TÓM TẮT
“ Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
lý thuyết nghề may thời trang tại trường trung cấp nghề Quang Trung”
Chương 1:
Chương 2:
Chương 3:
ABSTRACT
“Buiding the test question bank for vocational fashion garment theory at Quang
Trung Technical College”
Chapter 1:
Chapter 2:
Chapter 3:
MỤC LỤC
PHẦN A: MỞ ĐẦ
PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỂ XÂY DỰNG NGÂN HÀNG
CHTN KHÁCH QUAN LTN MAY THỜI TRANG TẠI TRƯỜNG TCN
QUANG TRUNG
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG NGÂN HÀNG CHTN KHÁCH QUAN LTN
NGHỀ MAY THỜI TRANG
PHẦN C: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU VIẾT ĐẦY ĐỦ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ - HÌNH ẢNH – SƠ ĐỒ
1
PHẦN A: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Những năm gần đây, việc đổi mới công tác giáo dục diễn ra rất sôi động trên
thế giới và ở nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước đòi hỏi
ngành giáo dục và đào tạo cần phải có những đổi mới thực sự để có thể thực hiện
được nhiệm vụ của mình trong tiến trình đi lên của xã hội. Tại đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ IX và các nghị quyết trung ương của Đảng đã có những khẳng
định rõ ràng về vấn đề mà giáo dục, phải chăm lo: "Đổi mới phương pháp dạy học ở
tất cả các cấp bậc học, áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề ", nhiệm
vụ của sự nghiệp giáo dục đào tạo là phải góp phần quyết định vào việc bồi dưỡng
cho thế hệ trẻ tiềm năng trí tuệ, năng lực tự tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải
quyết vấn đề để thích ứng được với thực tiễn công việc và cuộc sống hiện tại.
Muốn đổi mới phương pháp dạy học, trước hết cần phải cải tiến và đổi mới
hệ thống cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh đã, đang và luôn
là vấn đề mang tính cấp thiết. Kiểm tra đánh giá là một hoạt động thường xuyên,
giữ một vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng đào tạo. Trong dạy học,
kiểm tra đánh giá tốt sẽ phản ánh đầy đủ việc dạy của thầy và việc học của trò,
người dạy hoàn thiện quá trình dạy, người học tự đánh giá lại bản thân, các nhà
quản lý có cái nhìn khách quan hơn về chương trình cách tổ chức đào tạo. Cụ thể là
đối với thầy, kết quả của việc kiểm tra đánh giá sẽ giúp họ biết trò của mình học
như thế nào để từ đó hoàn thiện phương pháp dạy học của mình. Đối với trò, việc
kiểm tra sẽ giúp họ tự đánh giá, tạo động lực thúc đẩy họ chăm lo học tập tốt hơn.
Đối với các nhà quản lý giáo dục, kiểm tra đánh giá đúng sẽ giúp họ có cái nhìn
khách quan hơn để từ đó có sự điều chỉnh về nội dung chương trình cũng như về
cách thức tổ chức đào tạo tại trường. Câu hỏi được đặt ra hiện nay là làm thế nào để
kiểm tra đánh giá được tốt, đây là một trong những vấn đề mang tính thời sự, thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực giáo dục.
2
Trong mấy năm gần đây, khi nhà nước chủ trương sử dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan vào một số kỳ thi quốc gia quan trọng và sử dụng một phần ở
các bậc học, ngày càng có nhiều người, đặc biệt là các nhà giáo quan tâm đến
phương pháp này. Phương pháp trắc nghiệm khách quan là một trong những dạng
trắc nghiệm viết thường được gọi tắt là trắc nghiệm, kỹ thuật trắc nghiệm này được
dùng phổ biến để đo lường năng lực của con người trong nhận thức, hoạt động và
cảm xúc, được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực như y học, tâm lý học, giáo dục
học,.… ở nhiều nước trên thế giới. Phương pháp này cho phép xử lí kết quả theo
nhiều chiều với từng học sinh cũng như tổng thể cả lớp học hoặc một trường học.
