A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Tính thời sự của đề tài
Hiện nay chất lượng giáo dục đang trở thành mối quan tâm chung của
toàn xã hội. Ngành giáo dục đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết để nâng cao
chất lượng của giáo dục hơn bao giờ hết trong tất cả những ngành học và bậc
học. Chính vì thế toàn ngành phải có trách nhiệm để nâng cao chất lượng của
giáo dục.
Đối với chương trình THPT nói chung và bộ môn Hoá Học nói riêng
hiện nay, với nội dung phong phú và sâu sắc nếu không dạy cho học sinh
phương pháp tư duy khoa học, phương pháp học tập bộ môn mà chỉ trọng
tâm truyền đạt tri thức, thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụ phát
triển trí tuệ của học sinh mà còn ảnh hưởng nhiều tới quá trình hình thành
nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thiết lập hệ
thống các phương pháp tạo thành một mối liên hệ chặt chẽ để vận dụng
giảng dạy bộ môn hoá học, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo chất lượng
cho quá trình dạy học đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay
Một trong những nội dung đổi mới việc kiểm tra đánh giá đo lường
chất lượng nhận thức của học sinh, một vấn đề được coi là quan trọng trong
quá trình dạy học. Lý luận dạy học đã khẳng định. Kiểm tra đánh giá trình độ
nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh là một khâu đặc biệt quan trọng
trong dạy học nói chung và trong quá trình nhận thức của từng học sinh nói
riêng, nhằm đảm bảo được mối liên hệ ngược làm khép kín chu trình vận
động của quá trình dạy học, là khép kín các thông tin, thông báo và các
thông tin phản hồi. Từ những vấn đề đòi hỏi mới trên giáo viên phải biết lựa
chọn phương pháp – phương tiện kiểm tra đánh giá sao cho phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với nội dung chương trình, phù hợp
với nền giáo dục hiện đại
Có thể nói việc kiểm tra đánh giá là bộ phận không thể thiếu của quá
trình dạy học. Việc kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo,
phát hiện những sai sót, những lỗ hổng về kiến thức … từ đó giúp giáo viên
và học sinh tự điều chỉnh hoạt động dạy học và hoạt động học tập. Qua việc
kiểm tra đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ như:
Ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá … đó là cách nhận định cách đánh giá công
khai và kết quả học tập của mỗi học sinh
Theo cách thức thực hiện hệ thống các câu hỏi của quá trình dạy học, lý
luận giáo dục xem xét kiểm tra và đánh giá như là một nhóm phương pháp
dạy học. Từ xưa tới nay kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức của học sinh
phổ thông và thông thường sử dụng 2 hình thức thi chủ yếu là: thi viết và thi
vấn đáp
Hai hình thức này chưa kiểm tra, đánh giá đầy đủ kiến thức đã học của
học sinh một cách nhanh gọn, toàn diện và khách quan. Thi viết và thi vấn
đáp, phạm vi đề ra còn hạn chế về kiến thức nhất là đối với thi học kỳ hoặc
kỳ thi tốt nghiệp thì nội dung đề ra không thâu tóm không bao quát hết
chương trình môn học và không đánh giá được toàn chương trình của học
sinh. Mặt khác, hai hình thức thi này còn hạn chế về tính khách quan. Hơn
nữa giáo viên thường huy động kiến thức của một bài hoặc một chương để ra
đề thi, dễ dẫn đến học sinh học tủ, quay cóp học lệch
Khắc phục tình trạng trên, phương châm của giáo dục hiện nay là thi
kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh, phải tiến hành một cách nhanh gọn
đồng thời phải tổng hợp được kiến thức của người học, rút ngắn được thời
gian chấm bài.
Vì vậy, đòi hỏi hình thức kiểm tra đánh giá phải hệ thống, phù hợp với
nội dung chương trình môn học. Một trong những hình thức thi (kiểm tra,
2
đánh giá) làm sao phải khắc phục được những yếu điểm trên đó là thi kiểm
tra đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vì ưu điểm của phương
pháp này đảm bảo tính khách quan giữa người dạy và người học, đảo bảo
kiểm tra xuyên suốt lượng kiến thức đã học
Đối với chương trình hoá học việc vận dụng câu hỏi trắc nghiệm
khách quan vào kiểm tra đánh giá phần nào còn hạn chế và chưa được áp
dụng nhiều vào từng lớp và từng khối trong chương trình phổ thông
Chính vì lý do như vậy tôi chọn đề tài “Góp phần nghiên cứu xây
dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh
giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh
Phúc” làm đề tài luận văn nghiên cứu của mình
* Tính cấp thiết của đề tài
Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho những đề xuất về chính sách
cho việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá vào quá trình đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá của bậc THPT nói chung và trong Hoá học
lớp 12 nói riêng
2. Mục đích của đề tài
- Xây dựng được ngân hàng câu hỏi TNKQ chuẩn cho bộ môn Hoá
Học 12 ban KHTN trong trường THPT
- Sử dụng ngân hàng câu hỏi TNKQ vào kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Làm rõ sự khác biệt về đổi mới kiểm tra đánh giá bằng ngân hàng
câu hỏi TNKQ và phương pháp tự luận (viết và vấn đáp)
3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Ngân hàng câu hỏi TNKQ có khoảng 350 -400 câu được chuẩn hoá
từ khoảng 600 câu cho kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN
- Chỉ nghiên cứu thử nghiệm sử dụng vào việc kiểm tra đánh giá cho
khối lớp 12 trong trường THPT Yên Lạc 2. Tỉnh Vĩnh Phúc
3
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
* Câu hỏi nghiên cứu
- Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ
môn Hoá Học 12 ban cơ KHTN trong chương trình THPT sẽ nảy sinh những
vấn đề gì?
- Việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào đánh
giá kết quả học tập của học sinh sẽ mang lại kết quả như thế nào?
* Giả thuyết nghiên cứu
- Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ
môn Hoá Học 12 ban KHTN sẽ phải có đầy đủ kiến thức về đo lường và
đánh giá trong giáo dục, thiết kế thử nghiệm và đánh giá các câu hỏi trắc
nghiệm mới có thể có được ngân hàng khả dụng
- Sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào đánh giá
chất lượng của học sinh sẽ thu được kết quả tốt hơn khi sử dụng các phương
pháp kiểm tra theo phương pháp truyền thống (Viết, vấn đáp, tự luận...)
