Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Khái quát về văn hóa phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.77 KB, 44 trang )


1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG

GS. TS. Mai Ngọc Chừ
Khoa Đông phương học

* Sơ lược về lịch sử và các nền văn hoá phương Đông

* Các khu vực văn hoá phương Đông từ góc nhìn
khu vực học

* Những đặc điểm chủ yếu của văn hoá phương Đông

* Sự ảnh hưởng của các nền văn hoá phương Đông
ra khu vực và thế giới

* Các thành tựu và những mặt hạn chế
của văn hoá phương Đông

Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn
bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Mặc dù khái niệm Đông phương học (Oriental
Studies) xuất phát từ phương Tây song vai trò của Đông phương học nói chung, văn hoá
phương Đông nói riêng càng ngày càng được giới khoa học thế giới khẳng định và quan
tâm. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, v.v. phương
Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nói đến phương Đông, người ta không thể
không nhắc đến những nền văn hoá - văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ,
Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo
và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Nói đến phương Đông,
người ta cũng nhắc ngay đến các đại ngữ hệ như Nam Á, Nam đảo, Hán - Tạng, Thái -
Kađai, Antai, v.v. ; đến những công trình văn hoá kì vĩ như Ăngco Voat, Vạn lí trường


thành, Borobudur, các kim tự tháp Ai Cập, v.v. Và, từ góc nhìn văn hoá hiện đại, phương
Đông còn làm cho thế giới ngạc nhiên về “sự thần kì Nhật Bản”, về hàng loạt các con
rồng châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, v.v. Tóm lại, phương
Đông là một khu vực văn hoá có “bản sắc” riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện
đại.
I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ CÁC NỀN VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG
1. Phương Đông với sự bao phủ toàn bộ châu Á và một phần châu Phi, là nơi có
điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng. Vì vậy, ngay từ khi có xã hội loài người, nơi
đây đã từng là khu vực sinh tồn của bầy người nguyên thuỷ. Rồi theo sự phát triển của
lịch sử, ở phương Đông dần dần xuất hiện công xã thị tộc, bộ lạc và sau đó là các nhà
nước.
Ngày nay các nhà khoa học đã khẳng định một cách chắc chăn rằng phương Đông
là nơi xuất hiện những nhà nước chiếm hữu nô lệ tối cổ. Các nhà nước ấy chính là các
nền văn minh xét trên góc độ văn hoá. Người ta thường nói đến bốn nền văn hoá - văn
minh Phương Đông: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Và có một nét đặc biệt là
những nhà nước gắn liền với các nền văn hoá - văn minh phương Đông thường xuất hiện
trên lưu vực những dòng sông lớn từ bờ biển phía đông Địa Trung Hải đến bờ biển Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương: Lưu vực sông Nin ở Ai Cập; lưu vực Lưỡng Hà tạo bởi
sông Tigrơ (Tigre) và Ơphơrat (Euphrate) cùng chảy ra vịnh Pecxich; lưu vực đồng bằng
bắc Ấn Độ tạo bởi sông Ấn (Hindus) và sông Hằng (Gangga); và lưu vực hai con sông

2
lớn Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang) tạo ra vùng đồng bằng Hoa Bắc và Hoa
Trung màu mỡ. Phân lập các lưu vực rộng lớn nói trên là những hệ thống núi non trùng
điệp và những sa mạc mênh mông: sa mạc Arập ở đông Ai Cập, dãy núi Zagrôt ở phía
đông Lưỡng Hà, dãy Himalaya và cao nguyên Pamir ở bắc và đông bắc Ấn Độ, rồi vùng
sa mạc Nội Mông, Ngoại Mông ở bắc và tây bắc Trung Hoa. Địa thế hiểm trở cùng với
những phương tiện giao thông hết sức hạn chế thời đó đã làm cho các nền văn hoá - văn
minh cổ đại phương Đông xuất hiện và phát triển một cách tương đối độc lập, vì vậy mỗi
nền văn hoá - văn minh có tính chất độc đáo riêng và mang dấu ấn dân tộc đậm đà

[Chiêm Tế, 2000, 63 - 64].


Sông Ấn
Sông Ấn nhìn từ Vệ tinh


Sông Nin

Nói chung, các lưu vực sông ở phương Đông nói trên đều tạo thành những đồng
bằng rộng lớn và phì nhiêu, rất phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp. Những “hằng
số” tự nhiên đó là: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác. Chính vì
vậy cư dân các khu vực nói trên đã sớm gắn bó với việc sản xuất nông nghiệp, nhất là
nghề trồng lúa nước. Bên cạnh trồng trọt, các gia đình còn chăn nuôi gia súc và gia cầm,
một số làm các nghề thủ công như sản xuất nông cụ, dệt vải, làm đồ gốm, v.v. Tuy nhiên
nghề thủ công phương Đông chỉ có tính chất bổ trợ cho nền kinh tế khép kín của làng xã,
không phát triển thành kinh tế hàng hoá thị trường. Như vậy là kinh tế nông nghiệp đóng
vai trò chủ đạo của các quốc gia phương Đông.
2. Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử phát triển của nhân loại – tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên
đã nói, nông nghiệp ở phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo. Khi nông nghiệp

3
phát triển thì tổ chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai
cấp và hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại
sớm nhất (dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ) là vào khoảng thế kỉ thứ IV TCN.
Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc và cũng không chấm
dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà
(thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các nhà nước ở khu vực sông Ấn, sông Hằng và
Hoàng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III TCN). Về sự “lụi tàn” của các nhà nước chiếm hữu

nô lệ phương Đông cũng tương tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở vùng Trung Cận Đông sụp
đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéo dài mãi đến tận những
thế kỉ đầu công nguyên.
Các nhà nước cổ đại phương Đông không chỉ có những đặc trưng chung của một
xã hội chiếm hữu nô lệ mà còn có những đặc điểm riêng mang màu sắc phương Đông,
như sau [Chiêm Tế, 2000, 65 – 66].
- Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội
đang còn ở trình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới, nên xã hội
chiếm hữu nô lệ không thể phát triển nhanh chóng, khiến các quốc gia đó, nói chung,
không trở thành những xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình.
- Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức công xã nông thôn, tàn tích của
xã hội thị tộc thời nguyên thuỷ, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất
trong các xã hội cổ đại phương Đông. Nói như C. Mac (trong thư gửi Ph. Ăngghen ngày
2 – 6 – 1853): “Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở của tất cả các hiện
tượng ở phương Đông”. Ăngghen cũng có nhận xét tương tự khi ông viết (trong thư gửi
lại cho C. Mac ngày 6 – 6 – 1853): “Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất thực sự
là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ phương Đông”.
- Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc
lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành
sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí chủ đạo. Nô lệ
phương Đông không phải là lực lượng chính làm ra của cải vật chất. Tuyệt đại đa số nô lệ
được sử dụng để hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Điều
này cũng dễ hiểu bởi ở các quốc gia nông nghiệp phương Đông, nhà nước bóc lột nông
dân là chính, bằng chế độ lao dịch, thuế khoá.
- Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt -
nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền – gọi là chủ nghĩa chuyên chế
phương Đông. Các quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi
vua các nước đó nắm được quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả
nước. Có thể nói khắp dưới gầm trời không đâu không phải đất nhà vua, khắp dưới mặt
đất không đâu không phải thần dân của nhà vua [Cao Liên, 2003, 29]. Do nắm được tư

liệu sản xuất là toàn bộ ruộng đất nên các nhà vua đã dùng nó để ràng buộc các thần dân
và nắm trọn quyền chính trị. Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nước quân chủ chuyên
chế trung ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê phòng lụt, bảo vệ mùa
màng. Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào trung ương để có thể huy động
được sức người sức của, nhân tài vật lực. Ngoài ra các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương
Đông còn phải tiến hành các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo vệ lãnh thổ
của mình, do đó cũng cần phải tập trung quyền lực vào tay trung ương để huy động lực
lượng vật chất và tinh thần.
Tóm lại, với bộ máy bạo lực to lớn, với việc đề cao đến mức thần thánh hoá nhà
vua, các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô,
bảo vệ quyền lợi và tài sản của giai cấp thống trị, đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông
dân, giữ vững địa vị thống trị của chủ nô. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các nhà