Từ thực tế giảng dạy tại đơn vị và nhận thức được tầm quan trọng của hình
thức kiểm tra đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan cho các môn lý thuyết chuyên
ngành May thời trang, tác giả đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Xây dựng ngân
hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan lý thuyết nghề May thời trang tại trường trung
cấp nghề Quang Trung”, với mong muốn góp phần tăng thêm hình thức kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh, định hướng quá trình giảng dạy của giáo viên
từ đó góp phần nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá tại trường trung cấp nghề
Quang Trung.
2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan thi tốt nghiệp lý thuyết
nghề May thời trang tại trường trung cấp nghề Quang Trung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
- Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu cơ sở thực tiễn để xây dựng ngân hàng CHTN khách
quan LTN May thời trang
- Nhiệm vụ 3: Tiến hành xây dựng ngân hàng CHTN khách quan LTN May
thời trang.
- Nhiệm vụ 4: Thử nghiệm, phân tích và điều chỉnh các câu hỏi trong ngân hàng
CHTN khách quan LTN May thời trang.
3. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan LTN May thời trang tại trường
trung cấp nghề Quang Trung.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
- Chương trình đào tạo TCN May thời trang, đề cương chi tiết ôn thi tốt
nghiệp LTN May thời trang trường TCN Quang Trung.
- Học sinh đang học nghề May thời trang trường TCN Quang Trung và giáo
viên tham gia giảng dạy các môn học/ mô đun trong chương trình đào tạo nghề May
thời trang.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Nếu xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm một cách khoa học và áp dụng
ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan lý thuyết nghề May thời trang vào thi tốt
nghiệp tại trường trung cấp nghề Quang Trung thì sẽ góp phần tăng thêm hình thức
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, định hướng quá trình giảng dạy của
giáo viên.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các văn bản, tài liệu về trắc nghiệm, xây dựng ngân hàng câu hỏi
về trắc nghiệm để từ đó phân tích, tổng hợp làm cơ sở lý luận cho đề tài.
5.2. Phương pháp khảo sát, điều tra:
Thu thập thông tin, đánh giá về thực trạng việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh trường TCN Quang Trung và nhu cầu cần thiết để xây dựng ngân
hàng câu hỏi trắc nghiệm lý thuyết nghề.
5.3. Phương pháp chuyên gia:
Lấy ý kiến, thông tin phản hồi của các giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy
nghề May thời trang và các chuyên gia trong lĩnh vực trắc nghiệm.
5.4. Phương pháp thử nghiệm:
4
Biên soạn một số đề thi có nội dung được lấy từ ngân hàng câu hỏi trắc
nghiệm, đưa ra thử nghiệm ở một số lớp, từ đó tiến hành phân tích đánh giá tính khả
thi của ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm.
5.6. Phương pháp thống kê toán học:
Xử lý số liệu thu thập được từ kết quả thử nghiệm để phân tích và có những
điều chỉnh hợp lý trong ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Vì thời gian cho phép thực hiện đề tài có hạn, người nghiên cứu chưa có kinh
nghiệm trong việc soạn thảo ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm và do đặc thù của môn
thi tốt nghiệp lý thuyết nghề nên người nghiên cứu chỉ tập trung xây dựng và biên
soạn ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm (dạng thô) dựa vào phân tích nội dung của đề
cương ôn thi tốt nghiệp lý thuyết nghề May thời trang tại trường trung cấp nghề
Quang Trung.
5
PHẦN B: NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Vài nét về lịch sử ứng dụng trắc nghiệm khách quan:
1.1.1. Trên thế giới:
Các phương pháp trắc nghiệm đo lường thành quả học tập đầu tiên được tiến
hành vào thế kỷ XVII - XVIII tại Châu Âu. Sang thế kỉ XIX đầu thể kỉ XX, các
phương pháp trắc nghiệm đo lường thành quả học tập đã được chú ý. Năm 1904,
nhà tâm lí học người Pháp - Alfred Binet trong quá trình nghiên cứu trẻ em mắc
bệnh tâm thần, đã xây dựng một số bài trắc nghiệm về trí thông minh. Năm 1916,
Lewis Terman đã dịch và soạn các bài trắc nghiệm này ra tiếng Anh từ đó trắc
nghiệm trí thông minh được gọi là trắc nghiệm Stanford - Binet.
