Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.68 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TPCP : Trái phiếu Chính phủ
NSNN : Ngân sách Nhà nước
TPKB : Tín phiêu Kho bạc
UBND : Ủy ban Nhân dân
KBNN : Kho bạc Nhà nước
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Biểu tồng hợp trái phiếu chính phủ giai đoạn 2003-2010
Bảng 2 : Biểu tổng hợp các công trình giao thông giai đoạn 2003-2010
Bảng 3 : Biểu tổng hợp các công trình thủy lợi giai đoạn 2003-2010
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là chuyên đề nghiên cứu của tôi, không sao chép các
chuyên đề khác, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi kỉ luật của
khoa và nhà trường đề ra.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì đòi hỏi cần huy
động nhiều nguồn lực. Các nguồn lực bao gồm như vốn, lao động, khoa học công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên và vốn chính là một trong số những nguồn lực cơ bản
nhất. Hiện nay thì đất nước ta còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn nhiều hạn chế
mà nhu cầu đầu tư lại rất cao, chính vì thế mà một khi nắm giữ vốn trong tay thì
phải làm sao sử dụng cho thật hiệu quả. Trong tất cả các nguồn vốn mà nước ta
đang sử dụng thì nguồn vốn trái phiếu Chính phủ có tầm quan trọng nhất, tuy
nhiên trong quá trình thực tập nhận thấy việc sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ
còn có nhiều bất cập và chưa hiệu quả nên em quyết định chọn đề tài : ”Thực


trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ giai
đoạn 2003-2010” để nghiên cứu. Lựa chọn đề tài này sẽ đưa ra được một số giải
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ tốt hơn trong giai đoạn
này và có thể sử dụng cho các giai đoạn sau.
Là một sinh viên thực tập chuẩn bị ra trường, tầm hiểu biết, nhìn nhận việc
sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ còn có giới hạn, nhưng được sự giúp đỡ của
Ths. Trần Mai Hoa và các cán bộ ở Vụ đầu tư-Bộ tài chính nên em đã hoàn thành
tốt đề tài của mình.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kết cấu đề tài gồm 3 chương :
CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU VÀ TRÁI
PHIẾU CHÍNH PHỦ
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2003-2010
CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU VÀ
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
1.1. Trái phiếu
1.1.1. Khái niệm
Trái phiếu là một công cụ nợ do các cơ quan công quyền, các công ty đang
hoạt động phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường, trong đó các trái chủ được
cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định.
Về bản chất, phát hành trái phiếu chính là một hình thức vay nợ. Người mua

và sở hữu trái phiếu được gọi là trái chủ chính là chủ nợ của đơn vị phát hành. Trái
chủ được hưởng các quyền và lợi ích của một chủ nợ. Họ sẽ được ưu tiên thanh toán
tiền lãi và hoàn trả tiền gốc khi đơn vị giải thể hoặc phá sản. Thời gian đáo hạn của
trái phiếu là hữu hạn. Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ bao gồm các công ty cổ
phân mà còn bao gồm các loại hình doanh nghiệp khác. Ngoài ra, Chính phủ trung
ương và chính quyền địa phương cũng phát hành trái phiếu để huy động vốn trên thị
trường.
Tiền lãi trái phiếu thường là ổn định so với mệnh giá. Người ta thường xếp trái
phiếu vào loại chứng khoán có thu nhập ổn định. Lãi suất của các loại trái phiếu tại
các thời điểm khác nhau phụ thuộc vào cung cầu vốn trên thị trường.
Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách
của Ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của Chính phủ và phương
thức tài trợ thâm hụt đó. Lãi suất trái phiếu cũng phụ thuộc vào mức độ rủi ro của mỗi
nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi
suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn thì lãi suất càng cao. Thời gian đáo hạn của
trái phiếu cũng ảnh hưởng đến lãi suất. Nếu trái phiếu có mức rủi ro như nhau, thời
gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.1.2 Phân loại trái phiếu
1.1.2.1. Căn cứ vào hình thức thể hiện
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ ,cả trên chứng chỉ
cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng
chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người nắm giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân
hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân
hàng để nhận lại khoản cho vay.
Trái phiếu ghi danh: là trái phiếu co ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng
chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ được thực hiện cho
phàn vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộn, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ

mà đang phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật
chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sỡ hữu
trên máy tính.
1.1.21.. Theo chủ thể phát hành
+ Trái phiếu Chính phủ
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN, Chính phủ các nước thường phát
hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức
kinh tế xã hội. Chính phủ một quốc gia luôn được xem là nhà phát hành có uy tín nhất
trên thị trường. Như vậy, có thể khái quát Trái phiếu Chính phủ là công cụ vay nợ dài
hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho
các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ. Trái phiếu Chính phủ là
loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh
khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu Chính phủ thường được xem là lãi
suất chuẩn để làm căn cự ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kì hạn.
Trái phiếu Chính phủ có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ vào kỳ hạn và mục
đích phát hành thì TPCP được chia thành: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái
phiếu công trình TW, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ
quốc.
+ Trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp là các trái phiếu do các doanh nghiệp phát hành để
vay vốn dài hạn. Trái phiếu doanh nghiệp có đặc điểm là : trái chủ được trả lãi định
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào công việc của công ty.
Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới
mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại đúng mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc
thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước cổ phiếu . Trái phiếu doanh nghiệp
có thể có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản
vay. Trái phiếu doanh nghiệp bao gồm những loại sau : trái phiếu có đảm bảo và trái

phiếu không đảm bảo.
- Trái phiếu đảm bảo là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp
cụ thể , thường là các bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được
bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối
với một tài sản cụ thể.
- Trái phiếu không đảm bảo(trái phiếu tín chấp) là trái phiếu không được đảm
bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng uy tín của đơn vị phát hành. Nếu công ty bị
phá sản, các trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có
bảo đảm, nhưng trước cổ đông.
Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển
trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc
chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời
điểm cụ thể xác định. Ngoài ra, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn
kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên
nào đó như:
- Trái phiếu có thể mua lại : cho phép người phát hành mua lại chứng khoán
trước khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho
ngườ đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu
khác có cùng kì hạn.
- Trái phiếu có thể bán lại : cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán
lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong
trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn
so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi
trái phiếu thành cổ phiếu phổ thông, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành
người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhó hàng háo chứng
khoán có thể chuyển đổi.