2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
-
Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12 trong trường THPT
-
Đối tượng nghiên cứu: Kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN
3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp
-
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp chuyên
gia, phương pháp thực nghiệm sư phạm.
-
Nhóm phương pháp lý thuyết: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết,
phương pháp nghiên cứu nguồn tài liệu.
-
Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục và phần
mềm tính toán.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
- Nghiên cứu cơ sở lý luận để lựa chọn xây dựng ngân hàng câu trắc
nghiệm vào bộ ngân hàng câu hỏi trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Lựa chọn xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho
bộ môn Hoá học 12 ban KHTN trong chương trình THPT
- Đề xuất việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Thử nghiệm với các câu hỏi nhằm xác định tính khả thi và hiệu quả
của đề tài.
5
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Ở Châu Âu và Mỹ lĩnh vực khoa học đo lường trong giáo dục phát triển
rất mạnh vào thời kì trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai (Mặc dù khoa học
đo lường trong giáo dục có thể xem như bắt đầu cách đây một thế kỉ)
Để đánh dấu một bước phát triển rất mạnh lĩnh vực đo lường trong
giáo dục có các dấu mốc quan trọng một loạt các trắc nghiệm và kĩ thuật ra
đời như:Trắc nghiệm trí tuệ Stanford-Binet xuất bản năm 1916, bộ trắc
nghiệm thành quả học tập tổng hợp đầu tiên Stanford Achievement Test ra
đời vào 1923. Với việc đưa vào chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM năm
1935, việc thành lập National Council on Measurement in Education
(NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational Testing Services (ETS)
năm 1947, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình thành ở Mỹ. Từ đó
đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và giáo dục đã phát triển liên tục.
Quá trình phát triển của khoa học đo lường trong giáo dục không phải không
có những phản hồi mà quá trình phát triển này phải chịu những phê bình chỉ
trích một cách thường xuyên, nhưng sự phê bình chỉ trích này không đánh đổ
được khoa học đo lường trong giáo dục, mà làm cho khoa học đo lường
trong giáo dục có cơ sở điều chỉnh những cái còn thiếu sot và khuyết điểm,
những cái chưa làm được để cho khoa học đo lường đánh giá trong giáo dục
phát triển mạnh mẽ hơn
Ngành công nghiệp trắc nghiệm ở Mỹ hiện nay ước tính mỗi năm số
lượt trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá cỡ 1/4 tỉ và trắc nghiệm do giáo viên soạn
lên đến con số 5 tỉ. Ngành công nghiệp trắc nghiệm phát triển nhanh kéo
theo một loạt ngành liên quan phát triển theo như: ngành công nghệ thông
tin, lí thuyết đo lường trong tâm lí phát triển giáo dục. Từ đó việc nâng cao
độ chính xác trắc nghiệm ra đời đó là công nghệ trắc nghiệm nhờ máy tính
(Computer Adaptive Test – CAT)
Một số nước trên thế giới dùng ngân hàng câu hỏi TNKQ để thi tuyển
sinh đại học
6
Ở Mỹ các trường đại học không tổ chức thi tuyển mà dựa vào kết quả
của các kỳ thi do các công ty ngoài nhà nước tổ chức để xét tuyển. Có dịch
vụ thi phục vụ công việc này, đó là SAT (Scholastic Assesment Test) do
công ty ETS tổ chức, và ACT do Chương trình ACT (American College
Testing Program) triển khai. SAT cho thi 2 môn, Anh ngữ và toán, còn ACT
cho thi 4 môn, ngoài Anh ngữ và Toán còn thi thêm đọc hiểu và suy luận
khoa học.
Còn Nhật Bản, Trung tâm quốc gia về Tuyển sinh đại học" được thành
lập năm 1977 tổ chức kỳ thi tuyển chung cho hấu hết các trường đại học
công và tư của Nhật Bản hàng năm. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể,
mỗi thí sinh có thể lựa chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tuỳ theo quy định
của trường đại học mà thí sinh dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm một kỳ
thi, Trung tâm này chi tiêu hàng năm cỡ 100 triệu USD.
Với Thái Lan kỳ thi tuyển sinh đại học liên kết được tổ chức cho hầu hết
các trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có
thể xin dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998
Thái Lan bắt đầu cải tiến kỳ thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học
ở trường phổ thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần.
Ở Trung Quốc từ năm 1989 tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung
học được giao cho các địa phương, còn kỳ thi tuyển đại học được tổ chức
thống nhất trên cả lục địa Trung quốc vào đầu tháng 7 hàng năm và đề thi
chủ yếu bằng ngân hàng câu hỏi TNKQ
Còn ở nước ta khoa học về đo lường trong giáo dục ở trong tình trạng
khá lạc hậu và phát triển rất chậm. Mãi đến năm 1974 một hoạt động đáng
lưu ý là kỳ thi tú tài lần đầu tiên được tổ chức ở Miền Nam bằng phương
pháp trắc nghiệm khách quan.
Ở Miền Bắc nước ta trước đây khoa học này ít được lưu ý vì trong hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa cũ, kể cả Liên Xô, khoa học này rất kém
phát triển. Vào những năm sau 1975 ở phía Bắc nước ta có một số người có
nghiên cứu về khoa học đo lường trong tâm lý. Chỉ đến năm 1993 Bộ Giáo
dục và Đào tạo mới mời một số chuyên gia nước ngoài vào nước ta phổ biến
7
về khoa học này cũng như cử một số cán bộ ra nước ngoài học tập. Từ đó
một số trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu áp dụng các phương
pháp đo lường trong giáo dục để thiết kế các công cụ đánh giá, soạn thảo các
phần mềm hỗ trợ, mua máy quét quang học chuyên dụng (OMR) để chấm
thi. Một điểm mốc đáng ghi nhận là kỳ thi tuyển đại học thí điểm tại trường
Đại học Đà Lạt vào tháng 7 năm 1996 bằng phương pháp trắc nghiệm khách
quan mà sự thành công tốt đẹp của nó được Hội nghị rút kinh nghiệm của Bộ
Giáo dục và Đào tạo vào tháng 9 năm đó khẳng định (Kỳ thi có 7200 thí sinh
dự tuyển, 2 loại đề trắc nghiệm và tự luận được sử dụng để thí sinh tự chọn.
