Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của c mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.5 KB, 29 trang )

Tiểu luân triết học
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I KHÁI NIỆM VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên quan hệ sản xuất Êy.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội áp dụng trong mọi xã hội, song
phương pháp của Mác đòi hỏi phải phân tích cụ thể khi xem xét một hình
thái kinh tế - xã hội cụ thể. Ngoài những yếu tố cơ bản nói trên thì mỗi
hình thái kinh tế -xã hội còn có các quan hệ phong phú khác như: quan hệ
về dân téc, quan hệ gia đình và những quan hệ xã hội khác. Các quan hệ
trên tuy có vai trò độc lập nhất định nhưng cũng bị chi phối bởi những
điều kiện vật chất kinh tế cụ thể và những quan hệ cơ bản khác của xã
hội. Những yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế-xã hội hình thành nên
những mối quan hệ có tính quy luật như: mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Chính sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố đó là
động lực bên trong của sự phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ lịch sử.
II - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác ra đời đã vạch ra các
quy luật vận động, phát triển của xã hội tư bản và đi đến dự báo về sự ra
đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, đó là hình thái cộng sản chủ
nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Hình thái kinh te - xã hội
náy sẽ thay thế hình thái tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế mà kẻ thù tư
tưởng của chủ nghĩa Mác mà tiêu biểu nhất la chủ nghĩa đế quốc luôn tìm
cách để phủ nhận những giá trị cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác trong đó có lý luận Hình thái kinh tế - xã hội. Trước sự phát triển
mạnh mẽ khoa học và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô


1
Tiểu luân triết học
và Đông Âu, chúng đã mở các đợt tấn công vào học thuyết Mác nói
chung va lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói riêng. Song , chủ nghĩa
Mác, lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trì khoa học
của nó trong thời đại ngày nay. Điều đó chã thấy đây là một học thuyết vô
cùng giá trì, đúng đắn và luông có tính thời đại. Việt Nam là một nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, chính
vì thế mà việc nghiên cứu và vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội
vào sự nghiệp đổi mới đất nước đang là một yêu cầu bức bách. Là một
sinh viên Việt Nam, đứng vào hàng ngò trí thức thì không thể nào lại
không nghiên cứu về chủ nghĩa Mác và lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Còn với tư cách là một thanh niên Việt Nam, đứng vào hàng ngò lực
lượng lao động trẻ, là chủ nhân tương lai của đất nước em có trách nhiêm
phải nghiên cứu chủ nghia Mác, lý luận hình thái kinh tế - xã hội từ đó có
phương pháp, phương hướng để đóng góp sức lực của mình giúp cho đất
nước thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội thành công. Dó là lý do khiến
em chọn đề tài này.
Đây là tiểu luân đầu tay của em nên trong quá trình nghiên cứu và làm
đề tài này, mặc dù đã rất cố gắng, song chắc chắn vẫn còn nhiều hạn chế
và thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của cô để các bài làm sau có
thể làm tốt hơn.

2
Tiểu luân triết học
PHẦN II: NỘI DUNG
I - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH
TẾ - XÃ HỘI
1. Những tiền đề của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
C.Mác đã nghiên cứu những vấn đề bản chất của xã hội bằng nhãn

quan của mình, ông đã tìm ra đằng sau những sự kiện Èn dấu trên bề mặt
của những hiện tượng xã hội là một dòng chảy tất yếu của các quá trình
và quy luật chi phối sự phát triển của tiến bộ xã hội, mà cốt lõi là sự phát
tiển liên tục của các hình thái kinh tế - xã hội. C.Mác đã đưa ra khái niệm
hình thái kinh tế - xã hội bằng cách phân tích tất cả các quan hệ giữa
người và người trong đời sống hàng ngày, đó là những quan hệ xã hội.
Trong tất cả những quan hệ đó, C.Mác đã khám phá ra quan hệ nổi bật,
đóng vai trò quan trọng nhất, đó là quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất vật chất, coi đó là những quan hệ cơ bản, quyết định tất
cả các quan hệ khác. theo C.Mác, sản xuất vật chất là nền tảng của đời
sống hàng nhày, đó là những quan hệ xã hội. Trong tất cả những quan hệ
đó, C.Mác đã khám phá ra quan hệ nổi bật, đóng vai trò quan trọng nhất,
đó là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, coi
đó là những quan hệ cơ bản, quyết định tất cả các quan hệ khác. Theo
C.Mác, sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. V.I.Lênin cũng
nhận xét:"Mác đã xây dựng tư tưởng cơ bản đó bằng cách nào? Bằng
cách là trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi
bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội
ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuât, coi đó là những quan hệ
cơ bản, ban đầu quyết định tất cả mọi quan hệ khác".