1.1.3. Đặc điểm của trái phiếu
Trái phiếu là loại hình chứng khoán nợ, bất kỳ một loại trái phiếu nào cũng
mang những đặc điểm sau :
1.1.3.1. Tính rủi ro của trái phiếu
Trái phiếu nào cũng có tính rủi ro, mức độ cao hay thấp thì hoàn toàn phụ
thuộc vào tính chất, đặc thù của từng loại trái phiếu. Thường thì người đầu tư vào trái
phiếu đều trông chờ vào tiền lãi mà không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý
của nhà phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, trước lúc đầu tư vào trái phiếu họ cũng phi
so sánh, cân nhắc giữa tiền lời thu được từ lãi trái phiếu với lợi nhuận thu được từ
việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi nền kinh tế có những biến động tiêu cực như
tỷ lệ lạm phát, lãi suất thị trường cao, kinh tế khủng hoảng... thì những yếu tố này
cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro trong việc đầu tư vào trái phiếu. Khi
trái phiếu được lưu hành giá của trái phiếu được hình thành trên thị trường do cung và
cầu quyết định. Rủi ro đối với đầu tư vào trái phiếu thể hiện trên hai khía cạnh đó là:
Khi lãi suất thị trường tăng làm cho giá trái phiếu giảm điều này nh hưởng trực tiếp
đến lợi tức đầu tư vào trái phiếu và trong trường hợp thị trường thiếu tính thanh khon
thì việc chuyển đổi trái phiếu ra tiền mặt sẽ gặp nhiều khó khăn.
Các loại TP khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau. Cụ thể, TPCP có mức độ
rủi ro thấp nhất vì nguồn vốn thanh toán TPCP khi đến hạn được NSNN đảm bảo,
trái phiếu chính quyền địa phương thì được đảm bảo bằng ngân sách của địa phương,
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trong trường hợp nhà phát hành không có khả
năng trả nợ thì Chính phủ sẽ hỗ trợ, trong khi đó trái phiếu công ty thì có mức độ rủi
ro cao hẳn vì nguồn vốn đảm bảo thanh toán các khoản nợ phụ thuộc nhiều vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành.
1.1.3.2. Khả năng sinh lời của trái phiếu
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc của công ty, khi đầu tư
vào trái phiếu tức là nhà đầu tư sẽ thu lại được một khoản lợi tức mong đợi trong

tương lai. Thông thường đối với các loại trái phiếu có các khoản lợi tức sau:
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất trái phiếu thường được ghi trên chứng chỉ trái
phiếu hoặc người phát hành công bố, lãi suất danh nghĩa có tính ổn định cao vì tỷ lệ
lãi suất trái phiếu và mệnh giá là cố định trong một kỳ hạn.
- Lãi suất hoàn vốn hiện hành: Được hình thành khi mua bán trái phiếu trên thị
trường và nó là số đo gần đúng với lãi suất hoàn vốn, khi giá mua (hoặc bán) trái
phiếu bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành chính bằng lãi suất hoàn vốn,
nghĩa là giá trái phiếu càng gần với mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành càng gần
với lãi suất hoàn vốn. Như vậy, lãi suất hiện hành biến động cùng chiều với lãi suất
hoàn vốn.
Nếu lãi suất thị trường tăng sẽ làm sụt giảm giá trái phiếu, dẫn đến tình trạng
thua lỗ về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn dài hơn thời
gian lưu giữ trái phiếu. Lãi suất thị trường tăng quá cao có thể dẫn đến tình trạng lỗ
vốn quá lớn, khi mức lỗ về vốn cao hơn mức lãi suất hiện hành ban đầu thì lãi suất kỳ
hạn của trái phiếu trở thành lãi suất âm. Lãi suất thị trường giảm sẽ làm cho giá trái
phiếu tăng lên và sẽ có mức lời về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến
ngày đáo hạn dài hơn thời gian lưu giữ trái phiếu.
1.1.3.3. Tính thanh khoản của trái phiếu
Đó chính là khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt, mỗi một loại trái
phiếu có khả năng thanh khoản khác nhau. TPCP thông thường có tính thanh khoản
cao hơn so với các loại trái phiếu khác. Tín phiếu kho bạc là loại TPCP có tính thanh
khoản cao nhất bởi vì kỳ hạn của nó ngắn (dưới 1 năm), nó là một trong những công
cụ quan trọng của thị trường tiền tệ. Tín phiếu kho bạc cũng là một yếu tố cấu thành
khối lượng tiền trong quá trình lưu thông, nó được mua bán trên thị trường vốn còn
TPKB thường có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do vậy tín thanh khoản của TPKB thấp hơn
tín phiếu kho bạc, TPKB được giao dịch trên thị trường thứ cấp, trong quá trình này
NHTW cũng tham gia với vai trò là chiết khấu ngắn hạn các công cụ nợ dài hạn, vì
thế mà TPKB cũng là một công cụ nợ có tính thanh khoản khá cao.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
9