Có khoảng 70% lượt thí sinh chọn đề trắc nghiệm, chấm thi bằng máy
Opscan-7, trong khoảng 60 trường hợp vi phạm kỹ luật thi do quay cóp thì
chỉ có 4 thí sinh từ nhóm làm trắc nghiệm). [12]
Từ năm 1997 đến nay các hoạt động đổi mới phương pháp đo lường
và đánh giá trong giáo dục ở các trường đại học lắng xuống. Cho đến mùa thi
tuyển đại học năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới tổ chức kỳ thi tuyển
đại học “3 chung”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập “Cục Khảo thí và
Kiểm định chất lượng” vào ngày 18/7/2003 theo Nghị định số 85/2003/NĐ –
CP để cải tiến việc thi cử và đánh giá chất lượng các trường đại học, và
quyết định sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi tuyển
đại học vào các mùa thi 2005, 2006, 2007, 2008 và tiếp theo nữa. Đây là cơ
hội phát triển của khoa học về đo lường trong giáo dục ở nước ta trong thời
gian đã qua và sắp tới. Ngoài ra các sở giáo dục trong cả nước cũng đã thành
lập phòng khảo thí và kiểm định chất lượng. Mục đích của các phòng này lập
ra để triển khai công tác quản lí đánh giá chất lượng và đổi mới phương
pháp kiểm tra đánh giá cho các trường trong Sở. Nhưng đội ngũ cán bộ có
kinh nghiệm làm công tác kiểm tra đánh giá này hầu như không có hay có
cũng không được đào tạo cơ bản. Nên kéo theo sự kiện mở lớp đào tạo thạc
sỹ đo lường đánh giá trong giáo dục do Trung tâm đảo bảo chất lượng đào
tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục thuộc trường Đại học Quốc gia đảm
nhiệm đào tạo.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ
1. Cơ sở lí luận
1.1 Một số khái niệm trong đo lường đánh giá giáo dục
Sau đây là một số khái niệm tiêu biểu
1.1.1. Đánh giá (Evaluation) trong giáo dục.
- Định nghĩa của Jean Marie De Ketele: Đánh giá có nghĩa là
+ Thu thập thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy
+ Xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này với một tập
hợp các tiêu chí phù hợp với mục tiêu định ra ban đầu hay đã điều chỉnh
trong quá trình thu thập thông tin
+ Nhằm ra một quyết định
- Định nghĩa của Ralph tyler: Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình
xác định mức độ thực hiện các mục tiêu trong các chương trình giáo dục
- Định nghĩa của E.Beeby: Đánh giá giáo dục là sự thu thập lí giải một
cách hệ thống những bằng chứng, như một phần của quá trình, dẫn tới sự
phán xét về giá trị theo quan điểm hoạt động
- Định nghĩa của Robert F.mager: Đánh giá là việc miêu tả tình hình
của học sinh và giáo viên để dự đoán viêc phải tiếp tục làm để giúp học sinh
tiến bộ
Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy khái niệm đánh giá trong giáo
dục khi thì được các tác giả tiếp cận theo mục đích, yêu cầu, nội dung của
một phạm vi hoạt động cụ thể, khi thì được tiếp cận ở một bình diện khái
quát; khi thì được tiếp cận theo hướng nhấn mạnh của mục tiêu, khi thì được
tiếp cận theo hướng nhấn mạnh về tính chất, về quy trình [11 ]
Dựa trên những định nghĩa trên, Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc
trong cuốn “ Cơ sở lí luận của việc đánh giá chất lượng học tập của học sinh
phổ thông đã đưa ra định nghĩa sau đây “Đánh giá trong giáo dục là quá
9
trình thu thập và lí giải kịp thời, có hệ thống thông tin và hiện trạng, khả
năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục
tiêu dạy học, mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp
và hành động tiếp theo”
Từ định nghĩa khái quát trên về đánh giá trong giáo dục hai tác giả đã
đưa ra định nghĩa về đánh giá kết qủa học tập của học sinh “Đánh giá kết
quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng
thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của
tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và
nhà trường, cho bản thân học sinh để họ học tập ngày một tiến bộ hơn” [5]
1.1.2. Kiểm tra (testing)
Kiểm tra: Xem xét thực chất thực tế [17]
-Theo khoa học giáo dục: Kiểm tra là phương tiện và hình thức của
đánh giá, Trong kiểm tra người ta xác định được trước các tiêu chí và không
thay đổi chúng trong quá trình kiểm tra cũng như không quan tâm đến quyết
định đề ra Như vậy, kiểm tra là quá trình hẹp hơn đánh giá, hay nói cách
khác kiểm tra là một khâu của quá trình đánh giá [11]
Trong quá trình dạy học, kiểm tra – đánh giá là một thành phần của
quá trình dạy học, đảm nhận một chức năng lí luận dạy học cở bản, chủ yếu
không thể thiếu được trong quá trình này. Kiểm tra có 3 chức năng bộ phận
liên kết, thống nhất, thâm nhập vào nhau và bổ sung cho nhau đó là: đánh
giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh. [6]
- Về mặt lí luận dạy học: kiểm tra có vai trò thông tin ngược trong dạy
học, nó cho biết những thông tin, kết quả về quá trình dạy của thầy và quá
trình của học trò để từ đó có những quyết định cho sự điều khiển tối ưu của
cả thầy lẫn trò. Học sinh sẽ học tốt hơn nếu thường xuyên được kiểm tra và
được đánh giá một cách nghiêm túc, công bằng với kĩ thuật tốt và hiệu
nghiệm. [16]
10
1.1.3. Thi (Examanition)
Thi: Làm bài theo đề đã ra nhằm kiểm tra kiến thức hoặc tay nghề để
công nhận đạt trình độ, tiêu chuẩn nào đã có sẵn [17]
Theo khoa học giáo dục: Thi cũng là kiểm tra nhưng có tầm quan
trọng hơn được dùng khi kết thúc một giai đoạn đào tạo. Nếu trong kiểm tra
Có tính chất “ tổng kết” (summative) có thể nổi trội hoặc không nổi trội so
với tính chất “quá trình”(formative) thì trong thi tính chất tổng kết luôn luôn
là tính chất nổi trội so với tính chất quá trình [11]
1.1.4. Đo: (Measurement).
