năm tiếp theo. Số lượng các CTCK sau 3 năm thị trường hoạt động chỉ là 12 công
ty với tổng vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán.
Số lượng mã cổ phiếu được giao dịch trên thị trường không cao (73 mã) với giá trị
vốn hóa không lớn. Thị trường mới chỉ có 14000 nhà đầu tư. Số nhà đầu tư là tổ
chức và nhà đầu tư nước ngoài không lớn. Tình trạng trên là do thị trường chứng
khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Nhìn vào biểu đồ ta thấy chỉ số vn index không tăng mà thậm chí còn sụt giảm
trong 3 năm đầu.
6
Năm 2004 và 2005 thị trường có những chuyển biến tích cực.Chỉ số VN
index liên tục tăng. Qua 5 năm TTGDCK TP hcm đã vận hành hệ thống giao dịch
thông suốt và an toàn trên 1.000 phiên giao dịch, với giá trị giao dịch bình quân
phiên của toàn thị trường liên tục tăng từ 1,4 tỷ đồng trong năm 2000 lên 81 tỷ
đồng trong 7 tháng đầu năm 2005. Bức tranh chung của Thị trường chứng khoán
Việt Nam năm 2005 có sự khởi sắc, quy mô thị trường được mở rộng, tăng khoảng
55% giá trị chứng khoán niêm yết, số lượng nhà đầu tư tăng 35%, lòng tin của nhà
đầu tư đối với thị trường được nâng lên. Đây là một cơ hội lớn cho các công ty
chứng khoán tăng số khách hàng ,số lượng nhà đầu tư từ dưới 3.000 tài khoản vào
năm 2000 nay đã đạt trên 24.300 tài khoản, trong đó có 250 nhà đầu tư là tổ chức
Cũng trong năm 2005 trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi
vào hoạt động là một động lực lớn cho TTCK và cũng là một cơ hội lớn cho các
công ty chứng khoán.
Qua 5 năm hoạt động đã có 14 CTCK được thành lập và hoạt động trên
TTCK. Năm 2005, cả 14 công ty đều có lãi. Các CTCK SSI, Bảo Việt, ACB,
VCBS... đều có mức lợi nhuận trên 30%. Sự lớn mạnh của các CTCK không chỉ
thể hiện qua việc mở rộng quy mô hoạt động ra một số tỉnh-thành trong nước như
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TPHCM, Bình Dương, Cần Thơ…, mà tiềm lực về

vốn và nguồn nhân lực cũng không ngừng gia tăng, góp phần nâng cao năng lực
hoạt động của thị trường.
1.2.Chất lượng hoạt động
Tính đến năm 2004 Các CTCK mở rộng hoạt động nghiệp vụ, có kết quả kinh
doanh và tiềm năng phát triển khả quan :
7
Cùng với sự gia tăng về số lượng, chất lượng các loại hình dịch vụ và tiện ích
phục vụ người đầu tư cũng ngày càng được nâng cấp và đa dạng hóa. Các mô hình
đầu tư mới như quỹ đầu tư chứng khoán, hợp đồng mua lại trái phiếu, cổ phiếu có
kỳ hạn… cũng đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường, làm phong phú thêm hàng hóa
để người đầu tư lựa chọn. Các dịch vụ gia tăng giá trị như liên kết tài khoản với
ngân hàng, báo giá chứng khoán qua điện thoại, theo dõi giao dịch chứng khoán
trực tuyến, đặt lệnh giao dịch qua điện thoại, Internet… được các CTCK đưa vào
áp dụng ngày càng nhiều, đem lại lợi ích thiết thực cho người đầu tư. . Nguồn vốn
điều lệ của các CTCK đã lên tới trên 810 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh đã ổn định
hơn sau một số năm đầu khó khăn, đến năm 2004 các CTCK đều có lãi và đã thực
hiện trích quỹ dự phòng tài chính để tăng vốn điều lệ.
Cụ thể:
+ Về kết quả triển khai các hoạt động nghiệp vụ được cấp phép: Các CTCK đã chủ
động triển khai mạnh hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp: cung cấp dịch vụ
định giá doanh nghiệp, tư vấn cổ phần hoá, thực hiện đấu giá phát hành cổ phiếu
qua CTCK, tư vấn niêm yết và phát hành bổ sung tăng vốn qua TTCK. Trong năm
2004, các CTCK đã làm đại lý phát hành cổ phiếu cho gần 20 công ty và tư vấn cổ
phần hoá cho gần 100 doanh nghiệp, tư vấn niêm yết mới và niêm yết bổ sung cho
10 doanh nghiệp, đây là đóng góp của các CTCK trong tiến trình đẩy mạnh cổ phần
hoá DNNN của nhà nước
Trong năm 2004 đã có 6/13 CTCK triển khai nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
với tổng giá trị chứng khoán trong danh mục trên 240 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các
CTCK đã thực hiện bảo lãnh phát hành với tổng giá trị là 9.034 tỷ đồng.
+ Về kết quả kinh doanh: Hầu hết các CTCK đều có lãi. So với năm 2003 doanh