3
Tiểu luân triết học
C.Mác không chỉ nghiên cứu quan hệ sản xuất một cách biệt lập mà
luôn đặt nó trong mối quan hệ với các quan hệ xã hội. C.Mác còn chỉ ra
rằng, những quan điểm chính trị, đạo đức, pháp lý, triết học… cùng với
những thể chế tương ứng được hình thành trên những quan hệ sản xuất
đó. Những quan hệ sản xuất này được hợp thành cơ sở hạ tầng của một xã
hội, tức là cơ sở hiện thực trên đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng.
Ngững quan hệ sản xuất này tồn tại trên một trình độ nhất định của lực

lượng sản xuất. Hai mặt này thống nhất trong một phương thức sản xuất
và chính nó là nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế - xã hội.
Từ những tư tưởng cơ bản của C.Mác, tiếp đó V.I.Lênin đã phát triển
và làm phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế - xã hội, Người đặc biệt
nhấn mạnh đến tư tưởng coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử - tù nhiên. Đó chính là một trong những tư
tưởng cơ bản của C.Mác thể hiện trong bé Tư bản. Quả thật, các thành
tựu khoa học, kỹ thuật, các giá trị văn hóa, lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và bản thân các thế hệ con người đều nằm trong suốt chiều dài
lịch sử . Trên cơ sở khẳng định tư tưởng của C.Mác là đã làm nổi bật lĩnh
vực kinh tế trong số những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, tách riêng
quan hệ xản xuất trong số các quan hệ xã hội khác và coi nó là quan hệ cơ
bản quyết định.
2. Hình thái kinh tế-xã hội
2.1. Khái quát
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với
những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở một
trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế-xã hội đạt nguyên tắc phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu tất cả các mặt xã hội. Chẳng những nó đưa ra bản chất của

4
Tiểu luân triết học
một xã hội cụ thể, phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác mà
còn thấy được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt ở những xã hội khác nhau.
Nói khác đi, phạm trù hình thái kinh tế-xã hội cho phép nghiên cứu xã hội
cả về mặt loại hình và về mặt lịch sử. Xem xét đời sống xã hội ở một giai

đoạn phát triển lịch sử nhất đinh, coi như một cấu trúc thống nhất, tương
đối ổn định đang vận động trong khuôn khổ của chính hình thái đó.
2.2. Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế-
xã hội
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những
cái nhìn riêng lẻ mà xã hội là một chỉnh thể toàn diện có cơ cấu phức tạp
trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất
định và tác động lên những mặt khác tạo nên sự vận động của cả xã hội.
Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế-
xã hội.
2- Lực lượng sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ
mà C. Mác gọi là “ quan hệ song trựng” của bản thân sự sản xuất xã hội:
quan hệ của người với tự nhiên và quan hệ của con người với nhau.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự
nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người
chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình,
sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con
người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất
bao gồm người lao động với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động,
biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.Trong quá trình sản

5
Tiểu luân triết học
xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong đó, “ lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao

động”.
Do đặc trưng sinh học- xã hội riêng có của mình, con người, trong
nền sản xuất có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ- bắp. Trong
lao động sức mạnh và kỹ năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn
nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và
lao động trí tuệ. Trí tuệ con người không phải là cái gì siêu tự nhiờn,mà là
sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu
dài của xã hội loài người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động
làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí
tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của khoa học công nghệ
hiện nay, đã làm cho con người trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản
xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao
động khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác
động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động
không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự
nhiên được đưa vào sản xuất. Con người không chỉ tìm trong giới tự
nhiên những đối tượng lao động sẵn có, mà còn sáng tạo ra bản thân đối
tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan đến việc đưa
những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó
hoàn toàn có tính quy luật bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả
năng sản xuất của con người. Đối tượng lao động chính là yếu tố vật chất
của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:

6
Tiểu luân triết học
+ Loại có sẵn trong tự nhiên. Loại này thường là đối tượng của các
ngành công nghiệp khai thác.

+ Loại đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động gọi
là nguyên liệu. Loại này thường là đối tượng của các ngành công nghiệp
chế biến.
Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai
trò của nhiều đối tượng lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối
tượng lao động có chất lượng mới được tạo ra. Nhưng cơ sở của mọi đối
tượng lao động vẫn là đất đai, tự nhiên: “ lao động là cha, còn đất là mẹ
của mọi của cải vật chất”.
Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến
đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố
vật chất phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất( nhà xưởng,
kho tàng, bến bãi, ống dẫn, băng chuyền, đường sỏ, cỏc phương tiện giao
thông vận tải, thông tin liên lạc ).
Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì công cụ lao động
có ý nghĩa quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất.
Công cụ lao động, theo Ph. Ăngghen là “ khí quan của bộ óc con người”,
là “ sức mạnh của tri thức đã được vật thể húa” có tác dụng “ nối dài bàn
tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Cũn Mỏc gọi là hệ thống
xương cốt và cơ bắp của nền sản xuất Công cụ lao động là vật thể hay
phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động.
Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến, tinh
xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn. Nó là yếu tố
động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự biến
đổi vá phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng
sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ, phong phú

7
Tiểu luân triết học

thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân công lao động phát
triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã
gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng
chính đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người, là cơ sở xác định trình dộ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn
để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ
mới, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất
phát của sự phát triển tương lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục
của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng
lao động, khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí
tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao
động dù có ý nghĩa đến đõu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng
không thể phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất
của xã hội.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã nêu một tư
tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi
các quan hệ xã hội. C. Mác viết: “ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật
thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất
mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi
phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất
cả quan hệ xã hội của mỡnh. Cỏi cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội nhà tư bản công
nghiệp”.
3- Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái
niệm lực lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “ quan hệ song
trựng” của bản thân sự sản xuất xã hội- quan hệ của con người với tự


8
Tiểu luân triết học
nhiên; cũn khớa niệm quan hệ sản xuất biểu thị mặt thứ hai của quan hệ
đó- quan hệ của con người với con người trong sản xuất. Sở dĩ qỳa trỡnh
sản xuất xã hội có thể diễn ra bình thường, chính là vì trong sự sản xuất
đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối
quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Trong sản xuất, mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên thể hiện thành những trình độ khác nhau của
lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng trong và
thông qua những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức là những
quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C. Mác
viết: “ Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên.
Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau.
Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất
định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.
Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người
ta, dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan
hệ nhất định với nhau. những quan hệ này mang tính tất yếu và không
phụ thuộc vào ý muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Cố
nhiên, quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những
quy luật tất yếu, khách quan sự vận động của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đõy:
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản
xuất.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc tổ chức quản lý.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc phân phối sản phẩm
lao động.
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ

mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức

9
Tiểu luân triết học
xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã
hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với
nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận
động không ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một
phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong
phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ
thống quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó
tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử
nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu- là đặc
trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản
xuất của mỗi nền kinh tế- xã hội xác định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất luôn luôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác
. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm
của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu- quan hệ giữa các tập
đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị
của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị
của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức
mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thức mà các
tập đoàn tổ chức quản lý quá trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở
hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn
người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. “ Định nghĩa
quyền sở hữu tư sản không phải là gỡ khỏc mà là trình bày tất cả những
quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.
Trong các hình thái kinh tế- xã hội mà loài người đã từng trải qua,

lịch sử đã chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối
với tư liệu sản xuất: sở hữ tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công
cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên

10
Tiểu luân triết học
của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên
của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong
phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng
đống nờn cỏc quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã
hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ nằm trong tay một số ít
người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người
đó. Các quan hệ xã hội, do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị
và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm
tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư nhân của các xã
hội điển hình trong lịch sử( sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở
hữu tư nhân trong chế độ phong kiến và sở hữu tư nhân trong chế độ tư
bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở
hữu này.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế đọ tư bản chủ
nghĩa không phải là hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử xã hội loài
người. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù
sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức,
quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp
quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng
cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ
chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản

lý sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách
quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu
hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất
cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản

11
Tiểu luân triết học
xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới
tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể
làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh
tế- xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản
lý hiện đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản
xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất, đặc biệt đối với việc điều
hành sản xuất ở tầm vĩ mô, trên thực tế đã tăng lên gấp bội so với vài thập
kỷ trước đõy. Đõy là điều rất đáng lưu ý trong việc phân tích và đánh giá
vai trò của các quan hệ sản xuất hiện đại.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức- quản lý, trong hệ thống các
quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng
là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn
bộ nền kinh tế- xã hội.
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ
chức quản lý sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi
ích của con người, nờn cỏc quan hệ phân phối là “ chất xỳc tỏc” của các
quá trình kinh tế- xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và
nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế- xã
hội; hoặc trong trường hợp ngược lại, nó cú khả năng kìm hãm sản xuất,
kìm hãm sự phát triển của xã hội.
c. Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng bao gồm:
- Thứ nhất, những tư tưởng xã hội (chính trị, pháp luật, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật, v.v ).
- Thứ hai, những tổ chức và thiết chế khác nhau ( nhà nước, chính
đảng, Giáo hội, các đoàn thể, v.v ).
Như vậy, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những
thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành

12
Tiểu luân triết học
trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật
phát triển riêng, nhưng chúng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở
hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều
có mối liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó. Trái lại, một số bộ
phận như các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ
tầng; còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở
hạ tầng và chỉ có mối liên hệ gián tiếp với nó.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư
tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm xã hội
trước để lại, quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời, quan điểm
tư tưởng và tổ chức của các tầng líp trung gian, tính chất cơ bản của kiến
trúc thượng tầng trong một hình thái xã hội nhất định.
d. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh
tế của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã
hội cụ thể bao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất
tàn dư của xã hội trước là mầm mèng của xã hội sau. Trong xã hội có giai
cấp đối kháng, tính giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất

thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp
bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ
đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng và phản
ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng, biểu hiện sự xung đột, quan hệ tư
tưởng và ở đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có
quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng xã hội có quyền lực mạnh
nhất là nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã
hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của

13
Tiểu luân triết học
giai cấp thống trị mới có khả năng thống trị được toàn bộ đời sống của xã
hội. Giai cấp thống trị nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng cùng những thể chế của giai cấp đó cũng
giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của
toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất đặc trưng
cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội.
Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội là mô hình lý luận về xã hội và như mọi
mô hình khác, nó bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng xã hội.
Vì vậy, hiện thực xã hội và sơ đồ lý thyết về xã hội không đồng nhất với
nhau. Trong thực tế, các sự kiện lịch sử mang tính chất không lặp lại, hết
sức phong phú, các yếu tố tinh thần và vật chất, kinh tế và chính trị
thường xuyên tác động qua lại, xâm phạm và chuyển hoá lẫn nhau. Hình
thái kinh tế-xã hội chỉ phản ánh mặt bản chất, những mối liên hệ bên
trong, tất yếu, lặp lại của các hiện tượng đó. Từ tính đa dạng cụ thể, lịch
sử bỏ qua những chi tiết cá biệt, dựng lại cấu trúc ổn định và lôgic, phát
triển của quá trình lịch sử. Trong bất kỳ giới tự nhiên hay trong xã hội
nào đều không có và không thể có hiện tượng “thuần tuý”. Đó chính là
điều mà phép biện chứng của C.Mac nêu lên. Hình thái kinh tế-xã hội

đem lại những nguyên tắc, phương pháp luận để nghiên cứu xã hội, loại
bỏ đi những cái bên ngoài, ngẫu nhiên, không đi vào cái chi tiết, cụ thể,
vượt qua khái tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra
cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cái lôgic
bên trong của tính đa dạng của lịch sử.
3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội
Xã hội đã phát triển qua nhiều giai đợn kế tiếp nhau, ứng với mỗi phai
đoạn cuẩ sự phát triển là một hnhf thái kinh tế - xã hội nhất định. Các
hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển do tác động của các quy
luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển.C.Mac viết:
“Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình

14
Tiểu luân triết học
lịch sử tự nhiên”. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có
nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất đã quyết định một cách khách quan
của quan hệ sản xuất và như vậy nó quyết định quá trình vận động và
phát triển của hình thái kinh tế-xã hội như một quá trình tự nhiên. Trong
các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế-xã hội thì quy luật về sự phù hợp về quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng đóng vai trò quyết định.
Một mặt của phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố đảm
bảo tính kế thừa trong sử phát triển, tiến lên của xã hội, quy định khuynh
hướng phát triển từ thấp đến cao.
Mặt khác của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sản
xuất phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời đã được xoá
bỏ và thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn đến
hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất hiện
và phát triển của hình thái kinh tế được giải thích trước hết bằng sự tác

động của các quy luật. Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế-
xã hội, hình thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong
khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại bảo tồn, kế thừa và đổi mới những
yếu tố của nó, vừa đảm bảo tính liên tục vừa tạo ra bước phát triển. Do
đó, nó tạo ra tình trạng chồng chất, đan xen những yếu tố của hình thái
kinh tế-xã hội khác của nhiều thời kỳ lịch sử khác. Lênin đã chỉ rõ: “Trên
thế giới không có và cũng không thể có thứ chủ nghĩa tư bản nào là thuần
tuý cả vì chủ nghĩa tư bản luôn luôn có những yếu tố phong kiến, tiểu thị
dân và cả những cái khác nữa”.
Tuy nhiên, vạch ra con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử điều đó
không có nghĩa là đã giải thích được rõ ràng sự phát triển xã hội trong
mọi thời điểm lịch sử. Quá trình lịch sử cụ thể ở mỗi nước vô cùng
phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho tiến trình chung trong sự