Đo: Xác định độ lớn của một đại lượng, một vật bằng những dụng cụ
chuẩn xác [17]
Trong khoa học giáo dục “đo” được hiểu là so sánh một cách hệ thống
các kiến thức, kĩ năng và thái độ của một cá nhân hoặc tập thể người học đã
đạt được với một hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ được dùng làm
chuẩn. Khi sử dụng khái niệm “đo” trong đánh giá là muốn khẳng định tính
định lượng, tính chính xác, tính đơn nhất của kết quả đánh giá [11]
1.1.5.Kết quả học tập (Study achievement): có thể được hiểu theo hai cách
khác nhau tuỳ theo mục đích của việc đánh giá
+ Kết quả học tập được coi là mức độ thành công trong học tập của
học sinh, được xem xét trong mối quan hệ với mục tiêu đã xác định, chuẩn
kiến thức và kĩ năng cần đạt được mà công sức thời gian người học bỏ ra.
Theo cách định nghĩa này thì kết quả học tập là mức độ thực hiện tiêu chí
(Criterion)
+ Kết quả học tập cũng được coi là mức độ thành tích đã đạt được của
một học sinh so với các bạn cùng học, theo cách định nghĩa này thì kết quả
học tập là mức độ đạt chuẩn (norm) [11]
1.2 Mục tiêu dạy học, mục đích học tập
* Mục tiêu dạy học là những gì học sinh cần đạt được sau khi học
xong môn học, nó bao gồm:
- Hệ thông kiến thức khoa học và cả phương pháp nhận thức chung.
11
- Hệ thống các kĩ năng.
- Khả năng vận dụng vào thực tế
- Thái độ, tình cảm đối với khoa học và xã hội.
* Mục đích học tập: Khi học xong một đơn vị “kiến thức” nào đó thì
mục đích học tập của học sinh là:
- Phải lĩnh hội được nội dung kiến thức đó nhằm đáp ứng nhu cầu
nhận thức về thế giới tự nhiên và xã hội.
- Học sinh được trang bị kiến thức để đáp ứng yêu cầu về thi tuyển,
nghề nghiệp và cuộc sống.
* Mục tiêu dạy học, mục đích học tập: chính là cơ sở cho việc xác
định nội dung dạy học, phương pháp và phương tiện dạy học, do đó nó cũng
là cơ sở để lựa chọn phương pháp và phương tiện kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập. [16]
1.3 Đánh giá kết quả học tập.
Đánh giá kết quả học tập là: quá trình đo lường mức độ đạt được của
học sinh về các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học, là mô tả một cách
định tính và định lượng: tính đầy đủ, tính đúng đắn, tính chính xác, tính vững
chắc của kiến thức, mối liên hệ của kiến thức với đời sống, các khả năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, mức độ thông hiểu, khả năng diễn đạt bằng lời
nói, bằng văn viết, bằng chính ngôn ngữ chuyên môn của học sinh … và cả
thái độ của học sinh trên cơ sở phân tích các thông tin phản hồi từ việc quan
sát, kiểm tra, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, đối chiếu với
những chỉ tiêu, yêu cầu dự kiến, mong muốn đạt được của môn học.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình phức tạp và
công phu. Vì vậy, để việc đánh giá đạt kết quả tốt thì quy trình đánh giá gồm
những công đoạn sau:
- Phân tích mục tiêu học tập qua các kiến thức, kĩ năng trang bị cho
người học
12
- Đặt ra các yêu cầu về mức độ đạt được các kiến thức, kĩ năng trên
dựa trên những dấu hiệu có thể đo lường hoặc quan sát được.
- Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức độ đạt được về
các yêu cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số.
- Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu cầu đặt ra rồi
đánh giá, xem xét kết quả học tập của học sinh, xem xét mức độ thành công
của phương pháp giảng dạy của thầy… để từ đó cải tiến, khắc phục những
nhược điểm
Điều quan trọng trong đánh giá là quán triệt nguyên tắc vừa sức, bám
sát yêu cầu của chương trình.
Đánh giá kết quả học tập dựa trên tiêu trí dạy học sẽ nhận những thông
tin phản hồi chính xác nhằm bổ sung, hoàn thiện quá trình dạy học.
Như vậy, kết quả học tập là mức độ thực hiện các tiêu chí hay các
chuẩn mực, theo mục đích học tập đã được xác định trong chương trình giáo
dục [16+ 6]
1.4 Ý nghĩa của việc kiểm tra – đánh giá.
Việc kiểm tra – đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp
thời những thông tin “ liên hệ ngược trong” giúp người học tự điều chỉnh
hoạt động học. Nó giúp cho học sinh kịp thời nhận thức mức độ đạt được
những kiến thức của mình, còn lỗ hổng kiến thức nào cần được bổ sung
trước khi bước vào phần mới của chương trình học tập có cơ hội để nắm
chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần của chương trình. Ngoài ra
thông qua kiểm tra – đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động
trí tuệ: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá, khái quát hoá, hệ thống kiến thức.
Nếu việc kiểm tra - đánh giá chú trọng phát huy trí thông minh, linh hoạt vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết những tình huống thực tế thì việc kiểm
tra – đánh giá được tổ chức nghiêm túc, công bằng sẽ giúp học sinh nâng cao
tinh thần trách nhiệm trong học tập, có ý trí vươn lên đạt kết quả cao hơn,
củng cố lòng tin vào khả năng của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục
tính chủ quan tự mãn.
13
Việc kiểm tra – đánh giá học sinh cung cấp cho giáo viên những thông
tin “ liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy.
Kiểm tra đánh giá kết hợp với việc theo dõi thường xuyên tạo điều
kiện cho giáo viên nắm được một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và
trình độ mỗi học sinh trong lớp mình dạy để có thể có biện pháp phụ đạo bồi
dưỡng riêng thích hợp qua đó của những cải tiến nội dung, phương pháp
hình thức tổ chức dạy học mà mình theo đuổi.
2. Công cụ đo lường thành quả học tập
2.1 Các hình thức kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh ở
trường trung học phổ thông [16]
Kiểm tra vấn đáp
- Mục đích kiểm tra vấn đáp (kiểm tra miệng):
Kiểm tra miệng còn gọi là kiểm tra vấn đáp (thường được thực hiện
lúc bắt đầu vào bài mới, cũng có thể đang trong giảng quá trình giảng bài
mới): là hình thức của kiểm tra thường xuyên, được thực hiện qua các khâu
ôn tập, củng cố bài cũ, tiếp thu bài mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn. Kiểm tra miệng nhằm giúp cho GV kịp thời phát hiện lệch lạc của học
sinh để điều chỉnh cách học của trò, đồng thời điều chỉnh cách dạy của thầy.