4
nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng, phát triển
được những nền văn hoá đa dạng, độc đáo, với nhiều thành tựu rực rỡ về chữ viết, văn
học nghệ thuật, khoa học tự nhiên, triết học, v.v. và hàng loạt những công trình văn hoá
vật chất đồ sộ vẫn sống mãi với thời gian. Những thành tựu văn hoá rực rỡ ấy đã làm cho
các quốc gia cổ đại phương Đông trở thành những trung tâm của các nền văn hoá - văn
minh thế giới cổ đại.
3. Vào những năm cuối cùng TCN hoặc những năm đầu công nguyên, nhìn chung
các quốc gia phương Đông đều kết thúc chế độ nô lệ và lần lượt chuyển sang xã hội
phong kiến.
Vào thời kì trung đại, nền kinh tế chủ yếu của các nhà nước phong kiến phương
Đông vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Trong xã hội phong kiến, giai cấp
phong kiến quý tộc và sau này thêm tầng lớp địa chủ, là giai cấp nắm tư liệu sản xuất,
nắm ruộng đất nên là giai cấp thống trị. Giai cấp bị trị là nông dân. Ở phương Đông, khi
kinh tế phong kiến là điền trang thái ấp thì nông dân chịu thân phận nông nô còn khi kinh
tế phong kiến chuyển sang hình thức địa chủ thì nông dân trở thành tá điền.
Trong các nhà nước phong kiến phương Đông, nhà nước phong kiến Trung Hoa

là một điển hình. Đặc trưng của kiểu nhà nước này là có một chính thể quân chủ chuyên
chế tập quyền cao độ, hoàn hảo. Dưới chế độ phong kiến, vua là người nắm trong tay
toàn bộ quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vua được mệnh danh là Thiên tử. Và bộ
máy nhà nước do vua đứng đầu có một uy quyền vô cùng to lớn.
Trong lịch sử, chế độ phong kiến phương Đông tồn tại dai dẳng: khoảng 20 thế kỉ
(Tính từ đầu công nguyên đến những năm đầu của thế kỉ XX). Thời điểm bắt đầu thoái
hoá của của các nhà nước phong kiến phương Đông có thể tính từ thế kỉ XVI – XVII trở
đi. Vào thời điểm đó, giai cấp phong kiến phương Đông trở nên phản động, kìm hãm sự
phát triển của đất nước. Các nhà nước phong kiến phương Đông vẫn duy trì tình trạng
kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bóp chết những mầm mống của nền
kinh tế hàng hoá và những quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hơn nữa các nhà nước còn thi hành chính sách bế quan toả cảng, đóng cửa, không giao
lưu với thế giới bên ngoài. Trong khi đó thì cũng đúng vào thời điểm ấy, các nước
phương Tây tiến hành cách mạng tư sản, xác lập chủ nghĩa tư bản và tiến hành xâm lược
các nước nhằm mở rộng thị trường mà đối tượng được chúng “để mắt đến” chính là các
quốc gia phương Đông. Khi cuộc chiến tranh xâm lược của phương Tây nổ ra, giai cấp
phong kiến phương Đông nói chung đều nhân nhượng, thoả hiệp và đầu hàng. Do vậy từ
thế kỉ XVI đến XIX, trừ Nhật Bản, tất cả các nước phương Đông đều bị biến thành nước
nửa thuộc địa hoặc thuộc địa của các nước tư bản phương Tây.
Nhìn chung, trong chế độ phong kiến, các nền văn hoá phương Đông vẫn toả
sáng. Những “chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông vẫn có sức lan toả mạnh mẽ ra
các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn hoá Ấn Độ được truyền bá sang Đông Nam Á,
Tây Tạng, Bắc Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; văn hoá Trung Quốc,
đặc biệt là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các
nước khác; Văn hoá Ai Cập - Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không lâu song những thành tựu
của nó không chỉ có ảnh hưởng trong khu vực mà còn toả sáng ra các khu vực khác của
thế giới, v.v. Cùng với sự lan toả của các nền văn hoá cổ đại là sự xuất hiện của các nền
văn hoá mới như Arập, Nhật Bản, Korea, v.v. Bức tranh văn hoá phương Đông, do vậy
càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa đấu tranh chống lại sự đô hộ của
chủ nghĩa tư bản phương Tây, các dân tộc phương Đông vừa tiếp thu những yếu tố văn

hoá mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho vườn hoa văn hoá của dân tộc mình.
Bức tranh văn hoá phương Đông từ đây càng ngày càng rực rỡ sắc màu.


5
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia phương Đông lần lượt giành
được độc lập dân tộc. Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, từ đây các nền văn hoá
dân tộc phương Đông như một vườn hoa được chăm sóc cẩn thận và khoa học nên phát
triển tốt tươi và đượm nhiều hương sắc. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia phương Đông.
II. CÁC KHU VỰC VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG TỪ GÓC NHÌN KHU
VỰC HỌC
Là một khu vực văn hoá thống nhất, rộng lớn, phân chia văn hoá phương Đông ra
thành các khu vực nhỏ hơn là một việc làm không hề đơn giản. Khó có một “nhát cắt”
thật rạch ròi giữa các khu vực hay các vùng văn hoá. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ văn
hoá các khu vực luôn có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Do vậy, sự phân chia văn
hoá phương Đông thành các khu vực văn hoá dựa trên lãnh thổ địa lí cũng chỉ có ý nghĩa
tương đối mà thôi. Với một quan niệm như vậy, từ góc nhìn khu vực học, chúng ta có thể
tạm thời phân chia văn hoá phương Đông thành 6 khu vực dưới đây
1
.
1. Đông Bắc Á 4. Trung Á
2. Đông Nam Á 5. Bắc Á
3. Nam Á 6. Tây Á - Bắc Phi
1. KHU VỰC ĐÔNG BẮC Á
Có người gọi khu vực này là Đông Á. Đây là khu vực của các nền văn hoá Trung
Hoa, Nhật Bản, Korea, trong đó văn hoá Trung Hoa là trung tâm. Văn hoá Nhật và văn
hoá Korea chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hoá Trung Hoa, vì vậy một số học giả coi đây
là những nền văn hoá “vệ tinh” của văn hoá Trung Hoa. Văn hoá Việt Nam một phần

cũng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa.
Khu vực văn hoá Đông Bắc Á có thể phân nhỏ thành các vùng văn hoá như sau.
1.1 Vùng lưu vực sông Hoàng Hà
Lưu vực sông Hoàng Hà (tức sông vàng) là trung tâm của văn minh Trung Hoa.
Sông Hoàng Hà có nguồn nước do tuyết tan bắt đầu từ vùng núi Côn Lôn phía bắc
tỉnh Thanh Hải - Tây Tạng, chạy dài 5.460 km qua 9 tỉnh [Trịnh Huy Hoá, 2001, 17], đổ
vào Bột Hải, tạo ra một vùng châu thổ rộng lớn lên tới 740.00 km
2
. Đây là con sông
nhiều phù sa nhất thế giới, mỗi năm mang theo 12 tỷ tấn phù sa. Vì dòng chảy của sông
này đi qua vùng bình nguyên đất vàng, nên nó cuốn theo một khối lượng khổng lồ đất
phù sa, đất sỏi vàng (do đó có tên sông vàng).
Khí hậu khô, lạnh của vùng này rất thuận lợi cho việc trồng các loại cao lương,
ngũ cốc.
Khu vực này được bao bọc bởi cao nguyên ở phía tây, thảo nguyên và sa mạc
Gôbi ở phía bắc, nên cũng thuận lợi cho sự phát triển du mục.
Do ít tiếp xúc với biển (chỉ khoảng 700 km bờ biển, trong khi chiều rộng nội địa
lên tới 5000 km), khí hậu khu vực này mang tính lục địa rõ rệt. Về mùa đông, trời rất
lạnh bởi những đợt gió tràn xuống từ vùng Sibir. Việc trồng cấy một phần nhờ lượng
nước mưa (trung bình hàng năm khoảng 600 mm), một phần nhờ nước do băng tan.


1
Cách phân chia này và một số thông tin liên quan chúng tôi dựa vào bài viết của GS. TSKH Vũ
Minh Giang: “Khu vực học với nghiên cứu phương Đông”. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia lần thứ nhất
mang tên “Đông phương học Việt Nam”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001, trang 53.


6


Hạ lưu sông Hoàng Hà
Với điều kiện sống như trên, văn hoá khu vực lưu vực sông Hoàng Hà có một số
đặc điểm chính như sau:
- Sản xuất: Kinh tế nông nghiệp khô là chủ đạo, ngoài ra còn có du mục và
thương nghiệp. Thuỷ lợi phát triển.
- Văn hoá vật chất phục vụ đời sống: Ăn bánh bao, cháo kê, thịt cừu, thịt dê; Mặc
đồ dệt bằng tơ gai, lụa; Ở nhà hầm đào dưới đất; Đi xe.
- Văn hoá tâm linh: Nho giáo phát triển mạnh và chi phối toàn bộ đời sống tâm
linh; Phật giáo Thiền và Đạo giáo có ảnh hưởng sâu rộng; Tin vào định mệnh, sùng đạo
Thần Tiên.
- Văn hoá đạo đức: Trọng lễ nghĩa, tuổi tác, trọng chức tước, học thức.
1.2 Vùng lưu vực sông Dương Tử (Trường Giang, Hoa Nam, Lưỡng Hồ)
Con sông dài nhất Trung Quốc (và dài thứ ba thế giới) này dài tới 6.300 km (vì
vậy còn có tên là Trường Giang – tức sông dài) [Trịnh Huy Hoá, 2001, 16]. Dương Tử
bắt nguồn từ miền Tây tỉnh Thanh Hải, chạy vòng xuống Tây Tạng, Côn Minh, Tứ
Xuyên rồi ngược lên hồ Động Đình, qua Giang Tô, Thượng Hải và đổ ra biển. Đây là khu
vực của sông, hồ, với lượng mưa lớn. Hồ Động Đình rộng tới 3.000 km
2
. Lượng mưa
trung bình hàng năm khoảng 1.000 mm. Toàn bộ lưu vực sông Dương Tử rộng tới
1.800.000 km
2
. Khí hậu ấm áp, khác hẳn vùng Hoàng Hà. Khu vực này, vì vậy, rất thuận
lợi cho phát triển nông nghiệp. Một nửa sản lượng lương thực của Trung Quốc được gieo
trồng trên vùng đồng bằng sông Dương Tử, đặc biệt là gạo. Tuy nhiên, đây cũng là vùng
có nhiều bão, lũ.
Sông Dương Tử chia Trung Quốc ra thành hai miền: miền Bắc và miền Nam.
Từ thời cổ đại, các tộc người phi Hán đã định cư ở đây. Người Bách Việt sống ở
bờ nam sông Dương Tử. Đến thời Xuân Thu, vùng này bị nước Sở chiếm giữ. Năm 223,
Sở bị Tần thôn tính. Từ đây diễn ra quá trình Hán hoá rất mạnh. Tất nhiên, văn hoá Hán

cũng tiếp thu nhiều yếu tố văn hoá phương Nam.