Website: Email : Tel : 0918.775.368
TPCP chính quyền địa phương, trái phiếu do cơ quan Chính phủ phát hành có
tính thanh khoản thấp hơn tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc. Thông qua việc
nắm bắt được đặc điểm chung của trái phiếu và các đặc điểm riêng của từng loại trái
phiếu nó giúp cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định khi tham gia đầu tư vào thị
trường đầy hấp dẫn và rủi ro này.
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của trái phiếu
Có nhiều loại trái phiếu khác nhau, nhưng các loại trái phiếu đều có chung
những yếu tố chủ yếu sau :
1.1.4.1. Mệnh giá của trái phiếu
Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị
được ghi trên trái phiếu, giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn
cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể
hiện số tiền người phát hành phi hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
1.1.4.2. Lãi suất danh nghĩa
Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công
bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm
(%) với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứ để xác định lợi tức của trái
phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong những yếu tố căn bản nhất của trái phiếu, đó là
tiêu điểm quan tâm của nhà đầu tư, do vậy, nó có ảnh hưởng nhiều đến giá của trái
phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như thời hạn của trái phiếu,
chỉ số lạm phát và những biến động khác của thị trường.
1.1.4.3. Thời hạn của trái phiếu
Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả tiền
vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần cuối được gọi là
ngày đáo hạn của trái phiếu. Có nhiều cách phân loại kỳ hạn trái phiếu khác nhau,
trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn sau: Trái phiếu ngắn hạn (có kỳ
hạn dưới một năm); trái phiếu trung hạn (có kỳ hạn từ 1 đến 5 năm), trái phiếu dài
hạn (có kỳ hạn từ 5 năm trở lên).
1.1.4.4. Kỳ trả lãi

Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Tại
nhiều nước, lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi trái
phiếu thường được thực hiện 6 tháng một lần.
1.1.4.5. Giá phát hành
Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá phát
hành được xác định theo tỷ lệ (%) của mệnh giá. Tuỳ theo tình hình của thị trường và
của người phát hành để xác định giá phát hành một cách hợp lý. Có thể phân ra 3
trường hợp sau:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá
+ Giá phát hành thấp hơn mệnh giá
+ Giá phát hành cao hơn mệnh giá
1.2. Trái phiếu Chính phủ
1.2.1. Khái niệm
Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát hành có
thời hạn, mệnh giá, lãi suất và xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người
sở hữu trái phiếu, TPCP là tên gọi chung của các loại trái phiếu do KBNN phát hành
và trái phiếu chính quyền địa phương, các cơ quan được Chính phủ cho phép phát
hành và được Chính phủ bảo lãnh.
Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp
phát hành nhằm huy động vốn cho các công trình theo chỉ định của Thủ tướng Chính
phủ, được Chính phủ cam kết trước các nhà đầu tư về việc thanh toán đúng thời hạn
của tổ chức phát hành. Trường hợp tổ chức phát hành không thực hiện được nghĩa vụ
trả gốc và lãi khi đến hạn thì Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay cho tổ chức
phát hành.
Trái phiếu Chính quyền địa phương là một loại chứng khoán nợ, do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi suất xác nhận nghĩa vụ
trả nợ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với người nắm giữ trái phiếu.

1.2.2. Các đặc điểm của trái phiếu Chính phủ
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chủ thể phát hành trái phiếu là : Chính phủ, các doanh nghiệp được Chính
phủ bảo lãnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trái phiếu được phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam hay ngoại tệ tự
do chuyển đổi. Đồng tiền sử dụng để thanh toán trái phiếu phải cùng loại với đồng
tiền lúc phát hành. Trái phiếu được phát hành dưới dạng chứng chỉ hay bút toán ghi
sổ có tên hoặc không ghi tên. Mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng, được quy định cụ
thể theo từng đợt phát hành do Bộ trưởng Bộ tài chính quy đinh.
Đối tượng mua là các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam sống ở
nước ngoài, các tổ chức, cá nhân người nước ngoài làm việc và sinh sống hợp pháp
tại Việt Nam. Đối với các tổ chức Việt Nam không được dùng nguồn kinh phí của
Nhà nước để mua trái phiếu.
1.2.3. Mục đích của việc phát hành trái phiếu
Mục đích của việc phát hành trái phiếu Chính phủ là nhằm huy động vốn để bù
đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng điểm hoặc để xây
dựng, thực hiện các chương trình mục tiêu của Chính phủ. Nguồn thanh toán trái
TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc nguồn vốn thu hồi trực tiếp từ các công trình đã
phát hành TPCP để đầu tư xây dựng mang lại. Do vậy, TPCP có tính an toàn cao, tính
rủi ro thấp bởi vì nó sử dụng chủ yếu nguồn vốn NSNN để chi trả nợ.
Đối với các loại trái phiếu do KBNN phát hành, trái phiếu chính quyền địa
phương nguồn vốn thanh toán được đảm bảo bằng vốn NSNN, còn đối với các loại
trái phiếu do các cơ quan khác được Chính phủ cho phép phát hành nguồn vốn thanh
toán được lấy trực tiếp từ nguồn thu của các chương trình, dự án đó mang lại, trong
trường hợp nếu các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành không có đủ khả
năng thanh toán các khoản nợ thì Chính phủ sẽ đứng ra trả nợ.
1.2.4. Phân loại trái phiếu Chính phủ
1.2.4.1. Tín phiếu kho bạc

Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn dưới một năm do Kho
bạc Nhà nước phát hành nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy động vốn để bù đắp
những thâm hụt tạm thời của ngân sách Nhà nước trong năm tài chính.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu, nên khối lượng
và lãi suất tín phiếu kho bạc được hình thành sau khi đấu thầu. Bộ tài chính có thể ủy
thác cho Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại Nhà nước phát hành, thanh
toán tín phiếu kho bạc.
Tham gia đấu thầu tín phiếu kho bạc bao gồm các tổ chức tín dụng hoạt động
theo Luật tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư hợp pháp
tại Việt Nam và các chi nhánh của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nếu
lượng phát hành đấu thầu không hết thì Ngân hàng Nhà nước có thể mua phần còn
lại.
Toàn bộ khoản vay từ tín phiếu kho bạc được tập trung ở ngân sách trung
ương để sử dụng theo quy định Luật ngân sách Nhà nước. Ngân sách trung ương phải
đảm bảo nguồn thanh toán gốc, lãi tín phiếu kho bạc và toàn bộ chi phí cho tổ chức
nhận ủy thác phát hành.
1.2.4.2.Trái phiếu kho bạc
Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn một năm trở lên do
Kho bạc nhà nước phát hành để huy động vốn bù đắp thiêu hụt ngân sách Nhà nước
theo dự toán ngân sách nhà nước hàng năm đã được Quốc hội quyết định.
Trái phiếu kho bạc được bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước hay qua các
đại lý, thị trường tiền tệ. Trái phiếu được bán cho các cá nhân, tổ chức, các doanh
nghiệp trong và ngòai nước hợp pháp.
Lãi suất trái phiếu kho bạc do Bộ trưởng bộ tài chính quyết định trên cơ sở
thực tế của thị trường tài chính hiện tại. Trong trường hợp đấu thầu thì lãi suất dựa
vào kết quả đấu thầu.
Khi đáo hạn thì kho bạc Nhà nước hay các tổ chức nhận ủy thác của Bộ tài