- Thực hiện kiểm tra miệng:
* Kiểm tra miệng trước hết phải là xác định được chính xác các kiến
thức cần phải kiểm tra, củng cố, từ đó chuẩn bị các câu hỏi phù hợp cho từng
loại học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu kém.
* Câu hỏi đặt ra phải chính xác, rõ ràng để học sinh không trả lời lạc
đề, câu hỏi phải kích thích tích cực tư duy của học sinh.
* Giáo viên cần theo dõi, lắng nghe câu trả lời của học sinh, không
ngắt lời học sinh, có thái độ tế nhị và nhạy cảm, hiểu biết cá tính của học
sinh để tạo điều kiện cho học sinh trả lời một cách tốt nhất.
* Sau khi học sinh trả lời, giáo viên phải uốn nắn, bổ sung kiến thức
còn thiếu hay hiểu sai, chưa chính xác của học sinh, rèn luyện cho học sinh
14
cách trả lời ngắn gọn, xúc tích, chống thái độ quá dễ dãi. Giáo viên phải có
thái độ nghiêm khắc, đúng mực, khách quan.
Kiểm tra viết
Ở trường phổ thông hiện nay, kiểm tra viết là hình thức kiểm tra 15
phút, 1 tiết (45 phút) và kiểm tra học kì (45 phút trở lên) dưới hình thức tự
luận.
- Mục đích của bài kiểm tra viết.
*Qua bài làm của học sinh, giáo viên có thể đánh giá được trình độ
nắm kiến thức, kĩ năng, đánh giá được sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn,
cách diễn đạt một vấn đề của học sinh.
*Kết quả bài kiểm tra viết giúp giáo viên đánh giá tình hình tiếp thu
chung của toàn bộ học sinh trong lớp về một vấn đề, một nội dung nào đó.
Ngoài ra nó còn giúp cả giáo viên và học sinh nhìn lại kết quả dạy học của
những khoảng thời gian dạy học nhất định.
Tuy nhiên, đối với một bài kiểm tra trong một khoảng thời gian nhất
định giáo viên chỉ có thể kiểm tra học sinh một phần rất hạn chế của nội
dung chương trình học do số lượng câu hỏi ít, công cụ đánh giá ít chính xác
vì học sinh có thể quay cóp tài liệu, chép bài của nhau trong lúc kiểm tra.
- Thực hiện bài kiểm tra viết môn học.
* Với bài kiểm tra 15 phút, giáo viên có thể báo trước hoặc không báo
trước, có thể kiểm tra đầu tiết hoặc cuối tiết, nhưng bài một tiết (45 phút), thì
nên báo trước để học sinh chuẩn bị.
Giáo viên cần chuẩn bị 2, 3 … đề có nội dung, khối lượng, mức độ
khó của kiến thức, kĩ năng tương đương giữa các lớp.
* Xác định mục tiêu cần kiểm tra – đánh giá: trước khi xác định mục
tiêu kiểm tra – đánh giá chúng ta cần phải phân tích nội dung chương trình
thành các nội dung dạy học cụ thể, rồi gán cho nó một trọng số tuỳ theo tầm
quan trọng của mỗi nội dung. Trên mỗi nội dung phân tích và liệt kê các mục
15
tiêu dạy học cụ thể hay các hành vi cần đo lường, để từ đó xác định số lượng
câu hỏi tuỳ thuộc vào mức độ quan trọng của từng mục tiêu và từng nội dung
dạy học.
2.2 Đề thi trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan.
2.2.1. Trắc nghiệm tự luận [8]
Khái niệm: TNTL là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc
sử dụng công cụ đo lường là các câu hỏi đóng hoặc mở, học sinh trả lời dưới
dạng bài viết bằng chính ngôn ngữ của học sinh trong một khoảng thời gian
đã định trước.
TNTL cho phép học sinh một sự tự do tương đối nào đó để trả lời một
câu hỏi trong bài kiểm tra. Để trả lời câu hỏi đòi hỏi học sinh phải nhớ lại
kiến thức, phải biết sắp xếp và diễn đạt ý kiến của mình một cách chính xác
rõ ràng.
Bài TNTL trong một chừng mực nào đó được chấm điểm một cách
chủ quan và điểm cho bởi những người chấm khác nhau có thể không thống
nhất. Một bài tự luận thường có ít câu hỏi vì phải mất nhiều thời gian để viết
câu trả lời.
- Ưu điểm của trắc nghiệm tự luận
* Câu hỏi TNTL đòi hỏi học sinh phải tự soạn câu trả lời và diễn tả
bằng ngôn ngữ của chính mình vì vậy nó có thể đo được nhiều trình độ kiến
thức, đặc biệt là ở trình độ phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá… Nó
không những kiểm tra được kiến thức của học sinh mà còn kiểm tra được kĩ
năng giải bài tập định tính cũng như định lượng.
* Có thể kiểm tra – đánh giá các mục tiêu liên quan đến thái độ, sự
hiểu biết những ý niệm, sở thích và khả năng diễn đạt tư tưởng.
* Hình thành cho học sinh kĩ năng sắp xếp ý tưởng, suy diễn, khái
quát hoá, phân tích, tống hợp… phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo.
16
* Việc chuẩn bị câu hỏi dễ hơn ít tốn công hơn, so với câu hỏi trắc
nghiệm khách quan.
- Nhược điểm của trắc nghiệm tự luận
* Bài kiểm tra theo kiểu tự luận thì số lượng câu hỏi ít, việc chấm
điểm lại phụ thuộc vào tính chất chủ quan, trình độ người chấm do đó có độ
tin cậy thấp.
* Cũng do phụ thuộc vào tính chủ quan của người chấm nên nhiều khi
cùng một bài kiểm tra, cùng một người chấm nhưng ở hai thời điểm khác
nhau hoặc cùng một bài kiểm tra nhưng do hai người khác nhau chấm, kết
quả sẽ khác nhau, do đó phương pháp này có độ giá trị thấp.
* Vì số lượng câu hỏi ít nên không thể kiểm tra hết các nội dung trong
chương trình, làm cho học sinh có chiều hướng học lệch, học tủ.
2.2.2. Trắc nghiệm khách quan [10]
Khái niệm
TNKQ là phương pháp kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học
sinh bằng hệ thống câu hỏi TNKQ gọi là “ khách quan” vì cách chấm điểm
hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào người chấm.
* Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan
- Do số lượng của câu hỏi nhiều nên phương pháp TNKQ có thể kiểm
tra nhiều nội dung kiến thức bao trùm gần cả học phần, nhờ vậy buộc học
sinh phải học thật kĩ tất cả các nội dung kiến thức trong học phần.
- Phương pháp TNKQ buộc học sinh phải tự giác, chủ động, tích cực
học tập. Điều này tránh được tình trạng học tủ, học lệch trong học sinh.
- Thời gian làm bài từ 1 ÷ 3 phút một câu hỏi, hạn chế được tình trạng
quay cóp và sử dụng tài liệu.
- Làm bài TNKQ học sinh chủ yếu sử dụng thời gian để đọc đề, suy
nghĩ, không tốn thời gian viết ra bài làm như TNTL do vậy có tác dụng rèn
luyện kỹ năng nhanh nhẹn phát biểu tư duy cho học sinh.
17
- Do số câu hỏi nhiều nên bài TNKQ thường gồm nhiều câu hỏi do đó
có độ giá trị và độ tin cậy cao.
- Có thể phân tích tính chất câu hỏi bằng phương pháp thủ công hoặc
nhờ vào các phần mềm tin học do vậy có thể sửa chữa, bổ sung hoặc loại bỏ
các câu hỏi để bài TNKQ làm cho chúng ngày càng có giá trị hơn.
- Ngoài ra việc phân tích câu hỏi còn giúp giáo viên lưa chọn phương
pháp dạy phù hợp, hướng dẫn học sinh có phương pháp học tập đúng đắn, ít
tốn công sức, thời gian chấm bài và hoàn toàn khách quan, không có sự
chênh lệch giữa các giáo viên cùng chấm
- Kiểm tra bằng phương pháp TNKQ có độ may rủi ít hơn TNTL vì
không có những trường hợp trúng tủ, từ đó loại bỏ dần những thói quen đoán
mò, học lệch, học tủ, chủ quan.sử dụng tài liệu…của học sinh, nó đang là
mối lo ngại của nhiều giáo viên hiện nay.
- Điểm của bài kiểm tra TNKQ hầu như thật sự là điểm do học sinh tự
làm bài, vì học sinh phải làm được 2, 3…câu trở lên thì mới được một điểm
trong thang điểm 10. Do vậy xác suất quay cóp, hoặc chỉ đoán mò để được
điểm rất thấp.
* Nhược điểm của trắc nghiệm khách quan
- TNKQ dùng để đánh giá các mức trí năng ở mức biết, hiểu thì thật
sự có ưu điểm còn ở mức phân tích, tổng hợp, đánh giá và năng lực thực
nghiệm thì bị hạn chế, ít hiệu quả vì nó không cho phép kiểm tra khả năng
sáng tạo, chủ động, khả năng tổng hợp kiến thức cũng như phương pháp tư
duy suy luận, giải thích, chứng minh của học sinh. Vì vậy đối với cấp học
càng cao thì khả năng áp dụng hình thức TNKQ càng bị hạn chế.
- Phương pháp TNKQ chỉ cho biết ‘kết quả” suy nghĩ của học sinh mà
không cho biết quá trình tư duy, thái độ của học sinh đối với nội dung được
kiểm tra, do đó không đảm bảo đươc chức năng phát hiện lệch lạc của kiểm
tra để từ đó có sự điều chỉnh việc dạy và việc học.
18
- Do sẵn có phương án trả lời câu hỏi, nên TNKQ khó đánh giá được
khả năng quan sát, phán đoán tinh vi, khả năng giải quyết vấn đề khéo léo,
khả năng tổ chức sắp xếp, diễn đạt ý tưởng, khả năng suy luận, óc tư duy độc
lập, sáng tạo và sự phát triển ngôn ngữ chuyên môn của học sinh.
- Việc soạn được câu hỏi đúng, chuẩn là công việc thực sự khó khăn,
nó yêu cầu người soạn phải có chuyên môn khá tốt, có nhiều kinh nghiệm và
phải có thời gian. Điều khó nhất là ngoài một câu trả lời đúng thì các phương
án trả lời khác để chọn cũng phải có vẻ hợp lý.
- Do số lượng câu hỏi nhiều bao trùm nội dung của cả chương trình
học nên câu hỏi chỉ đề cập một vấn đề, một kiến thức, câu không khó do đó
hạn chế việc phát triển tư duy cao ở học sinh khá giỏi. Có thể có một số câu
hỏi mà những học sinh thông minh có thể có nhưng câu trả lời hay hơn đáp
án đúng đã cho sẵn, nên những học sinh đó không cảm thấy thoả mãn.
- Khó soạn được một bài TNKQ hoàn hảo và tốn kém trong việc soạn
thảo, in ấn đề kiểm tra và học sinh cũng mất nhiều thời gian để đọc câu hỏi.
Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Câu hỏi trắc nghiệm khách quan có thể chia làm các loại chính như sau:
2.2.2.1. Trắc nghiệm “đúng sai”
Câu đúng sai là câu trắc nghiệm yêu cầu người thi phải phán đoán
đúng hay sai đối với một câu trần thuật hoặc câu hỏi, cũng chính là để người
thi tuỳ ý lựa chọn một trong hai đáp án đưa ra.
* Ưu điểm của câu đúng sai
+ Ra đề dễ dàng. Đề thi vừa có thể là câu trần thuật vừa có thể là câu
hỏi. Ý nghĩa của đề thi vừa có thể là khẳng định, cũng có thể là phủ định.
+ Người thi trả lời thuận tiện.
+ Có thể dùng máy để đánh giá, đọc bài thi trắc nghiệm, tiết kiệm
được thời gian, sức lực, lại chính xác, khách quan.
+ Tất cả các môn học đều có thể sử dụng.
19
+ Hiệu suất trắc nghiệm khá cao. Trong một tiếng đồng hồ trả lời của người
tham gia trắc nghiệm đúng sai nhiều hơn rất nhiều đề thi có nhiều lựa chọn.
* Nhược điểm của câu đúng sai.
Nhược điểm lớn nhất của đề thi đúng sai là chịu ảnh hưởng tương đối
lớn của khả năng đoán mò đáp án. Vì vậy nó có độ tin cậy thấp, dễ tạo điều
kiện cho học sinh thuộc lòng hơn là hiểu. Học sinh giỏi có thể không thoả
mãn khi phải chọn “đúng sai” khi câu hỏi viết chưa kĩ càng
2.2.2.2. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn
Câu hỏi trắc nghiệm yêu cầu người thi tuỳ ý lưa chọn đáp án chính xác
trong một số đáp án được gọi là câu hỏi nhiều phương án lựa chọn, gọi tắt là
câu hỏi nhiều lựa chọn.