7

Sông Dương Tử

Văn hoá vùng lưu vực sông Dương Tử có những đặc điểm chính như sau:
- Sản xuất: Trồng lúa nước là chủ đạo.
- Văn hoá vật chất: Thức ăn tổng hợp, thuỷ sản có vai trò quan trọng trong bữa ăn;
mặc nhẹ, mát; nhà làm bằng tre, nứa.
- Văn hoá tâm linh: Tục thờ cúng tổ tiên, sùng bái tự nhiên; đạo Giáo phổ biến.
- Văn hoá ứng xử, quy phạm đạo đức: Coi trọng quan hệ cộng đồng, huyết thống;
thích nếp sống giản dị.

Hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử, như trên đã nói, tạo ra cả một khu vực
đồng bằng rộng lớn Hoa Bắc và Hoa Trung do đó cư dân sống ở khu vực này, ngoài
những đặc điểm văn hoá mang bản sắc riêng ở từng lưu vực con sông, vẫn có những đặc
điểm chung nhất định do nghề nông quy định. Do vậy sự phân chia thành hai vùng văn
hoá như trên cũng chỉ có tính tương đối mà thôi.
1.3 Quần đảo Nhật Bản
Cùng với 4 đảo lớn là Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và gần 4000 hòn đảo
lớn nhỏ khác bao quanh, Nhật Bản là quốc gia “toàn đảo”. Bờ biển của Nhật Bản có
chiều dài tới 29.000 km. Núi rừng chiếm khoảng 72% lãnh thổ. Các triền núi đều khá dốc
do đó việc canh tác nông nghiệp rất khó khăn. Núi lửa nhiều: khoảng 200, trong đó 67
ngọn vẫn “sống”. Sông ít, nhỏ, ngắn, nghèo phù sa. Đồng bằng nhỏ, hẹp, chủ yếu do
nham thạch của núi lửa tạo ra. Đất canh tác chỉ vào khoảng 2,5 triệu hecta. Những điều
kiện địa lí như trên buộc người Nhật phải hướng cuộc sống ra phía biển, do đó nghề hàng
hải và đánh bắt cá phát triển.



Gỏi Nhật Bản


8
Khí hậu của Nhật Bản rất khác biệt: ở phía bắc, vùng Hokkaido và vùng núi tây
bắc đảo Honshu về mùa đông lạnh như Sibir, ở phía nam, vùng đảo Kyushu thì lại có khí
hậu nhiệt đới, vì vậy là vùng đất tràn trề ánh nắng. Nhật Bản là quốc gia nổi tiếng về
thiên tai: động đất, núi lửa, lụt lội, sóng thần, bão gió, v.v. Điều kiện tự nhiên như vậy rõ
ràng có ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển nông nghiệp.
Đối với Nhật Bản, biển đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Chính biển đã xoá
đi sự cô lập với thế giới bên ngoài của Nhật Bản. Sự phát triển của hàng hải, đặc biệt là
hệ thống cảng biển, đã làm cho Nhật Bản vươn xa ra thế giới bên ngoài, trong đó có cả sự
du nhập những yếu tố văn hoá - văn minh từ các khu vực khác nhau của thế giới.
Do địa hình chủ yếu là thung lũng (khoảng 300), bị chia cắt thành nhiều vùng núi
lửa nên quần đảo Nhật Bản tạo ra nhiều tiểu vùng văn hoá địa phương. Các tiểu vùng đó
là: Đông hải đạo (đồng bằng Kanto), Tây hải đạo (đảo Kyushu), Nam hải đạo (đảo
Shinkoku và các đảo phía nam), Bắc hải đạo (đảo Hokkaido), Bắc lục đạo (vùng núi phía
bắc, chủ yếu là hai tỉnh Nigata và Kanazawa) và Kinki (vùng đồng bằng Kansai).
Những đặc điểm chung nhất về văn hoá của Nhật Bản có thể kể đến là như sau.
- Sản xuất: Trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, đánh bắt cá.
- Văn hoá vật chất:
+ Ăn cơm với cá và các loại hải sản khác. Ăn đũa.
+ Mặc đồ ấm, chắc, bền.
+ Ở nhà sàn như nhiều quốc gia Đông Nam Á.
+ Đi lại bằng tàu, thuyền rất phổ biến.
- Văn hoá tâm linh: Thần đạo (Shinto) rất thịnh hành.
- Văn hoá ứng xử và quy phạm đạo đức:
+ Trọng chữ tín
+ Tính kỉ luật cao
+ Tiết kiệm, cần cù, nhẫn nại; có ý thức rõ rệt về bổn phận và nghĩa vụ; chu

đáo, tỉ mỉ, cẩn thận;
+ Vừa giữ gìn tính khép kín cộng đồng (do hoàn cảnh sống biệt lập với thế
giới lục địa) vừa muốn tìm hiểu, học tập cái hay, cái tốt của người khác (do hướng ngoại
nhờ biển).
1.4 Bán đảo Korea (Triều Tiên, Hàn)
Bán đảo Korea có 3 mặt giáp biển: Phía tây là biển Hoàng Hải (biển vàng), phía
nam là eo Cao Ly, phía đông là biển Nhật Bản. Dọc theo bờ biển ở phía tây và phía nam
có khoảng 3000 hòn đảo. Tổng diện tích bán đảo vào khoảng 210.500 km
2
.


Kim chi Hàn Quốc


Địa hình Korea là địa hình núi. Núi chạy suốt sườn đông từ bắc xuống nam, núi
ngăn cách Korea với Trung Quốc. Có hai ngọn núi nổi tiếng là Kumgang (nghĩa là kim

9
cương) và Sorak (nghĩa là tuyết bao phủ). Ở phía bắc có cao nguyên Kaema (với độ cao
trung bình 990 m). Ngoài núi, phần lãnh thổ còn lại chủ yếu là các vùng đất thấp, bao
gồm các bình nguyên ven biển và các thung lũng bám dọc theo sông.
Tuyệt đại đa số các sông của Korea đều ngắn, nước chảy xiết và đều đổ ra Hoàng
Hải. Hai sông dài nhất là Yalu và Tumen đều bắt nguồn từ đỉnh núi Paektu ở phía bắc.
Sông Yalu dài 800 km đổ ra vịnh Cao Ly ở phía tây. Sông Tumen đổ ra biển Nhật Bản ở
phía đông. Ở Nam Korea (Hàn Quốc), sông dài nhất là Naktong, dài 530 km. Ngoài ra
còn có sông Hàn, sông Kum là những con sông cung cấp lượng nước chủ yếu cho sản
xuất nông nghiệp của Hàn Quốc.
Korea có 4 mùa. Khí hậu đặc trưng là Đông Á gió mùa, nóng và ẩm ướt vào mùa
hạ, lạnh và khô hanh vào mùa đông. Mùa hạ, lượng mưa chiếm tới 70% lượng mưa cả

năm. Lượng mưa hàng năm ở miền Bắc thường thấp hơn ở miền Nam: miền Bắc lượng
mưa vào khoảng 600 mm – 1000 mm, trong khi ở miền Nam là 1000 mm – 1200 mm.
Mùa đông miền Bắc lạnh hơn miền Nam. Ở miền Bắc nhiệt độ thấp nhất có thể xuống
đến –10
0
C.
Lịch sử cổ đại Korea gắn liền với nhà nước Choson mà những người tiền sử của
nó có thể thuộc về nhóm ngôn ngữ Altai từ Sibir, Mãn Châu và Mông Cổ di cư đến. Họ
là những thợ săn, ngư dân, nông dân theo tín ngưỡng Shaman (đa thần giáo). Và tại đây
đã diễn ra sự cộng cư với cư dân bản địa để hình thành nên dân tộc Hàn ngày nay.
Trên những nét chung nhất, văn hoá Korea có những đặc điểm sau.
- Sản xuất: Trồng lúa nước, lúa mì, lúa mạch và các loại rau đậu; chăn nuôi gia
súc; đánh bắt cá.
- Văn hoá vật chất: Ăn cơm với cá và rau dưa (kim chi), thích gia vị, ăn đũa; ở
nhà một tầng hình chữ L, chữ U hoặc chữ nhật, làm bằng đất sét và gỗ, mái tranh; mặc
ấm.
- Đạo đức, lối sống: Theo đạo Khổng nên hoà hiếu, tôn trong quan hệ thứ bậc
trong cư xử , hiếu kính cha mẹ, trung thành với bạn bè.
- Tính cách: Thẳng thắn, bộc trực.
- Văn hoá tâm linh: Shaman giáo (thờ cúng các thần linh của thiên nhiên); nhiều
người theo đạo Phật, đạo Lão.