15
Tiểu luân triết học
phát triển của xã hội loài người có những biểu hiện đa dạng phong phú ở
những nước, dân téc khác nhau. Không thể xem xét quá trình lịch sử như
một con đường thẳng, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến
cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Những nhân tố kinh tế không
phải là nhân tố quyết định mà những nhân tố khác của kiến trúc thượng
tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Vì vậy, để hiểu được lịch sử
thì cần thiết phải tính đến các nhân tố cơ bản có tham gia trong sự tác
động lẫn nhau của chúng. Tiến trình lịch sử của một dân téc, của một
quốc gia cụ thể thường xuyên bị các yếu tố khác ở bên trong và bên ngoài
chi phối như hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn hoá, tâm lý dân téc, quan
hệ giao lưu với các dân téc khác. Tất cả các yếu tố đó đều có thể góp
phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân téc nhất định.
Tính trong chiến tranh hay hòa bình của một dân téc cũng có thể làm
gián đoạn, phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề phát triển

lịch sử của một dân téc.
II. COVẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ngay từ Luận cương
năm 1930, Đảng ta đã chỉ ra rằng cách mạng Việt Nam phải trải qua hai
giai đoạn cơ bản: hoàn thành cách mạng tư sản dân quyền và tiến lên chủ
nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Qua các thời kỳ đấu tranh với những chuyển biến cách mạng quan
trọng, Đảng ta luôn khẳng định con đường cách mạng đã vạch ra. Việc
xác định con đường phát triển đất nước là một sự nhận thức và vận dụng
sáng tạo lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam.
Việc chọn con đường phát triển của dân téc không phải do ý muốn chủ
quan, duy ý chí của Đảng mà con đường đó được xác định trên cơ sở
phân tích toàn diện, khoa học, cả về lý luận và thực tiễn, cả tình hình

16
Tiểu luân triết học
trong nước lẫn quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt
là dùa trên sự phân tích sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, về “khả
năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản” và điều kiện thực tế của Việt Nam. Trên
cơ sở đó, Đảng ta cho rằng con đường định hướng lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp
với quy luật phát triển của nước ta trong thời đại ngày nay.
Trong quá trình vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội đưa đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội thời gian qua, chóng ta đã đạt được nhiều
thành tựu nhưng cũng còn có một số tồn tại nhất định. Do đó, chúng ta
cần phải phân tích sáng tỏ những thành tựu và tồn tại đó, lấy đó làm cơ sở
cho việc thực hiện có hiệu quả công cuộc phát triển kinh tế đất nước theo

hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1. Thành tựu trong việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội vào
công cuộc đổi mới ở nước ta
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta còn
phổ biến là sản xuất nhỏ, chưa có đại công nghiệp cơ khí, lực lượng sản
xuất vừa thấp vừa không đồng đều, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, giữa kinh tế và chính trị thiếu sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự
tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế
và chính trị chưa phù hợp với quy luật phát triển của nền sản xuất xã hội.
Trước thực tế đó, Đảng ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, công nghiệp
hoá đất nước nhằm đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất và xác
lập quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Những thành tựu đã đạt được
trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc vận dụng lý luận hình thái kinh
tế-xã hội để đổi mới đất nước được thể hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định về phát triển
lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất không ngừng được đổi mới từ thấp

17
Tiểu luân triết học
đến cao, nguồn lao động được tạo ra dồi dào, đội ngò cán bộ khoa học kỹ
thuật tăng ngày càng nhanh cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu kinh tế
đang được chuyển dịch từ đơn giản, lạc hậu, trì trệ, kém hiệu quả sang cơ
cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế và ngày càng phát triển
theo hướng tiên tiến, hiện đại. Một số ngành, công trình, sản phẩm đảm
bảo cho sự phát triển chung của nền kinh tế như điện, dầu khí, xi măng,
viễn thông, v.v đã được chú trọng đầu tư và năng lực sản xuất tăng
nhanh qua từng năm. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã
từng bước được xây dựng và đang từng bước được tăng cường.
Thứ hai, chóng ta đã đạt được những kết quả nhất định trong việc giải