thu tự doanh tăng 8 lần (tự doanh trái phiếu chiếm 90% tổng giá trị tự doanh),
doanh thu môi giới tăng 3 lần và doanh thu tư vấn tăng 1,6 lần.
+ Về tiềm năng phát triển: các CTCK bắt đầu xác định thế mạnh nghiệp vụ của
từng công ty. Một số công ty đã thực hiện tăng vốn điều lệ (như Công ty cổ phần
chứng khoán Sài gòn, CTCK Ngân hàng Công thương).
+ Các tổ chức kinh doanh chứng khoán đã thành lập Hiệp hội để phối hợp hoạt
động giữa các hội viên và thúc đẩy phát triển TTCK, bước đầu đã tham gia nghiệp
vụ cho các nhân viên hành nghề.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế và tồn tại:
- Khung pháp lý và chính sách phát triển thị trường ck cũng như các công ty chứng
khoán vẫn chưa hoàn thiện. Chúng ta chưa có Luật Chứng khoán, hệ thống các văn
bản về chứng khoán và TTCK hiện hành có tính pháp lý chưa cao và còn nhiều bất
cập .Các văn bản pháp quy ở mức thấp vì vậy không bao trùm được hết phạm vi
hoạt động của thị trường, chưa tạo ra được một thể chế hoàn chỉnh theo nguyên lý
vốn có của nó..Điều này đã gây khó khăn cho các công ty chứng khoán trong việc
hoạt động cũng như chấp hành luật.
- Quy mô của thị trường cổ phiếu nhỏ nên chưa thu hút các nhà đầu tư. Với 30
CTNY mà đa phần là các doanh nghiệp (DN) vừa và nhỏ, tổng giá trị vốn hóa thị
trường cổ phiếu hiện chỉ vào khoảng 0,6% GDP (nếu tính cả trái phiếu thì tổng giá
trị niêm yết toàn thị trường là 30.800 tỷ đồng, chiếm 4,8% GDP), hãy còn quá nhỏ
để có thể đại diện cho nền kinh tế. Quy mô nhỏ đã gây khó khăn cho các công ty
chứng khoán trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh.Hơn nữa “miếng bánh nhỏ”
8
này lại bị các ông lớn như SSI,Bảo Việt … nắm giữ đa phần nên sẽ càng khó khăn
cho các công ty nhỏ và mới.
- Cơ chế hoạt động của TTCK chưa thực sự ổn định đã ảnh hưởng xấu đến các
công ty chứng khoán
- Năng lực trình độ của cán bộ quản lý, các nhân viên hành nghề chưa đáp ứng
được với yêu cầu phát triển lâu dài của thị trường.Điều nãy cũng dễ hiểu vì TTCK
VN là một thị trường non trẻ,thiếu kinh nghiệm.

- Máy móc thiết bị chưa hiện đại nên việc giám sát và thông tin của thị trường
không hiệu quả,hệ thống công nghệ thông tin còn ở trình độ thấp.
-Chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ trên TTCK chưa cao, tính minh bạch và
hiệu quả còn hạn chế, thể hiện ở chất lượng công tác công bố thông tin, chất lượng
hoạt động của TTGDCK cũng như các thành viên thị trường. Các biểu hiện vi
phạm trên thị trường ở một số CTCK cũng như công ty niêm yết đã ảnh hưởng đến
lòng tin của công chúng đầu tư, các giải pháp phát triển thị trường chưa đồng bộ.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do: tính chủ động, hiệu quả trong công tác
quản lý, giám sát hoạt động TTCK chưa cao. Chưa có một chương trình hành động
thống nhất để phát huy vai trò và khả năng của các thành viên thị trường trong nỗ
lực chung để phát triển TTCK, đặc biệt là vai trò phối kết hợp của các Bộ, ngành,
địa phương với cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK còn hạn chế.
Đồng thời, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ quản lý cũng như nhân
viên hành nghề còn có hạn chế nhất định; chưa xây dựng và thực hiện chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp của tổ chức và người kinh doanh chứng khoán.
2.Giai đoạn 2006 – 2007
2.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán
a, Số lượng:
Trước tiên cần phải khẳng định giai đoạn 2006-2007 là thời kì bùng nổ mạnh
mẽ của thị trường chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán nói riêng. Sự gia
tăng mạnh mẽ cả về số lượng, quy mô và mở rộng nghiệp vụ của các công ty chứng
khoán là rất đáng kinh ngạc.
Qua sáu năm hoạt động, khởi điểm từ vài công ty năm 2000 tính đến cuối
năm 2006 số lượng công ty đã tăng lên 55 và sang năm 2007 là 78.
Bên cạnh đó, các CTCK cũng chú trọng đến việc mở rộng mạng lưới giao dịch
thông qua chủ yếu chỉ tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí
Minh. So với nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư, nhu cầu tư vấn CPH, niêm yết Việc
phân tích một cách tương đối đơn giản các con số như trên cho thấy, sự gia tăng
của số lượng các CTCK trong thời gian vừa qua có xu hướng phù hợp với xu
hướng gia tăng của quy mô và hàng hóa trên thị trường. Giá trị thị trường tăng