Ngoài 4 vùng văn hoá nêu trên, ở khu vực Đông Bắc Á còn có một vùng văn hoá
nữa thuộc đồng bằng sông Hắc Long Giang (Mãn Châu). Vùng văn hoá này vừa mang
những đặc trưng của văn hoá Trung Hoa vừa mang những đặc trưng của văn hoá Bắc Á
mà chúng tôi sẽ giới thiệu ở dưới.
2. KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
Đông Nam Á ngày nay bao gồm 11 nước: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan,
Myanmar (Miến Điện), Malaysia, Indonesia, Singapore, Brunei, Philippines và Đông
Timor. Tuy nhiên xét về văn hoá truyền thống, phạm vi của nền văn hoá này rộng hơn

lãnh thổ 11 nước hiện nay. Khu vực văn hoá Đông Nam Á về phía tây đến bang Assam
của Ấn Độ, về phía bắc lên đến phía nam bờ Dương Tử, về phía đông đến quần đảo
Philippines và về phía nam đến các đảo cực nam của Indonesia. Do ở cạnh hai nền văn
hoá - văn minh lớn của nhân loại là văn hoá - văn minh Trung Quốc và văn hoá - văn
minh Ấn Độ nên Đông Nam Á đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hoá từ hai nền văn hoá - văn
minh này.
Đặc điểm nổi bật nhất của Đông Nam Á về điều kiện tự nhiên là tính chất nhiệt
đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều. Đông Nam Á là nơi có độ ẩm cao nhất thế giới. Khí
hậu biển cũng là một đặc điểm tự nhiên quan trọng. Đường bờ biển dài là nguyên nhân
gây ra mưa nhiều và khiến cho lượng hơi nước luôn luôn dư thừa trên đất liền. Có thể

10
nói, biển và gió mùa, khí hậu nóng và ẩm đã biến Đông Nam Á thành thiên đường của
thế giới thực vật. Với lượng mưa lớn từ 1500 đến 3000 mm / năm (có nơi đến 4000 mm),
lượng bức xạ mặt trời cao trên 100 kcal. M
2
/năm, độ ẩm tới mức trên 80% và nhiệt độ
trung bình lên tới 20
0
C đến 27
0
C, Đông Nam Á đã tạo ra những cánh rừng nhiệt đới bao
la với đủ các loại thảo mộc quý hiếm và có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là các loại cây gia
vị và hương liệu. Cũng nhờ điều kiện tự nhiên nêu trên mà Đông Nam Á đã trở thành khu
vực được mệnh danh là quê hương của cây lúa nước – cây lương thực số một của nhân
loại.



Nhà sàn Ê đê


Ở Đông Nam Á có sự đối lập khá rõ giữa khu vực lục địa (bán đảo Trung Ấn) với
khu vực hải đảo. Khu vực lục địa, ngoài địa hình núi còn có những đồng bằng phù sa màu
mỡ nổi tiếng như đồng bằng châu thổ sông Hồng (Việt Nam), đồng bằng sông Mêcông
(Cămpuchia, Việt Nam, …), đồng bằng sông Menam (Thái lan), đồng bằng sông Irawadi,
Salusen (Myanmar). So với khu vực lục địa, đồng bằng ở hải đảo thường nhỏ hẹp. Tuy
nhiên, so với khu vực lục địa, rừng ở các nước hải đảo lại có phần trù phú hơn.
Đông Nam Á có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Đây là một nguồn lợi lớn về kinh
tế, trước hết là về mặt giao thông vận tải. Các sông lớn có giá trị kinh tế cao phần lớn đều
nằm ở bán đảo Trung Ấn: sông Mêcông (dài 4500 km, đoạn chảy vào khu vực Đông
Nam Á dài 2600 km), sông Hồng, sông Saluen (3200 km), sông Irawadi (2150 km), sông
Menam (1200 km). Các sông ở khu vực hải đảo thường ngắn, dốc và có giá trị thuỷ điện
cao. Nhìn chung, các sông ở Đông Nam Á nhiều nước, dòng chảy trên mặt có lưu lượng
lớn, hàm lượng phù sa cao, tạo nên các vùng châu thổ rộng lớn, màu mỡ. Trữ năng thuỷ
điện của các con sông ở vùng này cũng thật đáng kể: Indonesia 20 triệu kw, Việt Nam 20
triệu kw, Lào 12,4 triệu kw, Thái lan 8 triệu kw.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, Đông Nam Á cũng thường xuyên phải đối mặt với
những khó khăn, trở ngại không nhỏ do thiên nhiên gây ra. Đó là nạn động đất, núi lửa,
bão gió, lụt lội, hạn hán, sâu bệnh, v.v. Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể, thiên nhiên
Đông Nam Á khá thuận lợi cho cuộc sống của con người, nhất là cho cuộc sống của con
người trong buổi đầu lịch sử nhân loại. Có thể nói khu vực này có thế mạnh tự nhiên cho
sự phát triển nông nghiệp.
Những đặc điểm văn hoá tiêu biểu của Đông Nam Á có thể kể đến là:
- Sản xuất: Trồng lúa nước, đánh bắt cá, trồng một số cây công nghiệp (cao su, cà
phê, chè, v.v.).
- Văn hoá vật chất:
+ Ăn cơm với rau, cá và các sản phẩm đồng quê như cua, ốc, hến, … , các
loại gia vị, hương liệu. Thức ăn tươi sống. Nhiều vùng ăn bốc.
+ Mặc thoáng, mát.


11
+ Ở nhà sàn.
+ Đi lại bằng thuyền.
- Văn hoá tâm linh: Sùng bái tự nhiên, thờ cúng tổ tiên. Hồi giáo, Phật giáo,
Hinđu giáo, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều người.
- Đạo đức, lối sống: Văn hoá nông nghiệp nên trọng tình hơn lí, trọng quan hệ
thân tộc, quan hệ cộng đồng; trọng tuổi tác, kinh nghiệm. Chế độ mẫu hệ ra đời sớm và
tồn tại lâu dài.
3. KHU VỰC NAM Á
Khu vực Nam Á nằm ở phía nam dãy Himalaya. Khu vực này được ngăn cách bởi
biển Arập ở phía tây, vịnh Belgan ở phía đông và Ấn Độ Dương ở phía nam. Thuộc về
Nam Á có 6 quốc gia: Srilanka, Ấn Độ, Pakistan, Nepan, Banglades và Butan.

Dãy núi Himalaya với độ cao hơn 8000 m (trong đó đỉnh Êvơret cao nhất thế giới
lên tới 8848 m), chiều rộng 300 km, chiều dài 2414 km chắn ở phía bắc đã làm ảnh
hưởng trực tiếp đến khí hậu của 3 nước là Nepan, Butan, Banglades và một phần Ấn Độ.
Vùng đồng bằng Ấn – Hằng được tạo nên bởi sông Ấn (Hindus) và sông Hằng
(Gangga) là phần lãnh thổ bao trùm phần lớn diện tích của Pakistan, và một phần diện
tích của Ấn Độ và Banlades. Hai con sông này đều bắt nguồn từ dãy Himalaya nhưng
sông Ấn (Hindus) chạy về phía tây dọc theo lãnh thổ Pakistan, đổ ra biển Arập còn sông
Hằng (Gangga) thì chạy từ tây sang đông, qua Ấn Độ và Banglades rồi đổ ra vịnh
Belgan. Sông Ấn với chiều dài khoảng 2900 km đã tạo ra cả một vùng đồng bằng rộng
lớn cho Pakistan còn sông Hằng với chiều dài 3090 km thì tạo nên hàng triệu hecta đồng
bằng cho Ấn Độ và Banglades. Đồng bằng Ấn – Hằng trở thành cái nôi của một nền văn
hoá - văn minh cổ xưa và rực rỡ ở châu Á.
Phía nam bán đảo Ấn Độ là vùng cao nguyên Dekkan được ngăn cách bởi các dãy
núi bao bọc xung quanh: dãy Vindhya và dãy Satpura ở phía bắc, ngăn cách với vùng
đồng bằng Ấn – Hằng, dãy Gat Tây ngăn cách với biển Arập và dãy Gat Đông ngăn cách
với vịnh Belgan. Do bị vây kín như vậy nên
khí hậu vùng cao nguyên Dekkan khá khắc nghiệt, đất đai thì khô cằn, sản xuất kém phát

triển.
Khu vực Nam Á có những đặc trưng văn hoá chủ yếu dưới đây.
- Sản xuất: Trồng lúa nước là chủ đạo. Ngoài ra còn trồng lúa khô và phát triển
kinh tế du mục. Thuỷ lợi giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
- Văn hoá vật chất:
+ Thức ăn chính là cơm song nhiều vùng thiếu lương thực. Ăn bốc ở nhiều
vùng.
+ Đi lại: Nhờ sông Ấn và sông Hằng cùng với các nhánh dày đặc của nó
mà thuyền bè Ấn Độ đã đi lại, buôn bán với nhiều nơi trên thế giới.

12
- Văn hoá ứng xử, đạo đức: Chế độ đẳng cấp nặng nề, trọng sự phục tùng, cam
chịu.
- Văn hoá tâm linh: Quê hương của Phật giáo, Hinđu giáo.
4. KHU VỰC TRUNG Á
Từ đông sang tây, khu vực Trung Á có điểm đầu là khu tự trị Tân Cương của
Trung Quốc và điểm cuối là biển Kaspi.
Đặc điểm tự nhiên nổi bật của khu vực này là có nhiều hoang mạc (như hoang
mạc Karakuma, hoang mạc Takla Makah, …) và hầu như không có biển (trừ bờ biển
Kaspi của Tuyêcmenistan). Đây là khu vực có nhiều núi cao: Pamir ở tây bắc cao trung
bình 4000 m, Himalaya ở phía nam cao trên 8000 m, v.v. Đây cũng là khu vực có nhiều
thung lũng và thảo nguyên rộng tới triệu hecta, rất thuận lợi cho chăn nuôi phát triển.