quyết các mối quan hệ của quan hệ sản xuất. Do nhận thức được vai trò
quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đối với quan hệ tổ chức
quản lý và phân phối trong quá trình phát triển của xã hội, chúng ta đã và
đang quan tâm giải quyết đúng đắn về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, tạo
điều kiện cho sản xuất phát triển. Với việc chủ trương phát triển đa thành
phần kinh tế để giải phóng năng lực sản xuất xã hội chắc chắn sẽ tồn tại
đa hình thức sở hữu.
Quan hệ tổ chức quản lý và phân phối cũng đã được cải tiến từng bước.
Chúng ta đã chuyển từ cơ chế quản lý tập chung quan liêu, bao cấp sang
cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của nhà nước và bước đầu đã thu
được những kết quả khả quan, nền kinh tế đang từng bước phát triển.
Hình thức phân phối theo lao động là chính, kết hợp với phân phối theo
lượng vốn tham gia của mỗi người vào quá trình sản xuất và phân phối lại
theo các chính sách xã hội hợp lý. Việc quan tâm đúng mức đến khuyến
khích lợi Ých cho người lao động đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, qua quá trình tìm tòi nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, nhất là từ khi bước vào công cuộc đổi mới, chúng ta đã
và đang giải quyết đúng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất

18
Tiểu luân triết học
và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho nền kinh tế-xã hội phát triển mạnh
mẽ. Có thể nói thành tựu nổi bật trong vận dụng lý luận hình thái kinh tế-
xã hội vào quá trình phát triển kinh tế đất nước là việc chúng ta đã đưa ra
và thực hiện được chủ trương khoán hộ trong nông nghiệp và phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này
tạo điều kiện điều chỉnh các mối quan hệ của quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp phù hợp với trình độ thực tế của lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy
sản xuất phát triển.

Thứ tư, giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nên vừa phát triển
được kinh tế, vừa giữ vững được sự ổn định chính trị, xã hội, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện quốc tế có nhiều biến động
phức tạp. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo được
tiến hành toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
nổi bật nhất là những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị.
Thực hiện thành công đổi mới ở trong lĩnh vực này có ý nghĩa góp phần
thúc đẩy việc giải quyết nhiệm vụ đổi mới trong lĩnh vực kia. Trước hết,
phải đổi mới kinh tế, khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội
nghiêm trọng của đất nước tích tụ từ những năm trước. Song muốn đổi
mới kinh tế, trước tiên Đảng và Nhà nước phải đổi mới nhận thức, đổi
mới tư duy mà trước hết là đổi mới quan niệm về mô hình và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cùng với đổi mới kinh tế, phải tiến
hành đổi mới chính trị vì chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, đổi
mới kinh tế đòi hỏi phải có những đổi mới thích ứng về chính trị, rõ nhất
là đổi mới tư duy chính trị trong việc xác định đường lối, hoạch định các
chính sách. Như vậy, đổi mới kinh tế và chính trị được tiến hành đồng
thời trong một quá trình thống nhất, không biệt lập, tách rời.
Như vậy, quá trình vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội để đổi mới
đất nước, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là:

19
Tiểu luân triết học
- Đã nhận thức đúng vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất, kiên trì
công nghiệp hoá nên đã tạo được sự phát triển của lực lượng sản xuất,
xây dựng và tăng cường cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
- Bước đầu đã giải quyết đúng các mối quan hệ của quan hệ sản xuất
mà tiêu biểu nhất là đã thực hiện được việc khoán hộ trong nông nghiệp,
tạo nên sự phát triển vượt bậc cho nền nông nghiệp nước ta trong thời

gian qua.
- Từng bước giải quyết có hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, xây dựng được một nền kinh tế nhiều
thành phần nên đã khai thác và phát huy được sức mạnh tổng hợp của
toàn xã hội làm cho nền kinh tế phát triển nhanh.
- Đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đổi mới toàn diện, đồng bộ và có
bước đi thích hợp nên đã giữ vững được ổn định về chính trị, không gây
ra sự đảo lộn xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoàn
cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp.
2. Một số tồn tại chủ yếu và những vấn đề đặt ra khi bước vào giai
đoạn phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, trong quá trình vận dụng lý luận
hình thái kinh tế-xã hội, chúng ta còn gặp phải một số những khó khăn
sau:
Thứ nhất, việc giải quyết các yếu tố của lực lượng sản xuất cũng như
những chủ trương phát triển lực lượng sản xuất không theo quy luật
khách quan mà theo ý muốn chủ quan dẫn đến làm hạn chế tốc độ và hiệu
quả của sự tăng trưởng kinh tế-xã hội.
Thứ hai, không giải quyết đúng và đồng bộ các yếu tố của quan hệ sản
xuất làm cho nền kinh tế bị gò bó, thiếu năng động, không phát triển
được.
Thứ ba, phép biện chứng khách quan của lịch sử cho thấy, một hình