mạnh, số lượng hàng hóa lớn đòi hỏi một lực lượng trung gian thị trường mạnh có
tiềm lực tài chính, công nghệ, chuyên môn tốt. Khi thị trường phát triển trong giai
đoạn nóng, số lượng CTCK dù tăng nhanh vẫn chưa thể đáp ứng được đòi hỏi giao
dịch của nhà đầu tư, cũng như nhu cầu về tư vấn cổ phần hóa (CPH), tư vấn niêm
yết. Năm 2001 chỉ có 8.700 tài khoản nhà đầu tư, năm 2006 tăng lên 72.700 tài
khoản, năm 2007 là 303.980 tài khoản và đến đầu năm 2008 là 383.980 tài khoản.
Có thể thấy sự quá tải của các CTCK trong giai đoạn 2006-2007 trong việc thực
hiện các nghiệp vụ môi giới, tư vấn niêm yết. Mặt khác, số lượng CTCK tuy tăng
nhưng về cơ bản, số lượng chi nhánh vẫn hạn chế (tính đến cuối 2007 chỉ có 45 chi
9
nhánh/78 CTCK). So sánh với các nước, ví dụ tại Nhật Bản hay Hàn Quốc, các
CTCK thường có và tiềm năng phát triển của thị trường, thiết nghĩ với số lượng
CTCK như hiện nay chưa phải là nhiều, nhất là trong điều kiện thị trường phát triển
mạnh, không bị sụt giảm như những năm 2006 -2007.
b, Quy mô vốn
- Năm 2006
Giá trị vốn hóa của thị trường tính đến hết năm 2006 tăng hơn 20 lần so với
năm 2001, tăng gần 3 lần so với năm 2005. Trong giai đoạn này, mức tăng của số
lượng các CtyCK thấp hơn nhiều so với mức tăng của giá trị vốn hóa của thị
trường/GDP và số lượng CTNY. Số lượng CtyNY cũng tăng gần 4 lần so với năm
2005 và đạt các chỉ tiêu tăng trưởng tốt. TTCK thu hút được sự quan tâm của đông
đảo công chúng đầu tư và các thành phần kinh tế. Giá cổ phiếu trên thị trường liên
tục tăng trong một giai đoạn dài. Bối cảnh chung nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng
cao, xuất hiện nhiều cơ hội phát triển mới từ việc gia nhập WTO, các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô được duy trì ở mức hợp lý, đầu tư nước ngoài (ĐTNN) được đẩy mạnh.
Tất cả những yếu tố này đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào một TTCK tiềm
năng, với những kỳ vọng về các khoản lợi nhuận do thị trường đem lại... Nhiều tổ
chức nhanh chóng gia nhập thị trường và mong muốn được “hưởng một phần của
chiếc bánh” lợi nhuận từ TTCK. Do vậy, nhu cầu thành lập CTCK tăng mạnh là
điều dễ hiểu.