chính để thanh toán phần gốc và lãi cho các chủ sở hữu trái phiếu.
1.2.4.3.Trái phiếu công trình trung ương
Trái phiếu công trình trung ương là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ
một năm trở lên do kho bạc Nhà nước phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của Thủ tướng Chính phủ cho các dự án thuộc vốn đầu tư của ngân sách trung ương,
đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn trong năm.
Trái phiếu này chỉ phát hành khi sử dụng cho công trình nằm trong danh mục
đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ. Phương án phát hành trái phiếu, kế
hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề án do Bộ tài chính xây dựng.
Trái phiếu loại này được phát hành qua phương thức bán lẻ của Kho bạc Nhà
nước, đấu thầu hay bảo lãnh phát hành. Lãi suất trái phiếu công trình trung ương do
Bộ tài chính quyết định trên cơ sở tình hình tài chính tại thời điểm phát hành. Trong
trường hợp đấu thầu thì lãi suất được quyết định bởi lãi suất thắng thầu.
Các khoản vay từ trái phiếu công trình trung ương được tập trung ở ngân sách
trung ương để chi cho các công trình đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngân
sách trung ương đảm bảo việc thanh toán gốc và lãi cho người nắm giữ trái phiếu.
1.2.4.4.Trái phiếu đầu tư
Trái phiếu đầu tư là trái phiếu Chính phủ có kì hạn một năm trở lên do các tổ
chức Nhà nước, các tổ chức tài chính tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ định để
phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Nhà nước.
Trái phiếu này được phát hành riêng cho từng mục tiêu kinh tế, tổng mức phát
hành không được vượt quá chỉ tiêu được Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt cho từng mục tiêu cụ thể hay từng năm cụ thể. Phương án phát hành được Bộ
tài chính thẩm định, mức phát hành, thời điểm phát hành, mệnh giá, kì hạn của trái
phiếu do tổ chức phát hành kết hợp với Bộ tài chính thực hiện, Bộ trưởng Bộ tài
chính quy định lãi suất trần của trái phiếu trên cơ sở thị trường tài chính và nhu cầu

huy động vốn, trong trường hợp đấu thầu thì lãi suất được sử dụng theo lãi suất thắng
thầu và không được vượt lãi suất trần.
Tiền thu từ việc phát hành trái phiếu được theo dõi riêng và chỉ được sử dụng
cho các mục tiêu kinh tế mà Thủ tướng quyết định. Tổ chức phát hành có trách nhiệm
thanh toán gốc lãi các trái phiếu đã phát hành đến hạn thanh toán và các chi phí liên
quan đến việc tổ chức phát hành và thanh toán. Ngân sách Nhà nước thanh toán một
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần hay toàn bộ trái phiếu hoặc cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức phát hành
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với từng mục tiêu kinh tế cụ thể.
1.2.4.5.Trái phiếu ngoại tệ
Trái phiếu ngoại tệ là một loại trái phiếu Chính phủ có kì hạn một năm trở lên
do Bộ tài chính phát hành cho các mục tiêu chỉ định của Thủ tướng Chính phủ.
Trái phiếu được phát hành bằng đồng tiền là ngoại tệ tự do chuyển đổi, các
loại ngoại tệ phù hợp với nhu cầu sử dụng do Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định.
Trái phiếu ngoại tệ được bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước hoặc đấu thầu
qua hệ thông Ngân hành Nhà nước. Được phát hành theo từng đợt, Bộ tài chính xây
dựng phương án phát hành cụ thể do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khối lượng và
cơ cấu phát hành mỗi đợt phải phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn theo các mục tiêu
chỉ định của Thủ tướng. Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định thời gian, đồng tiền phát
hành, lãi suất, kì hạn, mệnh giá của trái phiếu ngoại tệ.
Ngoại tệ thu được từ các đợt phát hành sử dụng cho các mục tiêu mà Thủ
tướng Chính phủ quyết định. Ngân sách Nhà nước thanh toán gốc và lãi trái phiếu khi
đến hạn, trường hợp ngoại tệ thu được từ việc phát hành trái phiếu được bán cho
Ngân hàng Nhà Nước để dự trữ ngoại hối thì Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm
bán lại cho Bộ tài chính để thanh toán gốc và lãi khi đến hạn. Bộ tài chính quy định
mức phí phát hành và thanh toán trái phiếu ngoại tệ.
1.2.4.6. Công trái xây dựng Tổ quốc
Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ phát hành nhằm huy động nguồn

vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các
công trình thiết yếu khác phục vụ sàn xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
đất nước.
Công trái xây dưng Tổ quốc được phát hành theo quy định của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc.
Việc mua công trái được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Nhà nước đảm
bảo giá trị công trái và bảo hộ quyền sở hữu các quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu công trái.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.5 Trách nhiệm của các Bộ ngành, Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
A. Bộ Kế hoạch đầu tư
Thông báo giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ đến từng Bộ và địa
phương về tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ, tổng mức vốn trái phiếu Chính phủ
theo ngành, lĩnh vực do Bộ và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý;
danh mục dự án sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, tổng hợp nhu cầu vốn trái phiếu
Chính phủ hàng năm của các dự án đã có trong danh mục để làm căn cứ cho việc
huy động trái phiếu Chính phủ trong năm, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định.
Định kỳ 3 tháng, hàng năm và đột xuất báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình
hình thực hiện đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Chủ trì cùng Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan giám sát việc phân bổ
nguồn vốn của các Bộ, địa phương đảm bảo đúng mục đích, đối tượng và nguyên
tắc bố trí vốn; trình Thủ tướng Chính phủ xử lý những vấn đề phát sinh vượt quá
thẩm quyền trong quá trình thực hiện.
B. Bộ tài chính
Tổ chức thực hiện phát hành trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch và tiến độ

thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Thực hiện hạch toán, quyết toán nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính
phủ và việc sử dụng nguồn vốn này; tổ chức quản lý, cấp phát, thanh toán, quyết
toán vốn đầu tư các dự án theo đúng quy định.
Định kỳ 3 tháng báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình huy động và việc
cấp phát, thanh toán vốn đầu tư cho các công trình.
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan trình Thủ
tướng Chính phủ xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.
C. Ngân hàn Nhà nước Việt Nam
Phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức đấu thầu phát hành trái phiếu Chính phủ
qua hệ thống ngân hàng.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tổ chức mua lại nguồn ngoại tệ thu được từ việc phát hành trái phiếu bằng
ngoại tệ để bổ sung dự trữ ngoại hối của Nhà nước và bán ngoại tệ cho Bộ Tài
chính để thanh toán tiền gốc và lãi trái phiếu bằng ngoại tệ khi đến hạn.
D. Các Bộ: Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quốc phòng
và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Sau khi nhận được thông báo giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ, triển
khai việc phân bổ nguồn vốn trên cho từng công trình, dự án theo thứ tự và nguyên
tắc nêu tại Điều 3, 4 Quyết định này.
- Chỉ bố trí vốn cho các dự án đã có đủ các thủ tục đầu tư theo đúng các
quy định về quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành.
- Trường hợp không đủ nguồn để bố trí cho công trình, dự án thì phải giãn
tiến độ sau năm 2010 hoặc sử dụng nguồn vốn khác để triển khai.
- Đăng ký phương án phân bổ vốn đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính để theo dõi và cấp phát thanh toán.
- Đối với đường giao thông ô tô đến trung tâm các xã chưa có đường ô tô,
ngoài nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, các địa phương cần bố trí ngân sách địa

phương và huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác, kể cả việc huy động từ
đóng góp của cộng đồng dân cư để đầu tư.
Hàng năm đề xuất nhu cầu về mức vốn trái phiếu Chính phủ vào kỳ báo cáo
kế hoạch gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp nhu cầu vốn của
các công trình, dự án đã có trong danh mục làm căn cứ huy động trái phiếu Chính
phủ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Hàng quý báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch của các dự án sử dụng
nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để
tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Các Bộ, địa phương sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ phải tập trung
chỉ đạo tổ chức thực hiện khẩn trương, dứt điểm, đảm bảo chất lượng, đúng chế độ
quy định, sớm đưa công trình vào sử dụng phát huy hiệu quả, không để xảy ra tình
trạng thất thoát, lãng phí, tiêu cực.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý quy hoạch, quản lý vốn đầu tư các dự
án đường tuần tra biên giới, phê duyệt các dự án thành phần theo địa bàn từng tỉnh,
thời gian thực hiện dự án thành phần không quá 2 năm.
1.2.6. Vai trò và chức năng của trái phiếu Chính phủ trong việc huy động vốn đầu
tư phát triển
Để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 và
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, một trong
những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách là phải mở rộng quy mô và đẩy nhanh tốc độ huy
động vốn. Xuất phát từ cấu trúc địa hình và đặc điểm phức tạp của khí hậu nước ta,
giao thông và thuỷ lợi là một trong những lĩnh vực trọng điểm được nhà nước ưu tiên
đầu tư, nhằm tạo ra những điều kiện tiền đề để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
giảm dần sự cách biệt giữa miền núi và miền xuôi, góp phần nâng cao dân trí xoá đối
giảm nghèo, bảo đảm an ninh quuốc phòng của Tổ quốc. Trong những năm trước,
việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ đã huy động được một

khối lượng vốn lớn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, nguồn vốn trong nước này đã
góp phần đáp ứng nhu cầu chi của Ngân sách. Với tốc độ phát triển thời kỳ 1991-
1995 nguồn vốn vay của Nhà nước qua trái phiếu Chính phủ là 1,3% GDP, chiếm
29% tổng số bội chi NSNN; thời kỳ 1996-2000 là 1,4% GDP, chiếm 33% tổng số bội
chi NSNN, thời kỳ 2001-2003 vay bằng trái phiếu Chính phủ cao hơn, chiếm 53%
tổng số bội chi NSNN. Kết quả đó huy động vốn trong nước có vai trò rất quan trọng
đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Theo tính toán của các ngành chức
năng, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, mỗi năm chúng ta cần khoảng 250 ngàn
tỷ đồng cho đầu tư phát triển, riêng lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi nhu cầu vốn bổ xung
cho các công trình trọng điểm mỗi năm trên 15 ngàn tỷ đồng. Được Nhà nước và các
ngành, địa phương quan tâm, việc xây dưng các công trình giao thông thuỷ lợi đạt tốc
độ tương đối nhanh. Chính vì vậy nhu cầu về vốn đầu tư cũng trở lên cấp bách.
Trái phiếu Chính phủ là một trong những công cụ quan trọng trong việc điều
hành chinh sách tài khoá và chính sách tiền tệ quốc gia. TPCP gồm nhiều loại với các
kì hạn khác nhau, tất cả đều có tác động riêng đến một nền kinh tế trong các giai đoạn
khác nhau. Tín phiếu kho bạc vừa có vai trò là huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân
sách vừa là công cụ của thị trường tiền tệ, ngay cả những nước phát triển họ cũng
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát hành trái phiếu ngắn hạn để đảm bảo hàng hoá giúp thị trường tiền tệ hoạt động.
Trái phiếu kho bạc là công cụ huy động vốn cho NSNN và cả đầu tư phát triển, đặc
biệt là các cơ sở hạ tầng quan trọng của đất nước, và thông qua đó sẽ thu hút được các
nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu quốc gia, trong trường hợp NSNN
không bị thâm hụt thì Bộ tài chính cũng phát hành trái phiếu kho bạc để thực hiện
chính sách tiền tệ. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (số 182/2003/QĐ-TTg
ngày 05/9/2003) nhu cầu vốn cho đầu tư các công trình giao thông thuỷ lợi giai đoạn
2003-2010 sẽ được huy động dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ là 63
ngàn tỷ đồng.
Trong điều kiện kinh tế đang khó khăn, nguồn thu NSNN còn hạn hẹp. Nhu