Câu hỏi nhiều lựa chọn tuy chủng loại nhiều, nhưng nhìn về kết cấu
mà nói thì do hai bộ phận câu dẫn (chủ đề) và câu lựa chọn tạo nên. Bộ phận
chủ đề chính thường dùng các từ, câu hỏi, hoặc câu trần thuật để biểu thị.
Phần trả lời đã có thể dùng các câu ngắn gọn hoặc các nhóm từ để biểu thị.
Trong 4 đến 5 phương án lựa chọn có một phương án hoặc một vài phương
án đúng, các phương án còn lại là sai, còn gọi là phương án nhiễu. Căn cứ
vào câu dẫn và các phương án lựa chọn khác nhau còn phân thành:
* Câu nhiều lựa chọn khẳng định
Trong các phương án lựa chọn của câu nhiều lựa chọn theo hình thức
khẳng định, có một hoặc một vài phương án đúng còn các phương án khác
đều là làm nhiễu. Khi trả lời yêu cầu lựa chọn ra một phương án hoặc tất cả
các phương án đều đúng.
* Câu nhiều lựa chọn phủ định
Các phương án lựa chọn của câu nhiều lựa chọn có một đáp án sai, khi
đưa ra đáp án yêu cầu đối tượng thi tìm ra đáp án sai này.
* Câu nhiều lựa chọn theo hình thức tốt nhất chỉ có một phương án
đúng (tốt nhất), còn các phương án khác, tuy ở một mức độ nào cũng đúng
nhưng chúng đều không phải là đúng nhất.
20
* Câu nhiều lựa chọn suy diễn.
Câu nhiều lựa chọn suy diễn là căn cứ vào quan hệ của hai sự vật đã
đưa ra để suy diễn, lý luận cho quan hệ của hai sự vật khác. Cách thức đưa ra
phương án của nó vẫn là lựa chọn một phương án thích hợp nhất trong một
số phương án lựa chọn.
* Câu nhiều lựa chọn hỗn hợp
Câu nhiều phương án lựa chọn hỗn hợp là do một số đơn độc hoặc
một số nhóm đáp án đơn độc không giống nhau tạo nên
Ưu điểm của câu nhiều lựa chọn
+ Nó thích hợp sử dụng cho tài liệu nhiều loại tầng bậc nhận thức
+ Trả lời thuận tiện
+ Đọc đề thi tiết kiệm thời gian, sức lực và đánh giá khách quan
+ Cơ hội đoán đúng đáp án giảm đi. Nếu đối tượng thi toàn bộ làm
dựa vào đoán thì cơ hội đoán đúng ở mỗi câu đúng sai là 50%, còn cơ hội để
đoán đúng ở câu có 5 phương án lựa chọn chỉ là 20%. Đối với toàn bộ bài
trắc nghiệm mà nói, thì cơ hội điểm số có được để có thể qua kì thi mà toàn
bộ lại dựa vào đoán là bằng 0.
+ Số lượng câu để tạo nên một lần trắc nghiệm cũng khá lớn, phạm vi
lấy mẫu đề thi cũng rộng, tính đại diện mạnh, vì thế nó chính là phương pháp
áp dụng nhiều để tiêu chuẩn hoá trắc nghiệm.
+ Giáo viên có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra - đánh giá những
mục tiêu dạy học khác nhau.
+ Xác định mối tương quan nhân quả
+ Nhận biết những điều sai lầm
+ Ghép các kết quả hay các điều quan sát được với nhau
+ Định nghĩa các khái niệm
+ Tìm nguyên nhân của một số sự kiện
+ Nhận biết điểm tương đồng giữa hai hay nhiều vật
21
+ Xác định nguyên lí hay ý niệm tổng quát từ những sự kiện
+ Xác định thứ tự hay cách sắp đặt nhiều vật
+ Xét đoán vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm
- Độ tin cậy cao hơn. Yếu tố đoán mò hay may rủi giảm đi nhiều so
với các loại TNKQ khác khi số phương án lựa chọn tăng lên
- Tính giá trị tốt hơn. Với bài viết trắc nghiệm có nhiều câu trả lời để
lựa chọn, người ta có thể đo được khả năng nhớ, áp dụng các nguyên lí, định
luật …,tổng quát hoá … rất hữu hiệu.
- Thật sự khách quan khi chấm bài. Điểm số của bài trắc nghiệm
khách quan không phụ thuộc vào chữ viết, khả năng diễn đạt của học sinh và
trình độ người chấm bài …
* Nhược điểm của câu nhiều lựa chọn
+ Viết câu hỏi rất khó khăn.Vì việc biên soạn và đáp án chính xác vừa
có khác biệt bản chất nhưng về bề mặt là có những chỗ tương đồng như 3, 4
phương án nhiễu, thực sự không phải là một việc dễ dàng
+ Các nhân tố để đoán đúng đáp án đã giảm đi so với câu đúng sai
nhưng nó vẫn tồn tại
+ Loại câu hỏi này khó soạn vì phải tìm câu trả lời đúng nhất, còn
những câu còn lại gọi là câu nhiễu thì cũng có vẻ hợp lý. Ngoài ra phải soạn
câu hỏi thế nào đó để đo được các mức trí năng cao hơn mức biết, mức hiểu.
+ Có những học sinh có óc sáng tạo, tư duy tốt, có thể tìm ra những
câu trả lời hay hơn đáp án thì sẽ làm cho học sinh đó cảm thấy không
thoả mãn.
+ Các câu hỏi nhiều lựa chọn có thể không đo được khả năng phán
đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách hiệu
nghiệm bằng loại câu hỏi TNTL soạn kĩ.
+ Ngoài ra, tốn kém giấy mực để in đề các loại câu hỏi này so với các
loại câu hỏi khác và cũng cần nhiều thời gian để học sinh đọc nội dung câu hỏi.
22
2.2.2.3. Trắc nghiệm ghép đôi:
Trắc nghiệm ghép đôi là một loại của câu lựa chọn, cấu kết của nó bao
gồm hai phần: một là, nhóm vấn đề; hai là, nhóm phương án lựa chọn đã
chuẩn bị. Khi trả lời yêu cầu học viên dự thi chọn ra một phương án thích
hợp nhất từ trong các lựa chọn trong mỗi vấn đề. Mỗi lựa chọn có thể sử
dụng một lần, cũng có thể sử dụng nhiều lần, cũng có thể một lần và cũng có
thể không sử dụng.