Vào đầu thế kỷ XX, E. Thorm Dike là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm
khách quan như là phương pháp "khách quan và nhanh chóng" để đo trình độ học
sinh, bắt đầu dùng với môn số học và sau đó là một số môn khác.
Những mốc quan trọng trong quá trình phát triển khoa học đo lường đánh
giá, nhất là trắc nghiệm khách quan, như Trắc nghiệm trí tuệ Simon - Binet được
xây dựng bởi hai nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet và Theodore Simon vào
khoảng năm 1905, tiếp đến được cải tiến tại Đại học Standford tại Mỹ bởi Lewis
Terman năm 1916, sau đó được cải tiến liên tục và được sử dụng ngày nay với tên
gọi là Trắc nghiệm trí tuệ IQ (Intelligence Quotient). Bộ trắc nghiệm thành quả học
tập đầu tiên Standford Achievement Test ra đời vào năm 1923 ở Mỹ.
Hiện nay trên thế giới, trong các kì kiểm tra, thi tuyển một số môn đã sử
dụng trắc nghiệm khá phổ biến. Có thể kể ra một số tổ chức và kỳ thi trắc nghiệm
phổ biến như: “Dịch vụ trắc nghiệm giáo dục” (Educational Testing Services –
ETS) là một tập đoàn tư nhân sản xuất các đề thi và tổ chức các kỳ thi trắc nghiệm
tiêu chuẩn hóa lớn nhất Hoa Kỳ. Trong số các kỳ thi trắc nghiệm nổi tiếng của công
ty này có thể kể đến: Trắc nghiệm Đánh giá Học vấn (Scholastic Assesment Test –
6
SAT) để phục vụ kỳ thi tuyển sinh đại học; các kỳ thi Ghi nhận sau đại học
(Graduate Record Examination – GRE) bao gồm đề thi đại cương và các đề thi theo
một số môn học xác định; Trắc nghiệm tuyển sinh Sau đại học ngành Quản lý
(Graduate Management Admission Test – GMAT) hỗ trợ tuyển sinh sau đại học vào
các ngành quản trị kinh doanh; Trắc nghiệm Ngoại ngữ tiếng Anh (Test of English
as a Foreign Language – TOEFL).
1.1.2. Ở Việt Nam:
Trắc nghiệm đã được đề cập đến vào thập niên 50 của thế kỷ XX, kiến thức
về trắc nghiệm được thu thập qua các tài liệu giáo dục học và tâm lý học chủ yếu
của Liên Xô.
Năm 1964, tại miền Nam Việt Nam, đã thành lập một cơ quan đặc trách về
trắc nghiệm có tên là “Trung tâm trắc nghiệm và hướng dẫn”, là cơ quan phổ biến
tài liệu hướng dẫn về trắc nghiệm. Năm học 1965 – 1966, kỳ thi trung học đệ nhất
cấp, các môn Sử, Địa, Công dân được thi dưới hình thức trắc nghiệm. Năm học
1973 - 1974, tất cả các môn học trong kỳ thi tú tài đều thi trắc nghiệm. Tuy vậy, tài
liệu hướng dẫn giáo viên biên soạn trắc nghiệm vẫn còn ít phổ biến.
Năm 1971, ở miền Bắc, tạp chí nghiên cứu giáo dục mới có bài giới thiệu về
trắc nghiệm khách quan. Từ năm 1975 đến năm 1993, hình thức trắc nghiệm được
áp dụng trong kiểm tra thành tích học tập của học sinh nhưng không phổ biến rộng
rãi, thường chỉ áp dụng cho các môn học ngoại ngữ.
Từ đầu năm 1994, khi Bộ Giáo dục – Đào tạo có những hoạt động cụ thể như
tập huấn về trắc nghiệm, khuyến khích sử dụng phương pháp trắc nghiệm thì tại
nhiều trường đại học đã sử dụng trắc nghiệm thành tích học tập cho các môn thi,
kiểm tra đánh giá.