Mặt khác, 2006 còn là năm bản lề, trước khi Luật Chứng khoán có hiệu lực.
Những tổ chức tài chính muốn gia nhập thị trường đứng trước sức ép phải “nhanh
chân” trước khi yêu cầu về vốn để thành lập CTCK tăng từ 44 tỷ đồng lên 300 tỷ
đồng theo quy định của Luật Chứng khoán, khi luật này có hiệu lực. Đồng thời, cơ
chế ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các CTCK mới thành lập sắp được bãi
bỏ. Điều này dẫn đến một số lượng lớn hồ sơ nhanh chóng được hoàn tất và đệ
trình cơ quan chức năng để được hưởng các khoản ưu đãi trên.
- Năm 2007
Sang năm 2007 giá trị vốn hóa thị trường năm đạt trên 43% GDP, số lượng
các CTCK tăng ở mức cao hơn so với mức tăng của giá trị vốn hóa thị trường/GDP
và số lượng CTNY. Sở dĩ như vậy là do nhu cầu thành lập CTCK vẫn lớn trong khi
giá sụt giảm liên tục, khiến cho giá trị vốn hóa thị trường giảm mạnh. Giả thiết, nếu
thị trường vẫn ở mức chiếm 40-50% GDP thì tương quan này có thể khác rất nhiều.
Một nhân tố khác phải tính đến, đó là năm 2007, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của WTO, đồng nghĩa với việc phải có lộ trình thực hiện các cam
kết về dịch vụ tài chính, chứng khoán. Theo đó, ngay từ khi gia nhập WTO, CTCK
nước ngoài được góp vốn, liên doanh với đối tác trong nước với tỷ lệ không quá
49%. Sau 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO, CTCK nước ngoài được phép thành lập
chi nhánh, CTCK 100% vốn nước ngoài. Điều này mở ra triển vọng cho ngành dịch
vụ chứng khoán tại Việt Nam khi đang chờ đón làn sóng kinh doanh mới từ việc
gia nhập WTO. Đồng thời, theo cam kết WTO, cơ quan quản lý không có lý do gì
để đưa ra hạn chế về số lượng giấy phép kinh doanh, đặc biệt trong hoàn cảnh các
công ty nước ngoài chưa đến thời điểm được gia nhập thị trường.
2.2.Về hoạt động của các công ty chứng khoán
10
Theo thống kê của UBCKNN cho thấy hết năm 2006 và quí I năm 2007 lợi
nhuận sau thuế đều tăng mạnh ( ngoại trừ cong ty chứng khoán Việt Nam lỗ 1,573
tỷ đồng). Phải kể đến TOP 5 CTCK trên thị trường Việt Nam đều đạt được lợi
nhuận lớn như: Lợi nhuận sau thuế của SSI cán đích 864 tỷ đồng, ACBS là 332 tỷ
đồng BVSC 214 tỷ đồng, KLS 126 tỷ đồng

a.Về hoạt động môi giới
Một trong những nguồn thu lớn nhất của các công ty CK đến từ mảng môi giới.
Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các
CtyCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với
thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó, đối với những CtyCK đã có bề dày hoạt
động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch như:
VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị trường; BVSC
có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%; CtyCK Sài Gòn (SSI) có 26.746 tài khoản,
chiếm 10,48%; CtyCK Ngân hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm
9,61%. Bên cạnh đó, một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng đã thu hút
được khá nhiều nhà đầu tư, như SBS đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần,
ABS đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2.39% thị phần, CtyCK Vndirect đạt 5.195 tài
khoản, chiếm 2.04% thị phần...
Tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các
CtyCK đạt 25.196 tỷ đồng. Những CtyCK có doanh số môi giới giao dịch lớn đa số
là những công ty đã có nhiều năm hoạt động, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản
(xem bảng dưới đây).
11
Công ty
chứng
khoán
Doanh số giao dịch
tháng 6/2007
Thị phần giao dịch
tháng 6/2007
VCBS 6.362,5 25,25%
ACBS 3.361 13,34%
SSI 3.253 12,91%
BVSC 2.182 8,66%
BSC 1.313 5,21%

(Đơn vị: tỷ đồng )
b.Về hoạt động tự doanh
Một số công ty đang “phất” lên chủ yếu nhờ mảng tự doanh. Trong đó, SSI
đang được xem là công ty CK có mảng tự doanh mạnh nhất trên thị trường. Năm
2006, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của công ty này lên đến 1.786 tỉ đồng,
trong khi đầu tư tài chính dài hạn chỉ có 147,8 tỉ đồng.
Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt
9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm
01/01/2007). Đối với 14 CtyCK đã hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự
doanh (2 công ty là SCBS và BSC không báo cáo số liệu này) tính tại thời điểm
ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với
giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh
và đạt giá trị cao.
Đối với khối CtyCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ,
giá trị tự doanh không đáng kể vì công ty chưa triển khai hoạt động thì đến thời
điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ
đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CtyCK). Một số công ty đã đẩy nhanh
nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: CtyCK Ngân hàng Sacombank
(giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CtyCK Vndirect (giá trị chứng
khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng
khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng).

c.Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành
Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập
trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho
Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới đây).
Công ty Khối
lượng bảo
lãnh
Giá bảo

lãnh
(đồng)
Vốn chủ sở
hữu của
CtyCK (tỷ
đồng)
Hình thức
bảo lãnh
Số hợp đồng
bảo lãnh
Giá trị bảo
lãnh (triệu
đồng)
BVSC 5.314 33.500 150 Chắc chắn 1 178
ACBS 880.000 67.000 250 Chắc chắn 1 58.960
12

×