cầu chi cho NSNN và chi cho đầu tư lại đang cần thiết, dẫn đến tình trạng mất cân
bằng thu chi. Đê giải quyết các vấn đề này thì Chính phủ có thể vay mượn nước ngoài
hay tốt hơn là nguồn lực trong nước với việc phát hành trái phiếu Chính phủ, việc sử
dụng công cụ huy động vốn này đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Trong
xu thế hội nhập kinh tế thế giới huy động vốn qua kênh TPCP đang được Chính phủ
sử dụng cùng với tự do hoá thị trường vốn trong nước thì việc phát hành TPCP sẽ thu
hút được nhiều nhà đầu tư.
1.3. Sự phát triển của hình thức trái phiếu Chính phủ
1.3.1 Giai đoạn kháng chiến
Ở nước ta, trong thời kỳ đầu lập nước và giữ nước, Chính phủ cũng đã áp dụng
các hình thức công phiếu để huy động sự đóng góp và vay của dân để tăng cường
nguồn lực tài chính phục vụ cho các mục tiêu chính trị, quân sự và phát triển kinh tế
đất nước trong từng thời kỳ. Sau khi giành được chính quyền, để giải quyết những
khó khăn về mặt tài chính, ngày 16/7/1946 Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
đã ra sắc lệnh số 122 cho phép Uỷ ban hành chính Nam bộ phát hành công trái vay
của dân 5 triệu đồng, lãi đồng niên không quá 5% để phục vụ cho cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp ở Nam bộ. Năm 1948, Bác Hồ ký sắc lệnh số 160-SL ngày
14/4/1948 cho phép phát hành trong toàn quốc “Công trái kháng chiến”. Nhằm một
là: Huy động số tiền nhàn rỗi trong dân để phục vụ sản xuất và chiến đấu; hai là:
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dùng công phiếu kháng chiến như một thứ tiền dự trữ với lãi suất 3%, thời hạn trả lãi
5 năm, đến năm 1950, trên tinh thần tổng động viên, Chính phủ cho phép phát hành
loại ỎCông trái quốc giaÕ ghi bằng thóc để đảm bảo giá trị số tiền vay lãi suất 3%
thời hạn 5 năm (Sắc lệnh số 139-SL ngày 19/9/1950).
1.3.2. Thời kì xây dựng đất nước
Thời kỳ xây dựng đất nước, để tăng cường huy động vốn phục vụ cho nhu cầu
đầu tư phát triển, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu nhanh chóng hội nhập
cộng đồng quốc tế. Ngày 25/11/1983 Chính phủ ban hành pháp lệnh về việc phát hành

ỎCông trái xây dựng Tổ QuốcÕ bằng đồng Việt Nam, bằng thóc, bằng ngoại tệ thời
hạn công trái là 10 năm, 5 năm, đảm bảo bằng một số mặt hàng chiến lược. Với mục
đích cải thiện tình hình tài chính - ngân sách góp phần ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội.
1.3.3. Khi thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước
Khi hệ thống Kho bạc Nhà nước mới được thành lập, với chức năng và nhiệm
vụ chủ yếu là quản lý quỹ NSNN. Thực hiện nhiệm vụ huy động vốn cho NSNN và
cho đầu tư phát triển: phát hành các hình thức tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ với
nhiều hình thức, các loại kỳ hạn, lãi suất khác nhau, nhằm huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội, mà chủ yếu là nguồn vốn trong dân cư để bù đắp thiếu hụt
NSNN và tăng cường nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Cụ thể là: Các loại tín phiếu
Kho bạc thời hạn dưới 12 tháng thường được phát hành để bù đắp khoản thiếu hụt
ngân sách tạm thời khi nguồn thu chưa đến hạn, các loại trái phiếu KBNN có thời hạn
dài hơn được dùng để bù đắp bội chi NSNN hàng năm. Công trái Nhà nước được phát
hành theo đợt, nhằm thu hút vốn thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội lớn của
đất nước.
- Ngày 13/3/1991 Nhà nước phát hành tín phiếu KBNN các loại thời hạn 3
tháng, 6 tháng, có ghi địa chỉ người mua, có lãi thanh toán 1 lần cả gốc và lãi, thanh
toán trước hạn không được trả lãi.
- Ngày 15/7/1992 Chính phủ phát hành tín phiếu nhằm xây dựng đường dây tải
điện 500 KW Bắc - Nam thời hạn phát hành 1, 2, 3 năm đối tượng bắt buộc.
- Tháng 11/1993 Nhà nước phát hành tín phiếu trả lãi trước thời hạn 6 tháng,
12 tháng.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ giữa năm 1995 đến nay, KBNN đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước
thành lập và đưa vào hoạt động thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, tạo thêm một
kênh huy động vốn mới cho NSNN, thời gian huy động vốn nhanh, lãi suất thấp hơn
hình thức bán lẻ trái phiếu, thuận lợi cho người phát hành và nhà đầu tư. Ngoài ra,