Xét về vị trí địa lí, khu vực Trung Á được phân thành 3 vùng:
- Vùng phía nam: Ngăn cách với Nam Á bởi dãy Himalaya. Phía đông tính từ cao
nguyên Tây Tạng (Tibet), phía tây giới hạn đến vịnh Pecxich qua Apganistan. Con đường
đông – tây này đã được cư dân Arập sử dụng đi lại buôn bán khi chưa mở được đường
biển.
-Vùng phía tây gồm Tuyêcmenistan, Uzebekistan và một phần Kazaktan. Nhờ có

biển Kaspi, Aral và hai con sông Syr Daria, Amour Daria điều tiết mà vùng này khí hậu
ôn hoà hơn, thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp.
- Khu vực khép kín còn lại (phần lớn là những nước cộng hoà thuộc vùng Trung
Á của Liên Xô cũ), bao gồm cả hoang mạc rộng lớn Karakuma ở Tuyêcmenistan (rộng
tới 350.000 km
2
).
Nói chung khí hậu khu vực Trung Á thuộc loại khô. Lượng mưa trung bình hàng
năm chỉ vào khoảng 200 mm. Nhiệt độ rất chênh lệch: chênh lệch giữa mùa đông và mùa
hè (có nơi mùa hè lên tới 48
0
C nhưng mùa đông lại xuống tới –63
0
C như vùng
Tadjikistan), chênh lệch giữa vùng này với vùng khác, thậm chí ngay trong một ngày (ở
Tuyêcmenistan và Kazaktan, vào mùa hè, nhiệt độ trong cùng một ngày ở thung lũng là
30
0
C thì ở vùng núi là 5
0
C). Có những đỉnh núi tuyết phủ quanh năm.
Tuyệt đại đa số cư dân Trung Á phát triển kinh tế du mục, lấy chăn nuôi gia súc
làm nghề sản xuất chủ yếu. Đời sống kinh tế thấp kém làm cho xã hội phát triển chậm.
Đây là khu vực văn minh nhà nước ra đời muộn, còn lưu giữ đậm nét các yếu tố văn hoá
của chế độ thị tộc, bộ lạc.
Những đặc điểm văn hoá đáng chú ý là:
- Sản xuất: Kinh tế du mục, chăn nuôi các loại gia súc như cừu, ngựa; trồng bông
lấy sợi.
- Văn hoá vật chất:
+ Ăn thịt, uống sữa; làm bánh từ các loại ngũ cốc.

+ Mặc ấm: quần áo làm từ bông, da thú, lông thú.

13
+ Đời sống du mục nên ở lều di động, nay đây mai đó.
- Văn hoá ứng xử, đạo đức: Coi trọng sức mạnh, tổ chức quân sự kỉ luật, chặt
chẽ; đề cao và tuân phục thủ lĩnh.
- Văn hoá tâm linh: Theo tín ngưỡng đa thần, Hồi giáo có sức mạnh to lớn.
5. KHU VỰC BẮC Á
Đây là khu vực rộng lớn, nằm ở phía bắc châu Á, chạy dài theo chiều đông – tây
từ biển Ôkhốt đến dãy núi Uran (ở Kazakstan).
Địa hình khu vực Bắc Á đan xen giữa thảo nguyên, rừng già với các sông lớn
(như Obi, Ienisei), hồ lớn (Baikal) và sa mạc (Gobi).
Khí hậu khu vực Bắc Á quá khắc nghiệt: khô và rất lạnh. Vùng Sibir có khi lạnh
xuống mức –70
0
C. Khí hậu ở đây lạnh đến mức các hồ nước phần lớn thời gian trong
năm đều đóng băng. Nước ít lạnh như Mông Cổ về mùa đông nhiệt độ cũng có thể xuống
mức –30
0
C. Điều kiện tự nhiên như trên làm cho khu vực này đất rộng nhưng bị bỏ
hoang nhiều. Tài nguyên thiên nhiên giàu về tiềm năng nhưng chưa được khai thác. Cuộc
sống của cư dân ở đây chủ yếu là du mục, do vậy kinh tế kém phát triển, quá trình hình
thành xã hội văn minh đến muộn.
Văn hoá khu vực này được đặc trưng bằng những yếu tố chủ yếu dưới đây.


Sa mạc Sahara
- Sản xuất: Du mục, chăn nuôi cừu, ngựa, lạc đà.
- Văn hoá vật chất: Ăn thịt, uống sữa; mặc ấm, quần áo chủ yếu bằng da thú dày,
nhiều lông; ở lều di động, đốt lửa; đi lại bằng lạc đà, ngựa; dùng cung tên rất giỏi.

- Văn hoá ứng xử, đạo đức: Coi trọng sức mạnh quân sự, suy tôn và tuân thủ nhất
luật theo thủ lĩnh.
- Văn hoá tâm linh: Rất sùng bái tự nhiên; Hồi giáo, Phật giáo du nhập từ ngoài
vào và được cải biến, có ảnh hưởng đáng kể trong đời sống xã hội.
6. KHU VỰC TÂY Á - BẮC PHI
Tây Á - Bắc Phi (hay Trung Đông – Bắc Phi), như tên gọi của nó đã chỉ ra, thuộc
về hai châu lục nên điều kiện tự nhiên khá đa dạng cả về địa hình, khí hậu lẫn môi trường
sinh thái.
Khu vực này bao hàm các quốc gia ở bán đảo Arập (Arập xêut, Yêmen, Oman,
…), lưu vực Lưỡng Hà, bờ tây vịnh Pecxich (Irắc, Côoet, bán đảo Arabi, Tây Iran), Tiền
Á (các nước ở phía đông Địa Trung Hải như Siri, Libăng, Gioocđani, ixraen), bán đảo
Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kì - nước nay thuộc châu Âu nhưng văn hoá truyền thống phương
Đông), các nước thuộc đông – bắc Phi (Ai cập, Xu đăng) và các nước thuộc khu vực phía
bắc sa mạc Sahara (Libi, Algiêri, Tuynizi, …). Cũng có thể xếp vào khu vực này cả
những nước như Armeni, Azerbaizan, v.v.
Đặc điểm nổi bật nhất về điều kiện tự nhiên của khu vực này là có nhiều sa mạc
rộng lớn: Sahara, Arập, Libi, Rub Alkhali, v.v. Diện tích sa mạc chiếm tới 70%, có nơi
lên đến 90% (Ai Cập) tổng diện tích tự nhiên khu vực.

14
Địa hình khu vực Tây Á - Bắc Phi có sự đối lập rõ rệt giữa núi cao và lòng chảo.
Có những ngọn núi cao như Saint Catherin (cao tới 2637 m) lại có các vùng sa mạc mênh
mông như Libi, thậm chí có nơi thấp hơn cả mặt nước biển như lòng chảo Kattara. Nhìn
chung khí hậu khu vực này nóng nực, khô khan, rất ít mưa. Lượng mưa ở nơi cao nhất
cũng chỉ vào khoảng 200 mm (đồng bằng Địa Trung Hải), nơi thấp nhất 25 mm (Cairo).
Tuy nhiên, “bù” lại, khu vực này có 3 con sông lớn rất có giá trị mà nguồn nước
có được chủ yếu do băng tan, đó là sông Nin dài 6.500 km ở bắc Phi, sông Tigrơ và sông
Ơphơrat ở Tây Á. Chính các con sông này, như đã nói ở trên, là mảnh đất tạo ra nền văn
hoá - văn minh cổ đại nổi tiếng ở phương Đông: Ai Cập – Lưỡng Hà. Và những gì mà
các con sông này mang lại đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp và

cây công nghiệp. Tuy nhiên, khi nước sông dâng cao thì lụt lội xảy ra là điều khó tránh
khỏi. Vùng này, vì vậy, khi là “đống cát bụi”, khi là “một biển nước” và khi là “một vườn
hoa” như người ta thường nói.
Khí hậu khu vực Tây Á - Bắc Phi cũng rất đối nghịch. Ở vùng Tây Á, nhiệt độ
ban ngày và ban đêm rất chênh lệch: ban ngày rất nóng, ban đêm rất lạnh (có nơi 46
0
C
ban ngày nhưng 6
0
C ban đêm). Nhiệt độ vùng sa mạc có thể xuống dưới 0
0
C.
Những điều vừa trình bày trên đây về điều kiện tự nhiên của khu vực Tây Á - Bắc
Phi cho thấy sự phân bố rất không đồng đều về không gian sinh thái giữa các vùng. Bởi
vậy, đối với những vùng được hưởng các nguồn lợi của tự nhiên (như đồng bằng các con
sông lớn), cư dân quan niệm đó là sự ban phát của đấng tối cao, của trời đất, do đó luôn
mang trong mình sự ngưỡng mộ và lòng cảm tạ. Trái lại, đối với những vùng khí hậu và
địa lí khắc nghiệt hoặc với những khi xảy ra thiên tai khốc liệt thì cư dân lại mang tâm lí
sợ hãi và coi đó là sự trừng phạt của đấng tối cao. Nói khác đi, trong tâm thức của cư dân
khu vực này, mọi thứ đều do Trời định. Bổn phận của người dân là tuân theo ý Trời.
Xét về mặt vị trí địa lí, Tây Á - Bắc Phi là đầu mối giao lưu quốc tế có ý nghĩa
chiến lược về nhiều mặt: Biển Arập nối thông sang Ấn Độ Dương và toàn bộ châu Á;
biển Kaspi giữ vai trò là cầu nối Đông Âu – Trung Á; Địa Trung Hải là cửa ngõ vào châu
Âu; Hồng Hải (biển Đỏ), vịnh Ađen không chỉ đơn thuần là đường giao lưu nội bộ mà
còn trở thành đường hàng hải quốc tế nhờ kênh đào Sue nối Địa Trung Hải với Ấn Độ
Dương, v.v. Vị trí địa lí như vậy đã tạo cho cư dân ở đây cuộc sống “tung hoành bốn
phương” từ rất sớm. Vì vậy buôn bán là nghề truyền thống của họ. Công việc này có tính
chất “xuyên lục địa” và mang tầm quốc tế. Đặc biệt từ khi Hồi giáo ra đời và phát triển
thì việc phối hợp giữa buôn bán và truyền bá đạo Hồi đã làm cho “bước chân” của các
nhà buôn – Muslim càng vươn xa hơn.