Sau khi triển khai kỳ thi tuyển sinh đại học bằng giải pháp “3 chung”, Bộ
Giáo dục – Đào tạo đã chủ trương từng bước đưa phương pháp trắc nghiệm khách
quan vào kỳ thi tuyển sinh đại học và kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Bắt đầu
từ năm học 2006 - 2007, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã sử dụng đề thi theo hình thức
trắc nghiệm cho một số môn trong các kỳ thi tuyển sinh đại học và kỳ thi tốt nghiệp
7
trung học phổ thông. Ngoài ra, các trường đại học đã đưa vào hình thức kiểm tra
trắc nghiệm kết thúc học phần cũng như kỳ thi đầu ra cho một số môn học.
1.2. Tổng quan về ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan:
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản:
1.2.1.1. Kiểm tra đánh giá:
Theo từ điển Giáo dục học (2001): “Kiểm tra là bộ phận hợp thành của quá
trình hoạt động dạy – học nhằm nắm được thông tin về trạng thái và kết quả học tập
của học sinh, về những nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó để tìm ra những biện
pháp khắc phục những lỗ hổng, đồng thời củng cố và tiếp tục nâng cao hiệu quả của
hoạt động dạy – học” [10]
“ Đánh giá là xác định mức độ nắm được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học
sinh so với yêu cầu của chương trình đề ra”
Theo từ điển Tiếng Việt (1998): “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét” [17]
Theo GS. Trần Bá Hoành: “Đánh giá là quá trình hình thành những nhận
định, phán đoán về kết quả của công việc dựa vào việc phân tích những thông tin
thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những
quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và
hiệu quả công việc” [8]
Tóm lại: Kiểm tra - đánh giá có mối quan hệ biện chứng khăng khít với
nhau. Kiểm tra là phương tiện của đánh giá, đánh giá là mục đích của kiểm tra. Mục
đích đánh giá sẽ quyết định nội dung và hình thức kiểm tra, không thể đánh giá mà
không dựa vào kiểm tra. Kiểm tra phải gắn liền với đánh giá vì kiểm tra mà không
đánh giá thì việc kiểm tra đó không có tác dụng và hiệu quả. Ngược lại, đánh giá mà
không dựa vào kiểm tra thì mang tính ngẫu nhiên, tính chủ quan. Điều này sẽ gây
nên những hậu quả xấu, tiêu cực trong tâm lý học sinh cũng như làm giảm chất
lượng, hiệu quả dạy - học của thầy và trò.
1.2.1.2. Trắc nghiệm:
8
Trắc nghiệm dịch ra từ tiếng Anh nghĩa là “thử”, “phép thử”, “sát hạch”.
Theo nghĩa chữ Hán, “trắc” có nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” là “suy xét, chứng
thực”. Có khá nhiều định nghĩa về trắc nghiệm của các nhà Tâm lý học và Giáo dục
học, như:
- Theo GS. Dương Thiệu Tống: “Trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương
thức hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lời cho câu hỏi: thành
tích của các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh với
một lĩnh vực các nhiệm vụ dự kiến” [20, trang 364]
- Theo GS. Lâm Quang Thiệp: “Trắc nghiệm là một phép đo, dùng thước đo
là đề trắc nghiệm để đo một năng lực nào đó của thí sinh. Phép đo nào cũng có
mục tiêu của nó, đo cái gì? Muốn một đề trắc nghiệm đo được cái cần đo, tức là đo
được mức độ đạt được các mục tiêu cụ thể của môn học, cần chế tác các câu hỏi
trắc nghiệm và thiết kế các đề trắc nghiệm bám sát mục tiêu của môn học” [19,
trang 42]
- Theo PGS. Trần Khánh Đức: “Trắc nghiệm là một phép thử (kiểm tra) để
nhận dạng, xác định, thu nhận những thông tin phản hồi về những khả năng, thuộc
tính, đặc tính, tính chất của một sự vật hay hiện tượng nào đó. Trắc nghiệm trong
giảng dạy cũng là một phép thử (một phương pháp kiểm tra – đánh giá) nhằm đánh
giá trình độ, năng lực cũng như kết quả học tập của người học trước, trong quá
trình và khi kết thúc một giai đoạn học tập nhất định” [8, trang 296]
Tóm lại: Từ các định nghĩa trên, cho thấy “trắc nghiệm” là một công cụ
được sử dụng để đo lường thành tích đạt được của cá nhân ở một lĩnh vực học tập
cụ thể. Trong lĩnh vực giáo dục thì trắc nghiệm được sử dụng để đánh giá kết quả
học tập hay năng lực của học sinh sau một môn học hay một khóa học.