* Ưu điểm của trắc nghiệm ghép đôi:
+ Thích hợp sử dụng nhất cho đo lường tri thức mang tính sự kiện và
tính tương quan giữa các sự kiện.
+ Hiệu suất trắc nghiệm khá cao, diện kiến thức phủ khắp tương đối
rộng trong thời gian trắc nghiệm.
+ Câu hỏi ghép đôi dễ viết, dễ dùng, loại này thích hợp với tuổi học
sinh THCS hơn. Có thể dùng loại câu hỏi này để đo các mức trí năng khác
nhau Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ
thức hay lập các mối tương quan.
* Nhược điểm của trắc nghiệm ghép đôi:
+ Nhược điểm của nó vẫn là tồn tại những nhân tố đoán mò.
+ Loại câu hỏi trắc nghiệm ghép đôi không thích hợp cho việc thẩm
định các khả năng như sắp đặt và vận dụng các kiến thức. Muốn soạn lại loại
câu hỏi này để đo mức trí năng cao đòi hỏi nhiều công phu. Ngoài ra nếu
danh sách mỗi cột dài thì tốn nhiều thời gian cho học sinh đọc nội dung mỗi
cột trước khi ghép đôi.
2.2.2.4. Trắc nghiệm điền khuyết hay câu trả lời ngắn:
Đây là loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhưng có câu trả lời tự do.
Học sinh biết câu trả lời bằng một hay vài từ hoặc một câu ngắn.
Yêu cầu người thi điền vào chỗ trống trong mỗi câu, loại đề thi/ câu
trắc nghiệm này gọi là đề thi / câu điền vào chỗ trống.
23
* Ưu điểm của câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết hay câu trả lời ngắn:
+ Có thể đo lường mức độ ghi nhớ và lí giải kiến thức.
+ Tất cả các môn học đều có thể dùng,phạm vi ứng dụng rộng rãi.
+ Cơ hội đoán mò là rất nhỏ.
+ Học sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời khác thường, phát
huy óc sáng kiến. Học sinh không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ ra, nghĩ
ra, tìm ra câu trả lời. Dù sao việc chấm điểm vẫn nhanh hơn TNTL song rắc
rối hơn những loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan khác. Loại này cũng dễ
soạn hơn loại câu hỏi nhiều lựa chọn.
* Nhược điểm của câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết hay câu trả lời ngắn:
+ Nhìn từ bề ngoài thì đề thi điền vào chỗ trống yêu cầu hoạt động trí
lực cao hơn đề thi lựa chọn.Vì nó đưa ra câu trả lời dựa trên cơ sở tái hiện,
chứ không phải đưa ra câu trả lời dựa trên cơ sở nhận thức lại.Nhưng trên
thực tế, đề thi điền vào chỗ trống không phân tích một cách sâu sắc năng lực
nhận thức, tư duy và lý giải như đề thi lựa chọn.
+ Khó nắm bắt được đáp án người thi đưa ra, tính chính xác của đáp
án đưa ra kém, tính chủ quan của người chấm điểm nhiều hơn.
+ Khó có thể dùng máy để chấm bài thi và cho điểm.
+ Khi soạn thảo loại câu hỏi này thường dễ mắc sai lầm là trích
nguyên văn câu từ trong sách giáo khoa, rồi bỏ đi một vài từ.
Phạm vi kiểm tra của loại câu hỏi này thường chỉ giới hạn vào chi tiết
vụn vặt. Việc chấm bài mất nhiều thời gian và thiếu khách quan hơn loại câu
hỏi nhiều lựa chọn.
2.3. Câu hỏi phối hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm khách quan loại nhiều
lựa chọn với tự luận [16]
- Đây là loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan loại nhiều lựa chọn được
đặt thêm 01 câu hỏi giải thích dưới dạng thành văn “Hãy giải thích một cách
ngắn gọn vì sao chọn phương án đó”? Với loại câu hỏi này học sinh phải
24
dùng cách hành văn của chính mình để viết ra cách giải, cách suy luận, giải
thích để đưa đến kết quả mà mình đã chọn.
-
Loại câu hỏi này gần như mang đầy đủ các ưu điểm của loại câu hỏi
TNKQ loại nhiều lựa chọn và loại câu hỏi TNTL
.
Đặc biệt là nó khắc phục
được nhược điểm của loại câu hỏi nhiều lựa chọn: Loại bỏ khả năng đoán
mò, đánh giá được khả năng tư duy sáng tạo, đánh giá được trình độ tư duy
của học sinh như câu hỏi TNTL, đánh giá được khả năng sử dụng ngôn ngữ
chuyên môn của học sinh để sắp xếp, diễn đạt, trình bày một vấn đề và ít tốn
thời gian chấm bài, khách quan hơn TNTL.
- Tuy nhiên loại câu hỏi nhiều lựa chọn đã khó soạn nay lại phối hợp
với tự luận càng khó hơn vì câu hỏi này phải có nội dung như thế nào để giáo
viên đo được những gì cần đo, muốn đo mà phương pháp trắc nghiệm khách
quan không thực hiện được.
-
Khi chọn những câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn để phối hợp với tự
luận có những điểm cần lưu ý sau:
+ Phải là những câu hỏi nhiều lựa chọn hay, có nội dung để đánh giá
khả năng ở mức trí lực cao như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thực nghiệm,
óc quan sát tinh vi, nhận xét tinh tế…. vì đánh giá các mức trí lực cao là
nhược điểm của câu hỏi TNKQ, song đó lại là ưu điểm của TNTL
+ Dù là câu hỏi TNKQ hay TNTL thì học sinh phải mất thời gian suy
nghĩ tương đương, song để đảm bảo độ tin cậy cho bài kiểm tra TNKQ thì số
câu hỏi phải nhiều vì vậy phần TNTL phải là câu trả lời được viết ngắn gọn,
rõ ràng, súc tích ít tốn thời gian, do đó câu hỏi loại này cũng chỉ nên đề cập
đến một vấn đề, một nguyên tắc …, không nên hỏi nhhiều vấn đề trong một
câu như câu hỏi TNTL.
+ Do cách chấm điểm phần tự luận mang tính chủ quan nên phần tự
luận của câu hỏi loại này không nên cho quá nhiều điểm so với phần TNKQ.
25