Khác với một số khu vực khác ở châu Á, ở Tây Á - Bắc Phi, chế độ mẫu hệ không
tồn tại dai dẳng nếu không nói là bị xoá mất từ rất sớm. Từ xa xưa, người đàn ông đã nắm
giữ vai trò chủ chốt trong gia đình và xã hội. Trước đàn ông, phụ nữ chỉ biết cúi đầu phục
tùng. Sau này, khi đạo Hồi phát triển thì địa vị của người đàn ông lại càng được đề cao
hơn nữa.
Như đã phân tích ở phần trên, khi nông nghiệp phát triển, xã hội sớm phân hoá
thành giai cấp thì nhà nước sớm ra đời. Nhà nước Ai Cập – Lưỡng Hà cũng nằm trong xu
thế chung ấy. Tuy nhiên, ở khu vực Tây Á - Bắc Phi, tình trạng thiếu đất canh tác, thiếu
nhân lực trở thành vấn đề nóng bỏng. Do vậy trong lịch sử phát triển của các bộ lạc và
các tiểu vùng ở khu vực này, những cuộc chiến tranh giành đất đai và cướp bóc gia súc,
nô lệ xảy ra rất sớm và liên miên. Bởi thế, so với các khu vực khác ở phương Đông thì xã
hội chiếm hữu nô lệ ở khu vực này tương đối điển hình.

Dưới đây là những đặc điểm văn hoá chủ yếu của khu vực.
- Sản xuất:

15
+ Nông nghiệp phát triển ở lưu vực các con sông lớn.
+ Chăn nuôi phát triển rộng khắp ở các vùng.
+ Thương mại phát triển kéo theo sự ra đời sớm các đô thị.
- Văn hoá vật chất phục vụ đời sống:
+ Bánh làm bằng bột mì, bột ngô rất phổ biến.
+ Mặc kín: Trùm đầu và mặt (vừa do khí hậu khắc nghiệt vừa do những
quy định ngặt nghèo của đạo Hồi).
+ Vận chuyển, đi lại bằng lạc đà là chính (phù hợp với địa hình sa mạc vì
con vật này có sức chịu đựng dẻo dai, có khả năng chịu được nóng bức và chịu được
khát). Một số nơi gần sông thì dùng thuyền.
- Văn hoá ứng xử, đạo đức:
+ Trọng nam. Vợ bị coi là tài sản riêng của chồng.
+ Bậc dưới tuyệt đối tuân thủ và phục tùng bậc trên.

+ Đề cao sự trung thành (thậm chí đến mức mù quáng), thù ghét sự phản
bội.
+ Trung thực, căm ghét sự lừa dối.
- Văn hoá tâm linh:
+ Sùng bái thần linh, nhất luật tin ở ý Trời.
+ Có niềm tin đến mức cuồng tín vào tôn giáo.
+ Đây là nơi phát sinh các tôn giáo lớn của thế giới: Kito giáo ở Palextin,
Hồi giáo ở Mecca. Ngày nay nơi đây vẫn là khu vực nóng bỏng nhất của Hồi giáo.
III. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
PHƯƠNG ĐÔNG
Văn hoá phương Đông rất rộng lớn về quy mô, lãnh thổ, rất đa dạng về màu sắc
và có sự tồn tại rất lâu dài về mặt lịch sử. Khái quát cho đúng, cho hết những đặc điểm
của văn hoá phương Đông quả là một công việc không hề đơn giản, nếu không nói là hết
sức khó khăn. Đây là vấn đề phức tạp và còn phải nghiên cứu nhiều. Ở đây chúng tôi mới
chỉ tập hợp và nêu lên một số nhận xét bước đầu.
1. Văn hoá phương Đông mang đậm tính chất nông nghiệp – nông thôn.
Theo chúng tôi, tính chất nông nghiệp - nông thôn là đặc điểm nổi bật nhất, là
bản sắc dễ thấy nhất của văn hoá phương Đông. Đặc điểm này thuộc về loại hình văn
hoá: Văn hoá phương Đông chủ yếu là văn hoá gốc nông nghiệp, trong khi văn hoá
phương Tây chủ yếu thuộc loại hình gốc du mục và thương nghiệp. Tất nhiên nói như thế
không có nghĩa là trong văn hoá phương Đông không có các yếu tố du mục và thương
nghiệp (như đã thấy qua việc khảo sát các khu vực văn hoá phương Đông vừa trình bày ở
trên) nhưng nhìn một cách tổng thể thì bản sắc nông nghiệp - nông thôn là nét chủ đạo.

Đường làng



16



a) Xã hội phương Đông, như đã trình bày ở các trang trước, là xã hội nông
nghiệp. Nền sản xuất cổ truyền của các xã hội phương Đông về cơ bản đều là nền sản
xuất nông nghiệp. Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung đều
thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có
mặt của những con sông lớn: Sông Nin ở Bắc Phi; sông Tigrơ, sông Ơphơrat ở Tây Á;
sông Ấn (Hindus), sông Hằng (Gangga) ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử
(Trường Giang) ở Trung Quốc; sông Mêcông ở bán đảo Trung – Ấn, sông Mênam ở Thái
Lan, sông Hồng ở Trung Quốc, Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những
đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng
sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn hoá - văn minh phương Đông. Rõ
ràng không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đưa ra các cụm từ như “văn minh sông
Hồng”, “văn minh sông Mã”, “văn minh sông Ấn - sông Hằng”, v.v. Có thể nói, ngay từ
đầu, văn hoá - văn minh phương Đông đã là văn hoá - văn minh nông nghiệp. Và đặc
điểm này “đeo đuổi” văn hoá phương Đông cho đến tận ngày nay.
Không chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến ở nhiều quốc
gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích trồng lúa trên
thế giới nằm ở châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92% tổng sản lượng của thế
giới. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc gia phương Đông,
và đó là cơ sở tạo ra loại hình văn hoá gốc nông nghiệp, tạo ra bản sắc nông nghiệp -
nông thôn của văn hoá phương Đông.
b) Tính chất nông nghiệp - nông thôn được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn hoá
và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá phương Đông.
Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp - nông thôn của văn hoá phương Đông
rất đa dạng. Có thể nêu ra ở đây một vài ví dụ.
Trước hết xin nói về văn hoá vật chất liên quan đến những nhu cầu thiết yếu nhất
của con người, đó là ăn, mặc, ở, đi lại.
Nguồn lương thực chính của người phương Đông chủ yếu là lúa gạo và các loại
ngũ cốc do nền sản xuất nông nghiệp tạo ra. Người phương Đông thường ăn cơm với các
loại thực phẩm mang tính tự cung tự cấp như rau, cá và một số loại thịt gia cầm. Các loại

gia vị, hương liệu như ớt, tiêu, rau thơm, cari, v.v. vốn là sản phẩm của sản xuất nông
nghiệp cũng được dùng phổ biến ở nhiều nơi. Vì thực phẩm mang tính tự cung tự cấp nên
thường tươi, sống và người dân thường ăn nóng.
Cách ăn mặc của cư dân phương Đông cũng phù hợp với công việc sản xuất nông
nghiệp: Nói chung mặc ấm về mùa lạnh (hoặc ở xứ lạnh) và mát mẻ về mùa nóng (hoặc ở
xứ nóng); mặc gọn gàng, tiện lợi (khố, váy, v.v.).
Nói chung, trừ một số khu vực dân cư theo loại hình kinh tế du mục nên ở lều di
động, đa số cư dân còn lại sống trong một ngôi nhà cố định. Đó có thể là nhà “nửa nổi
nửa chìm”, tức là đào sâu xuống lòng đất một chút, hoặc là ngôi nhà sàn tiện lợi về mọi
mặt.
Trong số các phương tiện đi lại thì thuyền phổ biến ở nhiều nơi, và hình thức di
chuyển này ở phương Đông rõ ràng trước hết gắn với nông nghiệp – nông thôn sau đó
mới đến yếu tố thương mại.
Không chỉ gắn liền với những yếu tố văn hoá mang “tính vật chất” phục vụ trực
tiếp đời sống thường nhật của con người như vừa trình bày ở trên, tính chất nông nghiệp
– nông thôn của văn hoá phương Đông còn được biểu hiện ở các tín ngưỡng và sinh
hoạt văn hoá dân gian rất độc đáo của khu vực.