1.2.1.3. Trắc nghiệm khách quan:
Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan, bao gồm các câu hỏi
hoặc bài tập với những phương án trả lời khác nhau, yêu cầu học sinh suy nghĩ lựa
chọn một trong những phương án đó rồi dùng ký hiệu đơn giản đã qui ước để trả
9
lời. Gọi là TNKQ vì ở trắc nghiệm này học sinh không thể đưa ý kiến chủ quan của
mình vào làm phương án trả lời, mà chỉ được phép chọn một trong những phương
án đã được cài đặt sẵn một cách khách quan làm phương án trả lời của mình và
cách cho điểm (đánh giá) hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm.
1.2.1.4. Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm:
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan không những là công cụ đo
lường nhằm đánh giá khách quan thành quả học tập của học sinh, mà còn đóng vai
trò hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập.
Theo GS. Lâm Quang Thiệp: “Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm là tập hợp một
số lượng tương đối lớn các câu hỏi trắc nghiệm. Trong đó, mỗi câu hỏi đã được
định cỡ, tức là được gắn với các phần nội dung xác định và tham số xác định (độ
khó, độ phân biệt)” [19, trang 44]
Tóm lại: Ngân hàng CHTN khách quan là một hệ thống các câu hỏi trắc
nghiệm và đáp án được soạn thảo cẩn thận, đúng kỹ thuật. Các CHTN này đã được
mã hóa theo chương, mục cũng như mức độ nhận thức cần kiểm tra đánh giá. Góp
phần đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS và quản lý
chất lượng đào tạo hiện nay.
1.2.2. So sánh phương pháp trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận:
Trong lĩnh vực giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành ở các kỳ thi, kiểm tra để
đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với một phần của môn học, toàn bộ môn
học, đối với cả một cấp học. Tùy theo nhu cầu, mục tiêu khảo sát, kiểm tra đánh giá
mà sử dụng phương pháp TN khách quan hay TN tự luận, cả hai này đều là những
phương pháp hữu hiệu để đánh giá kết quả học tập. Theo ý kiến của các chuyên gia
về trắc nghiệm cho rằng: [19, trang 36]
- Đối với phương pháp TN khách quan nên dùng trong trường hợp:
+ Khi số thí sinh rất đông.
+ Khi muốn chấm bài nhanh.
+ Khi muốn có điểm số đáng tin cậy, không phụ thuộc vào người chấm bài.
+ Khi phải coi trọng yếu tố công bằng, vô tư, chính xác và muốn ngăn chặn
10
sự gian lận trong thi cử.
+ Khi muốn kiểm tra một phạm vi hiểu biết rộng, muốn ngăn ngừa nạn học
tủ, học vẹt và giảm thiểu sự may rủi.
- Đối với phương pháp TN tự luận nên dùng trong trường hợp:
+ Khi thí sinh không quá đông.
+ Khi muốn khuyến khích và đánh giá cách diễn đạt.
+ Khi muốn tìm hiểu ý tưởng của thí sinh hơn là đánh giá thành tích học tập.
+ Khi có thể tin tưởng khả năng chấm bài tự luận của giáo viên là chính xác.
+ Khi không có nhiều thời gian để soạn đủ đề nhưng có đủ thời gian để chấm
bài.