KBNN còn phối hợp với và hướng dẫn UBND các tỉnh, các Bộ, ngành xây dựng đề
án huy động vốn đầu tư cho các công trình thuộc các ngành: Xi măng, thuỷ điện; cơ
sở hạ tầng tỉnh Bình Thuận, Tiền Giang, Cà Mau, Khánh Hoà, Lào Cai, Hà Nội, TP
Hồ Chí Minh với số vốn huy động hàng nghìn tỷ đồng.
- Tháng 5/1999, Nhà nước phát hành công trái xây dựng Tổ quốc kỳ hạn 5 năm
lãi suất 10% năm. Nhằm huy động vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng cho 1000 xã nghèo
đặc biệt khó khăn.
- Năm 2001 Nhà nước phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm lãi suất 6,8 ; 7 %
năm
- Năm 2002 Nhà nước phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm lãi suất 7,1;7,4; 7,8
% năm
- Căn cứ Nghị quyết số 414/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc phát hành trái phiếu Chính phủ để xây dựng một số công trình giao
thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước. Chính phủ đã phát hành 110.000 tỷ đồng
trái phiếu để thực hiện Nghị quyết này.
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ
Một hoạt động đầu tư diễn ra bao giờ cũng có mục đích và mục tiêu rõ ràng.
Có những dự án đầu tư thì mang nặng tính chất kinh tế, có những dự án lại mang ý
nghĩa xã hội. Nguồn vốn TPCP là nguồn vốn huy động từ tầng lớp dân cư nên hiệu
quả quả bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu. Và hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu
Chính phủ được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Trước hết, thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện: đây là tổng số
tiền đã chi ra để tiến hành các hoạt động đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác đền
bù, giải phóng mặt bằng, công tác xây dựng, chi phí tư vấn, chi phí mua sắm các trang
thiết bị máy móc, chi phí quản lý…phải so sánh những chỉ tiêu này với những chỉ tiêu
đã tính toán. Thông thường thì tiêu chí kết quả này sẽ được xem xét trong hàng năm
nhằm có những thay đổi hợp lý đảm bảo nguồn vốn của nhà nước được thực hiện
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368

đúng mục đích và các dự án trọng điểm sẽ được ưu tiên sử dụng vốn trước vì mục
tiêu phát triển chung. Tiếp đến là thời gian và khối lượng công trình hay hạng mục
công trình đã được hoàn thành và có khả năng phát huy độc lập đưa vào sử dụng.
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả
kinh tế-xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các
kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. Tùy vào mục tiêu của tưng dự án và các định
hướng chiến lược mà có tiêu chuẩn đánh giá khác nhau. Với nguồn vốn TPCP thì chỉ
tiêu xã hội vẫn được đặt lên hàng đầu. Khi một dự án đem lại cho xã hội một lợi ích
lớn hơn cái giá mà xã hội phải trả đồng thời đáp ứng một số yêu cầu về kinh tế thì dự
án mới gọi là hiệu quả. Và các chỉ tiêu về xã hôi như sau luôn được đặt lên hàng đầu
để xem xét dự án sử dụng vốn TPCP có hiệu quả hay không:
- Mức độ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống dân cư
được thể hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm, mức độ tăng
trưởng phát triển của vùng.
- Thể hiện qua các số liệu về số lao động có việc làm, trình độ văn hóa xã hội,
mức sống, tuổi thọ bình quân của vùng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRÁI PHIẾU
CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2003-2010
2.1. Tình hình huy động vốn trái phiếu Chính phủ
2.1.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn trái phiếu Chính phủ
2.1.1.1 Nhân tố khách quan
- Nhân tố về kinh tế: mặc dù trong mấy năm gần đây, đất nước ta có tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế cao, tuy nhiên, vẫn có nhiều khó khăn do trình độ
phát triển kinh tế chưa cao với dân cư đang còn nghèo nên việc huy động vốn trong
nhân dân cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nhân tố về thu nhập: Thu nhập bình quân đầu ngươi trong cả nước còn thấp,

tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao, tích luỹ trong dân cư chưa lớn, chưa đồng đều mà chỉ tập
trung vào một số hộ, một số doanh nghiệp tư nhân. Trình độ dân trí thấp nên việc phát
hành trái phiếu Chính phủ của Kho bạc để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa đạt
hiệu quả cao.
- Nhân tố lạm phát: Do tình hình lạm phát còn lớn, đồng tiền vẫn bị mất giá, do
vậy rủi ro là không tránh khỏi. Dù lãi suất cao nhưng tiền mất giá thì lãi suất không bù
được vốn gốc, người dân mua trái phiếu Kho bạc phải chịu lãi suất âm. Đó là lý do
khiến người dân không dám mạo hiểm bỏ tiền vào mua trái phiếu Chính phủ. Do đó,
lạm phát cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động vốn của KBNN.
2.1.1.2 Nhân tố chủ quan
- Nhân tố lãi suất: Đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc huy động vốn.
Người dân mua trái phiếu Chính phủ trước tiên phải xem xét yếu tố lãi suất vì cho
Nhà nước vay cũng là đầu tư gián tiếp, mà đầu tư phải sinh lợi, ít nhất là sinh lợi đó
phải bằng lợi tức bình quân của các ngành kinh tế đạt được sau khi bảo toàn vốn.
Song lãi suất Chính phủ chưa hấp dẫn được người dân trong khi người dân có thói
quen gửi tiết kiệm Ngân hàng vì lãi suất Ngân hàng cao hơn, linh hoạt hơn, dễ rút vốn
hơn.
Thực tế đã có nhiều đợt lãi suất Ngân hàng cao hơn nên dân đã rút tiền ra chịu không
hưởng lãi để quay sang gửi tiết kiệm Ngân hàng. Hiện nay lãi suất trái phiếu Chính
phủ đã phần nào hấp dẫn được dân chúng, do vậy việc huy động vốn qua phát hành
trái phiếu Chính phủ ở hệ thống KBNN đã tăng lên.
- Nhân tố thông tin, tuyên truyền: Do thông tin, tuyên truyền còn hạn chế, chưa
tổ chức được mạng lưới tuyên truyền rộng rãi trên địa bàn cả nước, chưa có hoạt động
Marketing chuyên sâu nên người dân chưa quen với trái phiếu Chính phủ. Tập quán
cho Nhà nước vay dài hạn chưa hình thành vững chắc trong dân cư nên họ chưa tin
vào tương lai của việc mua trái phiếu.
- Nhân tố về tổ chức công tác huy động vốn: Việc tổ chức phát hành trái phiếu
Chính phủ tại các địa bàn như thế nào cũng là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới
việc huy động vốn.
2.1.2. Tình hình huy động vốn

Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.2.1. Tín phiếu kho bạc
Trong các đợt phát hành, tín phiếu kho bạc có các kỳ hạn 91 ngày, 182 ngày,
273 ngày và 364 ngày. Lãi suất phát hành tín phiếu kho bạc được xác định trên cơ sở
kết quả từng đợt đấu thầu.. Việc đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện theo một
trong hai hình thức đấu thầu cạnh tranh lãi suất, hoặc kết hợp giữa đấu thầu cạnh
tranh lãi suất với đầu thầu không cạnh tranh lãi suất. Hoạt động tín phiếu kho bạc qua
NHNN đã đem lại những kết quả thiết thưc. Qua nhiều năm hoạt động thì thị trường
tín phiếu kho bạc đã phát triển về cả quy mô lẫn tần suất thực hiện. Hầu hết là khối
lượng huy động năm sau nhiều hơn năm trước và đây cũng chính là nguồn để bù đắp
thiếu hụt NSNN, lãi suất ngày càng ổn định, tăng giảm theo đúng giá trị của thị
trường theo từng năm.
2.1.2.2. Trái phiếu kho bạc
Kho bạc Nhà nước đã thực hiện nhiệm vụ phát hành trái phiếu huy động vốn
đầu tư cho các công trình trọng điểm của nền kinh tế. Ngày 24/9/2003, Bộ chính trị đã
ban hành chỉ thị số 28-CT/TW và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết số
414/2003/NQ- UBTVQH; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
182/2003/QĐ-TTg về việc phát hành trái phiếu Kho bạc để đầu tư một số công trình
giao thông thuỷ lợi quan trọng của đất nước giai đoạn 2003 – 2010 như: Dự án đường
Hồ Chí Minh, vành đai biên giới phía Bắc, Hành lang Côn Minh- Hải phòng, các
công trình thuỷ lợi, thuỷ điện. Chính phủ đã phát hành nhiều đợt TPKB với các khối
lượng và lãi suất khác nhau, như đợt 1 năm 2003 đã phát hành lô đầu tiên với lãi suất
8.2%/năm, đến 2005 phát hành với lãi suất 8.4%/năm …
2.1.2.3. Trái phiếu công trình trung ương
Trong đợt phát hành trái phiếu công trình đợt 1, số tiền thu được đạt gần 4.500
tỷ VND và trên 31 triệu USD, vượt hơn 10% kế hoạch. Trong đó, số tiền thu được
qua đợt phát hành này chủ yếu dưới hình thức qua Kho bạc Nhà nước, đạt trên 2.400
tỷ VND, và hơn 22 triệu USD, bảo lãnh khoảng 1.400 tỷ VND, đấu thầu qua ngân

hàng Nhà nước là 9 triệu USD. Trong đợt 2, KBNN phát hành gần 10000 tỉ đồng.
Trái phiếu công trình phát hành trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất
định, đây là một kênh huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để đầu
tư cho các công trình (chủ yếu là cơ sở hạ tầng). Việc phát hành trái phiếu công trình
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cũng làm phong phú và đa dạng hoá các loại hình trái phiếu trên thị trường. Đồng
thời, trái phiếu công trình TW đã được sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị
trường mở, qua đó tạo thuận lợi thu hút thêm các thành viên tham gia vào thị trường,
nâng cao khả năng điều tiết tiền tệ của NHNN. Nhờ có nguồn vốn huy động từ kênh
phát hành này mà một số công trình (YaLy, Định Công... ) đã có nguồn vốn để đẩy
nhanh tiến độ của dự án, sớm đưa các dự án đi vào hoạt động, khai thác có hiệu quả,
tạo ra nguồn thu ổn định đảm bảo thanh toán các khoản nợ khi đến hạn, qua đó nâng
cao uy tín, tạo đà thuận lợi cho các đợt phát hành tiếp theo.
2.1.2.4. Trái phiếu đầu tư
Lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ đầu tư cho y tế sẽ được phát hành trong giai
đoạn từ nay đến 2010. Lượng trái phiếu sẽ được phát hành lên đến 4.000 tỷ đồng. Số
tiền này sẽ được đầu tư cho bệnh viện tuyến huyện ở 64 tỉnh thành trong cả nước, với
quy mô 50 - 380 giường bệnh/bệnh viện.
2.1.2.5. Trái phiếu ngoại tệ
Nghị định số 141/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/11/2003 đã
mở ra một kênh huy động vốn để đầu tư phát triển các công trình trọng điểm của đất
nước, trong năm 2003 và 2004 Bộ Tài chính (KBNN) đã phát hành trái phiếu Chính
phủ có mệnh giá bằng USD. Phát hành trái phiếu Chính phủ có mệnh giá bằng ngoại
tệ, là một bước đi mới trong công tác phát hành trái phiếu Chính phủ, tạo cơ hội đầu
tư mới, giúp người dân làm quen với hình thức đầu tư trái phiếu có mệnh giá bằng
ngoại tệ.
300 triệu USD trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ sẽ được đấu thầu trong ba
đợt và bắt đầu từ ngày 24/3, với đợt đầu tiên dành cho 100 triệu USD trái phiếu kỳ

hạn 1 năm. Các kỳ hạn tiếp theo, 100 triệu USD kỳ hạn 2 năm đấu thầu vào 24/3 và
100 triệu USD kỳ hạn 3 năm đấu thầu vào vào 27/3. Phiên đấu giá đầu tiên phát hành
Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đã thắng lớn khi 100 triệu USD chào bán đã được
mua hết với lãi suất chỉ 3%/năm. Phiên này chào bán trái phiếu ngoại tệ đã rất hấp
dẫn các tổ chức đầu tư khi số lượng thành viên tham gia dự thầu là 30 thành viên với
tổng khối lượng dự thầu lên tới 766 triệu USD, gấp 7,66 lần khối lượng gọi thầu.
Hai phiên đấu giá kỳ hạn 2 năm và 3 năm tiếp theo thì bán không hết hàng do
các nhà đầu tư không đạt được kỳ vọng về lãi suất. Ngày 27/3, cũng như các lần
Phan Thanh Hoài GVHD: Ths. Trần Mai Hoa
25

×