17
Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông nghiệp phương Đông là niềm tin tín
ngưỡng và các sinh hoạt văn hoá dân gian như biểu diễn âm nhạc, múa hát, lễ hội, v.v.
Tín ngưỡng là cội nguồn của lễ hội. Trong lễ hội thường diễn ra các trò chơi và các hoạt
động ca múa dân gian. Lễ hội vừa là dịp tiến hành các nghi lễ có tính ma thuật để cầu xin
thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa là dịp để người dân vui chơi giải trí. Tín ngưỡng
và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian luôn gắn với cuộc sống của cư dân nông
nghiệp, phản ánh sâu sắc nhịp điệu lao động và đời sống tinh thần phong phú của người
dân. Tín ngưỡng bản địa và các lễ hội đã trở thành một nhân tố văn hoá đặc sắc gắn bó
với các giá trị văn hoá nông nghiệp – nông thôn cổ truyền phương Đông.
Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên. Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp, nhất là nông

nghiệp ở thời kì sơ khai khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất cả đều phụ
thuộc vào thiên nhiên, vào ý Trời. Vì vậy, ở khắp nơi, từ Đông Bắc Phi – Tây Á đến đất
nước mặt trời mọc, các quần đảo Đông Á, từ Bắc Á rồi lưu vực sông Hoàng Hà rộng lớn
cho đến các đảo cực nam Indonesia, v.v. đâu đâu người ta cũng thờ cúng các vị Thần liên
quan đến sản xuất nông nghiệp như Thần Mặt trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa,
Thần Gió, Thần Sông, v.v.
Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là hàng loạt các lễ hội nông nghiệp như
lễ hội té nước, lễ hội cầu mưa, cầu nắng, hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng được
mùa, v.v.
Ngoài tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, một loại tín ngưỡng nữa cũng khá phổ biến là
tín ngưỡng phồn thực. Với ý nghĩa “phồn” – “nhiều”, “thực” – “nảy nở”, tín ngưỡng này
mang triết lí sống điển hình cho cư dân nông nghiệp luôn hướng tới sự sinh sôi, là ước
mong duy trì và phát triển sự sống. Trong cuộc sống lấy nghề nông làm vi bản, người dân
không có mong muốn gì hơn là mùa màng tươi tốt, gia súc đầy đàn, gia đình, con cái
đông đúc đề huề. Để phát triển, theo qui luật tự nhiên cần có sự kết hợp giữa hai yếu tố
khác loại là mẹ và cha, trời và đất. Bắt đầu từ thực tế cuộc sống, con người nông nghiệp
phương Đông đã nâng tư duy phồn thực trở thành một tín ngưỡng quan trọng, gắn nó với
hàng loạt nghi thức và lễ hội đa dạng, sống động. Những tín ngưỡng và lễ hội này vừa
mang tính chất nguyên sơ, chân thực và thiêng liêng trong tâm thức vừa phản ánh tính
chất đặc trưng chung của văn hoá nông nghiệp phương Đông.
Tín ngưỡng và lễ hội phồn thực được biểu hiện ở hai khía cạnh chủ yếu: thờ sinh
thực khí và thờ hành vi giao phối. Biểu hiện thờ sinh thực khí có ở nhiều nơi. Nhiều
tượng, tháp, hình trụ, … được tạc, đắp theo hình các sinh thực khí nam nữ. Ở Ấn Độ và
hàng loạt nước Đông Nam Á, người ta đều tìm thấy rất nhiều linga (sinh thực khí nam).
Ngay ở thủ đô Seoul hiện đại ngày nay, ở nhiều nơi, kể cả trước cửa khách sạn cao sao,
người ta cũng có thể trưng bày các hình sinh thực khí được đắp rất to. Một số nhạc cụ
như chiêng, trống, dùi trống, v.v. cũng mang ý nghĩa biểu tượng của các sinh thực khí.
Cũng có khi người ta lại lấy ngay những vật có sẵn hình sinh thực khí trong tự nhiên để
thờ cúng. Chẳng hạn, cột đá hình sinh thực khí nam thờ ông Đùng ở Nhân Nghĩa, Lạc
Sơn, Hoà Bình hay kẽ nứt Lỗ Lường hình sinh thực khí nữ được thờ ở Sở Đầm, Hòn Đỏ,

Khánh Hoà, v.v.
Tính chất nông nghiệp – nông thôn còn được thể hiện qua các sinh hoạt văn hoá
dân gian như hát múa, biểu diễn âm nhạc. Các hình thức như hát đối (nhất là hát đối nam
nữ), hát ru con, hát đồng dao, v.v. đều có ở nhiều nước phương Đông, nhất là các nước
Đông Nam Á. Những điệu múa mềm mại, uyển chuyển, nhịp nhàng mang nhiều âm
hưởng của nhịp điệu lao động, mô tả các động tác cày cấy, gặt hái, v.v. cũng khá phổ
biến. Múa phương Đông rõ ràng khác với nhảy của phương Tây. Các nhạc cụ phổ biến

18
của phương Đông cũng được tạo ra từ những sản phẩm nông nghiệp (sáo, kèn, chiêng,
trống, …) và luôn mang “âm hưởng đồng quê”.
Nông nghiệp gắn liền với nông thôn. Tính chất nông nghiệp – nông thôn của văn
hoá phương Đông được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển trong một mô hình xã hội đặc
biệt: mô hình làng xã. Các công xã nông thôn, theo cách nói của C. Mac, có ảnh hưởng
rất sâu đậm đến đời sống văn hoá của cư dân nông nghiệp phương Đông. Có thể nói văn
hoá làng xã với tính cộng đồng và tính tự trị cao là một nét nổi bật của văn hoá phương
Đông.
Trong làng xã phương Đông, gia đình là một “đơn vị sản xuất”, ở đó vai trò của
người phụ nữ rất quan trọng. Sự ra đời và tồn tại dai dẳng của chế độ mẫu hệ ở nhiều khu
vực phương Đông, suy cho cùng, trên một khía cạnh nào đấy, cũng do đời sống nông
nghiệp quy định. Và đó cũng là một biểu hiện của tính chất nông nghiệp – nông thôn của
văn hoá phương Đông.
2. Về tư tưởng triết học và phương thức tư duy, phương Đông thiên về “chủ
toàn” và tổng hợp.
Theo nhận xét của GS Cao Xuân Huy, phương Đông, xét về tư tưởng triết học,
thiên về chủ toàn, trong khi phương Tây thiên về chủ biệt. Khi nhìn nhận vấn đề, phương
Đông thường chú trọng đến tính toàn diện, toàn thể, toàn cục. Tư tưởng triết học chủ toàn
có quan hệ mật thiết với phương thức tư duy tổng hợp và phép biện chứng. Khi xem xét
một sự vật, hiện tượng, người phương Đông thường nhìn nó một cách tổng thể, xem nó
như một hệ thống - cấu trúc hoàn chỉnh, ở đó các yếu tố tạo nên chỉnh thể có quan hệ với

nhau, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Người phương Đông ít chú ý đến việc phân tích
từng yếu tố tách “rời” như phương Tây mà quan tâm nhiều hơn đến mối quan hệ giữa
chúng. Có thể lấy ví dụ qua cách chữa bệnh truyền thống. Các thầy thuốc phương Đông
thường xem cơ thể con người là một “chỉnh thể hệ thống”, do vậy sự tồn tại của các cơ
quan trong cơ thể con người có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi một cơ quan nào đó bị
yếu hoặc mắc bệnh thì các thầy thuốc Đông y thường không chỉ chữa cơ quan đó mà còn
chú ý đến toàn bộ cơ thể. Khi toàn bộ cơ thể khoẻ thì sẽ “kéo” cơ quan bị yếu khoẻ lên.
Trái lại, y học phương Tây lại nặng về phân tích và chú ý đến yếu tố, do vậy thường can
thiệp trực tiếp vào cơ quan bị đau yếu trong cơ thể: đau chỗ nào thì tiêm, chích, cắt bỏ
chỗ ấy. Dĩ nhiên, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó (vì vậy
ngày nay ta mới đi theo cách Đông – Tây y kết hợp). Đau ruột thừa chẳng hạn, nếu không
can thiệp bằng cách cắt bỏ kịp thời ngay chỗ đau thì chắc chắn sẽ gây hậu quả khôn
lường. Tuy nhiên cách chữa không chú ý lắm đến “mối quan hệ giữa các cơ quan” của
phương Tây nhiều khi cũng chưa ổn, chẳng hạn, chữa được khớp thì lại “bục” dạ dày do
thuốc chữa khớp rất độc hại, rất “kị” dạ dày. Cách chữa bệnh của phương Đông tuy đòi
hỏi thời gian nhưng chắc chắn, cơ bản và có tác dụng lâu dài.