Mỗi phương pháp đều có những đặc thù riêng, chúng ta có thể xem sự khác
biệt giữa TN khách quan và tự luận ở bảng 1.1 (tham khảo của GS. Lâm Quang
Thiệp, Trắc nghiệm và ứng dụng, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Hà Nội, 2008)
Bảng 1.1: So sánh ưu thế của trắc nghiệm khách quan và tự luận
Tiêu chuẩn so sánh
Ưu thế thuộc về phương pháp
Trắc nghiệm Tự luận
Ít tốn công ra đề thi
Đánh giá được khả năng diễn đạt, đặc biệt là di
ễn
đạt được tư duy hình tượng
Thuận tiện cho việc đo lường các tư duy sáng tạo
Đề thi phủ kín nội dung môn học
Ít may rủi do trúng tủ, trật tủ
Ít tốn công chấm thi
Khách quan trong chấm thi, hạn chế tiêu c
ực trong
chấm thi
Giữ bí mật đề thi, hạn chế quay cóp khi thi
Có tính định lượng cao, áp dụng đư
ợc công nghệ
đo lư
ờng trong việc phân tích, xử lý để nâng cao
chất lượng các câu hỏi và đề thi
11
Cung cấp số liệu chính xác và
ổn định để sử dụng
cho các đánh giá so sánh trong giáo dục
Tóm lại: Từ bảng 1.1, ta đã thấy được ưu điểm nổi bật của TN khách quan
so với TN tự luận. Đối với TN tự luận, kết quả chấm thi phụ thuộc rất nhiều vào ý
kiến chủ quan của người chấm, nên rất khó công bằng chính xác. Với loại TN
khách quan, khi đã có sẵn đáp án, việc chấm bài là hoàn toàn khách quan, chính
xác, không phụ thuộc người chấm, nhất là hiện nay chấm bài thi TNKQ đã được
thực hiện thông qua máy vi tính, đây là một ưu điểm lớn của phương pháp TN
khách quan.
1.2.3. Mục đích sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm:
Ngân hàng CHTN khách quan không những là công cụ đo lường nhằm đánh
giá thành quả học tập của học sinh, mà còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình giảng dạy và học tập.
1.2.3.1. Sử dụng trong giảng dạy: [15, trang 123]
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm của một môn học hay của một chương trình
học bao hàm toàn bộ lĩnh vực kiến thức mà học sinh cần phải biết (thuộc môn học
hay thuộc một chương trình học nào đó). Do vậy, cùng với nội dung chương trình
và các tài liệu, giáo trình, GV sử dụng bộ ngân hàng CHTN để xác định các mục
tiêu và nội dung học tập một cách hiệu quả. Trên cơ sở đó, GV sẽ lựa chọn các
phương pháp dạy học phù hợp với từng mục tiêu và nội dung học tập đã xác định.
Vậy nên, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm có tác dụng định hướng quá trình dạy học.
Trong quá trình dạy học, GV thường phải kiểm tra, đánh giá học sinh để biết
học sinh đạt đến trình độ nào, tiến bộ như thế nào. Sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc
nghiệm để kiểm tra, đánh giá giúp cho công việc chấm bài của GV trở nên đơn giản,
nhanh chóng, chính xác và đặc biệt là tính thống nhất rất cao.
Cũng thông qua kết quả trắc nghiệm, các GV sẽ biết nội dung học tập nào
được giảng dạy chưa đạt yêu cầu để nghiên cứu thay đổi hoặc điều chỉnh các
phương pháp dạy học hiệu quả.
12
Thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người
học, bộ ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm đã được GV sử dụng như là tài liệu học tập
nhằm định hướng quá trình học tập và giúp cho HS tự thu thập kiến thức khi tìm lời
giải cho các câu hỏi.
1.2.3.2. Sử dụng trong học tập: [15, trang 123]
Bộ ngân hàng CHTN của một môn học hay của một chương trình học bao
hàm toàn bộ lĩnh vực kiến thức mà HS cần phải biết (thuộc môn học hay thuộc một
chương trình học nào đó). Vì thế nó mang tính định hướng quá trình học tập của HS
đến những mục tiêu mong đợi.
Ngân hàng CHTN khuyến khích HS trong quá trình tự học, HS có thể chủ
động tìm kiếm các tài liệu hoặc tham khảo ý kiến với người khác để thu thập kiến
thức, tự kiểm tra kiến thức của mình.