20
Tiểu luân triết học
thái kinh tế-xã hội mới ra đời thay thế hình thái kinh tế-xã hội cũ không
phải bằng một sự phủ định máy móc, giản đơn mà kế thừa và phát huy tất
cả các yếu tố tích cực của hình thái trước. Thế nhưng chúng ta đã xem
kinh tế xã hội chủ nghĩa như một cái gì riêng biệt, tách khỏi tiến trình lịch

sử đó. Việc xóa bỏ kinh tế thị trường, phủ nhận kinh tế hàng hoá, vội
vàng áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao, sớm xoá bỏ chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu triệt để
trên toàn xã hội, triệt tiêu động lực hoạt động kinh tế của con người đã
đẩy sản xuất “đi quá xa”, không phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất dẫn đến kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Từ thực tế trên ta thấy, mặc dù chúng ta đã đạt được nhiều kết quả
trong việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội trong công cuộc đổi
mới đất nước nhưng vấn đề đặt ra ở đây là việc giải quyết mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị chưa thật đúng
đắn và đồng bộ. Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chúng ta
chưa tạo được sự tác động biện chứng thật mạnh mẽ giữa các yếu tố trong
lực lượng sản xuất, trong quan hệ sản xuất, giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh
tế với chính trị để đẩy nhanh quá trình phát triển. Đặc biệt, chúng ta còn
lúng túng trong việc xây dựng một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển hiện tại của lực lượng sản xuất. Nhiều chủ
trương kinh tế-xã hội còn dừng lại khá lâu trong giai đoạn khảo nghiệm,
dò tìm, chưa được cụ thể hoá nhanh chóng và triển khai kịp thời. Vì vậy,
đã làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế-xã hội, chưa tạo được
sự ổn định, nhịp nhàng với tốc độ cao trong quá trình công nghiệp hoá -
hiện đại hoá.
Chóng ta cần thấy rõ thực trạng này và cần tiếp tục đổi mới nhanh hơn
nữa, nhiều hơn nữa việc nhận thức và vận dụng phép biện chứng giữa lực

21
Tiểu luân triết học
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Có như vậy, chúng ta mới hy vọng làm cho sự nghiệp cách

mạng nhanh chóng thu được kết quả tốt đẹp.
3. Một số giải pháp cơ bản vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội
để đẩy nhanh công cuộc đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá
Lịch sử chứng minh rằng bất cứ một nước chậm phát triển nào muốn
vươn lên thành một nước phát triển đều phải trải qua quá trình có tính tất
yếu - đó là công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không chỉ là tất yếu để chúng ta phát triển thành một nước công
nghiệp mà còn là cần thiết để rút ngắn con đường đi tới chủ nghĩa xã hội,
khắc phục, bù đắp những gì còn thiếu hụt do chưa trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là con đường chung của tất cả các nước
trên thế giới. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mình, công nghiệp hoá - hiện
đại hoá ở mỗi nước bắt đầu từ những thời điểm khác nhau và với những
nội dung, bước đi, nhịp độ riêng. Dù các nước đã đạt tới trình độ phát
triển nhất định thì vẫn phải tiếp tục quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá mới có thể trở thành một nước phát triển với nền văn minh cao. Đối
với một nước nông nghiệp lạc hậu, muốn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,
không có cách nào khác là phải xây dựng một nền kinh tế có cơ cấu hợp
lý, phát triển năng động, tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và năng
suất lao động ngày càng cao. Muốn có một nền kinh tế như vậy, nhất thiết
chúng ta phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Vì Việt Nam từ điểm xuất phát rất thấp về kinh tế-xã hội đi lên chủ
nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên chúng ta chưa có
một nền tảng kinh tế-xã hội vững chắc để đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của chế độ xã hội mới. Với đặc điểm đó, muốn tạo ra cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản

22
Tiểu luân triết học

xuất, muốn nhanh chóng đuổi kịp các nước tiên tiến, chúng ta không thể
không tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện
mới của thời đại, với sự giao lưu kinh tế quốc tế, chúng ta cần phải phát
huy lợi thế của những nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã định hướng cho chiến
lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta là: “Kết hợp các bước đi
tuần tự, nhảy vọt, vừa phát triển theo chiều rộng vừa phát triển theo chiều
sâu, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định”. Đó là hướng đi đúng đắn
nhất để nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến căn bản về kinh tế-xã hội của
đất nước.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Đồng thời là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công
nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày
càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
Hiện đại hoá là quá trình hiện đại xã hội trên tất cả các lĩnh vực như
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, v.v Một xã hội
được gọi là hiện đại phải là một xã hội có nền kinh tế phát triển đạt tới
trình độ hiện đại cả về công nghệ, cơ cấu, chế độ quản lý. Cốt lõi của hiện
đại hoá kinh tế là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, phát
triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, xã
hội có nền dân chủ rộng rãi, nền văn hoá phát triển cao, an ninh, quốc
phòng vững mạnh, v.v


23
Tiểu luân triết học
Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong điều kiện thiếu thốn rất
nhiều mặt, các cân đối lớn của nền kinh tế, đặc biệt là ngân sách, đầu tư
phát triển, cán cân thương mại và thanh toán quốc tế luôn trong tình
trạng căng thẳng xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan,
thêm vào đó yêu cầu hội nhập quốc tế đang đặt ra những thách thức to
lớn, những bất cập trong bộ máy quản lý hành chính các cấp và tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên chúng ta không thể
giải quyết dàn trải tất cả. Cái thiếu lớn nhất trong công nghiệp hoá - hiện
đại hoá hiện nay là con người có tri thức và kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
công nghệ hiện đại, vốn và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đổi
mới cơ chế quản lý, vai trò của nhà nước, v.v Thực hiện tốt sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá chính là quá trình giải quyết các vấn đề
đó. Xuất phát từ yêu cầu và nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá
và thực tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay, một số giải pháp cơ bản
trong việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội đã được đưa ra dưới
đây nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất phát huy tác dụng tốt để đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Muốn vậy, cần phải chủ động thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất, làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển
hệ thống quan hệ sản xuất. Mặt khác, phải tích cực đổi mới các nội dung
của quan hệ sản xuất, xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp, tạo
phương thức kết hợp tốt nhất các yếu tố của lực lượng sản xuất với nhau,
phát huy cao hiệu quả kinh tế của từng yếu tố, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Thứ hai, vận dụng sáng tạo phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến

trúc thượng tầng, giữa kinh tế với chính trị trong quá trình đẩy mạnh công

24
Tiểu luân triết học
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Kinh tế và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Do vậy, muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá
thành công, chúng ta còn phải vận dụng sáng tạo phép biện chứng giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công. Để sử dụng phép biện chứng này,
chúng ta cần phải giải quyết nó trên ba phương diện sau:
- Xác định đúng trình tự của sự đổi mới giữa kinh tế và chính trị.
- Phát huy đúng vai trò của từng yếu tố trong quá trình đổi mới.
- Xác định đúng nội dung cần đổi mới đối với từng yếu tố.
Thứ ba, đổi mới việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
hiện có. Việc sử dụng lao động xã hội phải trên cơ sở phân công lao động
hợp lý giữa các ngành và các vùng, tạo việc làm, sử dụng có hiệu quả
tiềm năng lao động xã hội, chuyển biến cơ cấu lao động xã hội theo
hướng tăng dần lao động trong công nghiệp, xây dựng cơ bản về dịch vụ,
giảm dần lao động trong nông nghiệp. Trong sử dụng lao động, trước hết
cần phải quan tâm đến lợi Ých của người lao động, cần có chế độ đãi ngộ
người lao động một cách thoả đáng. Sự kích thích vật chất hợp lý, cân đối
hài hoà giữa cá nhân, tập thể và nhà nước đã trở thành nhu cầu, động lực
khách quan. Muốn chuyển giao công nghệ có hiệu quả, chúng ta cần phát
huy nhân tố con người để có thể tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, cải
tiến công nghệ nhập để phù hợp với điều kiện Việt Nam, tiến tới từng
bước tạo công nghệ mới của mình. Thực tế ở Việt Nam vừa qua, lực
lượng cán bộ quản lý công nghệ chủ yếu được đào tạo tại các nước
XHCN trước đây và việc đào tạo lại còn hạn chế. Để khắc phục tình trạng
này về cán bộ, một mặt cần sử dụng tối đa đội ngò cán bộ hiện có. Mặt

khác, thông qua nhiều hình thức về khoa học, công nghệ với nước ngoài
và các tổ chức quốc tế, tạo cho các chuyên gia Việt Nam có nhiều cơ hội
tiếp xúc, tìm hiểu và học hỏi để bổ sung, nâng cao trình độ kiến thức

25

×