Hiện nay, sử dụng ngân hàng CHTN để làm tài liệu học tập cho HS đã được
áp dụng ở nhiều cấp học. Căn cứ vào ngân hàng CHTN, học sinh có thể lập kế
hoạch học tập cho riêng mình nhằm đạt được các mục tiêu mong đợi.
1.2.3.3. Sử dụng để kiểm tra, đánh giá: [15, trang 123]
Việc sử dụng ngân hàng CHTN khách quan để đánh giá kết quả học tập của
HS đã và đang được áp dụng rộng rãi trong các kỳ thi tốt nghiệp, kết thúc môn học,
kết thúc học kỳ và trong các kỳ thi tuyển sinh. Ngân hàng CHTN được sử dụng
nhằm mục đích:
- Ra đề thi/ đề kiểm tra để đánh giá một cách khách quan, chính xác mức độ
tiếp thu kiến thức trong môn học/ mô đun theo năng lực nhận định của HS.
- Kết quả trắc nghiệm giúp nhà trường đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và chất lượng giảng dạy của GV.
- Kết quả trắc nghiệm giúp nhà trường và GV có cơ sở để chứng tỏ với các
trường khác, các cơ quan và các nhà sử dụng lao động về trình độ và khả năng của
HS đã được đào tạo.
- Giảm thiểu được những tiêu cực trong quá trình tổ chức thi cử nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả cho hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS.
13
Tóm lại: việc sử dụng ngân hàng CHTN khách quan trong quá trình giáo dục
đào tạo đã mang lại những lợi ích to lớn cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả
cho hoạt động KTĐG kết quả học tập của HS, định hướng quá trình giảng dạy của
GV và quá trình học tập của HS để từ đó nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà
trường.
1.2.4. Phương pháp biên soạn câu trắc nghiệm khách quan:
Hiện nay, phương pháp trắc nghiệm khách quan được sử dụng rất rộng rãi,
có rất nhiều tài liệu viết đề cập một cách kỹ lưỡng về hình thức, cấu trúc, nguyên
tắc soạn thảo, ưu và nhược điểm các câu hỏi TNKQ. Các câu hỏi trắc nghiệm có thể
được đặt nhiều hình thức khác nhau, quan trọng đối với người soạn thảo là biết công
dụng của mỗi loại để lựa chọn loại câu trắc nghiệm thích hợp nhất cho việc khảo sát
khả năng hay kiến thức mà dự định đo lường đánh giá. Sau đây, người nghiên cứu
chỉ đề cập ở góc độ tổng hợp những đặc điểm cơ bản và giới thiệu bốn loại câu hỏi
trắc nghiệm thường được sử dụng nhiều nhất trong kiểm tra đánh giá: (1) loại câu
hỏi trắc nghiệm đúng/ sai; (2) loại câu hỏi trắc nghiệm có nhiều lựa chọn; (3) loại
câu hỏi trắc nghiệm ghép hợp; (4) loại câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết.
1.2.4.1. Loại câu trắc nghiệm đúng - sai: [22, trang 30]
• Cấu trúc: được trình bày dưới dạng một câu phát biểu và học sinh trả lời
bằng cách lựa chọn đúng hoặc sai, gồm có 2 dạng:
- Dạng có thân chung
: Câu hỏi gồm một phần thân chung và các ý trả lời.
Học sinh phải xem xét các ý trả lời, so sánh với nội dung của phần thân chung để
xác định câu nào là đúng, câu nào là sai.
Phần thân chung: có thể là một cụm từ hoặc một vấn đề mang tính lý thuyết.
Câu trả lời: thường có 5 câu hoặc nhiều hơn, những câu trả lời này có thể
đúng, cũng có thể sai. Câu trả lời thường là những ý có liên quan trực tiếp giúp làm
rõ phần thân chung.
- Dạng không có thân chung
: được viết dưới dạng một câu hoàn chỉnh,
thường là câu có tính khẳng định. Người trả lời lựa chọn đáp án phù hợp với câu hỏi
được nêu ra.
14
Những yêu cầu khi biên soạn:
- Trong một câu chỉ có một vấn đề trọng tâm hoặc một ý trọng tâm, không
thể xuất hiện hai ý (phán đoán) hoặc nửa câu đúng, nửa câu sai.
- Không chép nguyên văn những câu hỏi từ sách giáo khoa hoặc giáo trình,
vì làm như vậy chỉ khuyến khích học thuộc lòng một cách máy móc.
- Lựa chọn những câu phát biểu sao cho một người có khả năng trung bình
không thể nhận ra ngay là đúng hay sai mà không cần phải suy nghĩ.
- Nội dụng câu đúng hoặc sai phải chắc chắn dựa trên cơ sở khoa học, không
phụ thuộc vào quan điểm riêng của mỗi người. Tránh dùng những câu phủ định,
nhất là phủ định kép.
- Tránh sử dụng các từ ngữ có tính giới hạn đặc thù mang tính ám thị. Khi ý
của đề là chính xác thì nên tránh dùng những từ “nói chung”, “thường thường”,
“thông thường”, “rất ít khi”, “có khi”, “một vài”, “có thể” để tránh cho đối tượng
tham gia dựa vào những từ này đưa ra đáp án “đúng” từ đó đoán đúng câu trắc
nghiệm.
- Trong bài trắc nghiệm, số lượng câu đúng tương đương với số lượng câu
sai để giữ kết quả đồng đều khi học sinh đoán mò. Thứ tự câu đúng và câu sai được
sắp xếp một cách ngẫu nhiên, không theo một quy luật nào.
• Cách cho điểm: mỗi câu đúng với đáp án, học sinh được 1 điểm. Tuy nhiên,
đây là dạng câu hỏi chỉ có 2 lựa chọn, nên áp dụng hệ số phạt (điểm trừ cho câu hỏi
sai) để tránh trường hợp học sinh đoán mò khi trả lời.
• Ưu điểm:
- Trắc nghiệm đúng/ sai được dùng nhiều vì hình thức đơn giản có thể soạn
được nhiều câu trắc nghiệm cho từng bài học, khảo sát bất kỳ nội dung nào HS
không thể học tủ được.
- Biên soạn câu hỏi dễ dàng vì người soạn không cần tìm ra nhiều câu phát
biểu khác nữa để học sinh so sánh và lựa chọn.
- Học sinh không phải viết câu trả lời nên kết quả hoàn toàn đúng so với đáp
án, giáo viên cho điểm rất dễ và rất thống nhất.
15
• Nhược điểm:
- Nhược điểm lớn nhất của loại câu hỏi trắc nghiệm đúng/ sai là người trả lời
có thể “đoán mò” mà vẫn có khả năng đúng 50% cho mỗi câu trắc nghiệm. Chính
nhược điểm này, làm cho khả năng phân biệt học sinh giỏi và học sinh kém rất thấp.
Ví dụ minh họa:
- Ví dụ về dạng có thân chung
: Hãy đánh dấu (x) vào cột Đ (đúng) hoặc cột
S (sai) phù hợp trong các ý sau đây:
Phân loại theo nguồn gốc xơ thiên nhiên gồm có: Đ S
A. Xơ thực vật Đ S
B. Xơ tổng hợp Đ S
C. Xơ động vật Đ S
D. Xơ khoáng Đ S
E. Xơ nhân tạo Đ S
- Ví dụ về dạng không có thân chung
: Hãy khoanh tròn vào chữ Đ (đúng)
hoặc chữ S (sai) vào các câu thích hợp sau đây:
STT
Nội dung câu hỏi Đúng
Sai
1
Vải là sản phẩm thu được trên
máy dệt hoặc bằng các phương
pháp liên kết xơ, sợi tạo thành
Đ S
2
Hướng thiên canh (canh xéo) của
vải bằng góc 75
o
so với biên vải
Đ S
3
Việc liên kết các chi tiết trong
trang phục được thực hiện bằng 3
phương pháp cơ bản: chỉ khâu,
keo dán, hàn.
Đ S
1.2.4.2. Loại câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn: [20, trang 71]
Đây là loại câu TNKQ được sử dụng nhiều nhất, dùng để đánh giá mức độ