Hiệu thuốc Đông y
Óc tư duy tổng hợp của phương Đông có mặt mạnh là giúp con người có cái nhìn
toàn diện nhưng đôi khi cũng có hạn chế là dễ “bỏ qua” những tiểu tiết quan trọng. Óc

19
phân tích của người phương Tây giúp con người có điều kiện đi sâu được vào các chi tiết.
Có lẽ đó cũng là một trong những lí do khiến nền khoa học – kĩ thuật của phương Tây
phát triển.
3. Trong quan hệ giữa người với người, văn hoá phương Đông nặng về tính
cộng đồng và cách ứng xử tình cảm, mềm dẻo.
Cả hai phẩm chất này, suy cho cùng, cũng là do loại hình văn hoá gốc nông
nghiệp chi phối. Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình nông dân cùng canh tác trên

một cánh đồng, ruộng đất nhà này tiếp giáp ruộng đất nhà kia. Để có được năng suất,
những người nông dân trong làng không thể không liên kết với nhau. Chỉ có đoàn kết con
người mới chống được thiên tai. “Lụt thì lút cả làng” vì vậy chỉ có sự đồng tâm hiệp lực
của cả làng, cả xã thì mới đắp được đập, được đê ngăn nước. Muốn chống hạn, diệt sâu
bệnh, chuột bọ, v.v. cũng cần sức mạnh của cả làng. Môi trường canh tác mang tính tập
thể như thế chính là cơ sở để nảy sinh tính cộng đồng.
Đặc trưng này của văn hoá phương Đông khiến mỗi người khi hành động luôn
luôn phải nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội. Trong làng, người dân thường tránh
những việc làm phương hại đến tập thể. Từ đây nảy sinh quan điểm sống vì tập thể. Vì
tập thể, người ta sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân. Cũng vì thế mà người phương Đông
thường đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm (trong khi phương Tây thì coi trọng quyền lợi). Quả
thực, trong việc chống chọi với thiên tai, địch hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm
được đề lên thành nghĩa vụ thì không thể có được chiến thắng.
Những người trong làng sống nương tựa vào nhau, vì nhau, sống theo tinh thần
cộng đồng, do đó họ đối xử với nhau rất có tình cảm. Mọi vấn đề nảy sinh đều được giải
quyết bằng tình nghĩa họ hàng, bà con, láng giềng một cách mềm dẻo. Có người ví văn
hoá ứng xử phương Đông mềm dẻo và linh hoạt như nước. Vì vậy mềm dẻo, trọng tình
thực sự là một đặc trưng của văn hoá ứng xử phương Đông. Người ta sống với nhau bằng
tình cảm thương yêu, bằng tinh thần cộng đồng, vì vậy sẵn sàng giúp đỡ nhau trong
những lúc hoạn nạn, khó khăn, theo tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Lối sống trọng tình
cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng sự hiếu hoà. Từ tính cộng đồng,
từ sự đùm bọc làng xã, sau này truyền thống tốt đẹp ấy phát triển thành tinh thần dân tộc
và chủ nghĩa yêu nước phương Đông.
Nếu so sánh với văn hoá phương Tây thì cũng thấy một sự khác biệt nhất định. Có
thể nói, trong quan hệ ứng xử, phương Tây thiên về cá thể, trọng lí. Đối với phương Tây,
con người cá nhân được đề cao. Điều này có điểm mạnh là phát huy cao độ sức sáng tạo
cá nhân, tránh được sự dựa dẫm theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Hơn nữa lối ứng
xử trọng lí giúp con người sống theo pháp luật một cách có ý thức - điều mà các xã hội
nông nghiệp phương Đông phải phấn đấu rất gian khổ mới có được.
Những điều trình bày trên đây không có nghĩa là ở phương Đông chỉ có tính cộng

đồng mà không có tính cá nhân còn ở phương Tây chỉ có tính cá nhân mà không có tính
cộng đồng. Tách bạch như vậy là siêu hình. Do đó, theo chúng tôi, cách nói “thiên về” cái
này hay cái kia như các nhà nghiên cứu đã nêu là có cơ sở. Cũng có người cho rằng, ở
Việt Nam, tâm thức duy cộng đồng luôn luôn chiếm ưu thế đối với tâm thức duy cá nhân
[Nguyễn Kiến Giang, 2003, 34]. Đây cũng là một cách diễn đạt có cơ sở. Nhận định này
có thể áp dụng cho văn hoá phương Đông nói chung.
4. Trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đông nghiêng về hoà đồng,
thuận tự nhiên.
Đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên của văn hoá phương Đông thường được đặt
trong sự so sánh với đặc điểm chinh phục tự nhiên của văn hoá phương Tây. Văn hoá
phương Tây thiên về giải thích, cải tạo thế giới. Nói như C. Mac: “Vấn đề là cải tạo thế

20
giới”. Tất nhiên nói như trên không có nghĩa là đối lập tuyệt đối giữa văn hoá phương
Đông và văn hoá phương Tây trong vấn đề đối xử với môi trường tự nhiên.

Sống chung với lũ
Thái độ hoà đồng với tự nhiên của văn hoá phương Đông đã được hình thành từ
rất lâu và định hình trên cơ sở của những quan niệm về con người trong các học thuyết
phương Đông. Theo nhiều tác giả, con người trong quan niệm của tất cả các tôn giáo
phương Đông và trong hầu hết các học thuyết triết học phương Đông truyền thống đều
không đối lập với giới tự nhiên. Nó luôn luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của
giới tự nhiên [Hồ Sĩ Quý, 2004, 12].
Có thể cắt nghĩa đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên bằng cơ sở kinh tế – xã hội
của phương Đông.
Trước hết có thể giải thích bằng nền sản xuất nông nghiệp. Như đã nói ở trên, sản
xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Một sự “nổi giận” của trời đất có
thể làm cho toàn bộ công sức của người dân “tan thành mây khói”. Điều này có thể thấy
rõ qua các trận bão gió, lụt lội, lở đất, động đất, núi lửa, v.v. Bởi vậy từ trong tâm khảm
của người dân, tự nhiên là đấng tối cao. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả khi

thuận theo tự nhiên. Một trong những biểu hiện của sự thuận theo ấy là tính thời vụ. Có
thể nói, kinh nghiệm sống, nói cụ thể hơn là kinh nghiệm sản xuất, đã khiến cư dân nông
nghiệp phương Đông phải hành động thuận theo tự nhiên. Trái ý tự nhiên, trái ý Trời sẽ
bị trả giá. Đó là bài học có thể phải trả bằng đói khổ, nước mắt và tính mạng. Không còn
cách nào khác, Nhật Bản vẫn phải “sống chung với động đất”, Indonesia phải “sống
chung với núi lửa”, Philippines phải “sống chung với bão” còn đồng bằng sông Cửu
Long của Việt Nam thì phải chấp nhận “sống chung với lũ” như là một lẽ tự nhiên. Bài
học về động đất và sóng thần ở Đông Nam Á và Nam Á (đặc biệt là đối với các nước
Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanca) ngày 26 tháng 12 năm 2004 làm hơn 280.000.000 người
thiệt mạng càng khẳng định sức mạnh cực kì to lớn của thiên nhiên mà con người không
dễ gì có thể “chế ngự” nổi.
Một lí do khác nữa cắt nghĩa cho đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên là ở tổ chức
của xã hội truyền thống phương Đông, đó là xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông
thôn. Chế độ này, như đã nói, mang lại cho mỗi đơn vị nhỏ bé (làng xã) một cuộc sống cô
lập, tách biệt. Công xã tổ chức theo lối gia đình tự cấp, tự túc. Con người bị trói buộc bởi
những xiềng xích nô lệ của các quy tắc truyền thống, do đó hạn chế sự phát triển của lí
trí, từ đó rất dễ trở thành nô lệ của những điều mê tín dị đoan. Những công xã nông thôn
phương Đông, do vậy, hạn chế con người ở việc chủ yếu phục tùng những hoàn cảnh bên
ngoài, phục tùng tự nhiên chứ không có ý thức và năng lực làm chủ hoàn cảnh, chinh
phục tự nhiên. Đây cũng chính là lí do để chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại và phát
triển.
5. Về phương thức sống, văn hoá truyền thống phương Đông trọng tĩnh,
hướng nội và khép kín.

21
Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự ổn định. Người dân thường rất sợ
những điều xảy ra bất thường. Lối sống hài hoà với tự nhiên, tình cảm với mọi người, suy
cho cùng, cũng là nhằm đạt tới sự ổn định. Từ đây xuất hiện phương thức sống trọng
tĩnh, hướng nội và khép kín.
Sống trong các công xã nông thôn cô lập, tách biệt, xét ở một góc độ nào đó, tính

tự trị đồng nghĩa với hướng nội và khép kín. Trong xã hội phong kiến, mô hình làng xã
“kín cổng cao tường” cùng với những thiết chế xã hội ngặt nghèo của nó càng làm cho
“tầm nhìn” của cư dân nông nghiệp không vượt khỏi “luỹ tre làng”.


Cổng làng
Nền nông nghiệp tự cấp tự túc chỉ tạo ra được những sản phẩm vừa đủ để lưu thông trong
phạm vi “chợ làng”, không trở thành hàng hoá thương nghiệp của nền kinh tế thị trường
kiểu phương Tây. Đó cũng là hướng nội, khép kín.
Lối sống trọng tĩnh, hướng nội và khép kín không thể tạo ra sự phát triển đột biến.
Có lẽ đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm cho chế độ phong kiến phương Đông
kéo dài sự trì trệ nhiều thế kỉ.
Trái với phương Đông, phương Tây trọng động, hướng ngoại và cởi mở. Điều
này cũng dễ hiểu. Ở đó nền kinh tế thương mại và du mục buộc người ta phải năng động,
phải đi tìm thị trường ở bên ngoài và mở rộng quan hệ.
Tiểu kết:
1. Trở lên chúng tôi đã trình bày một số đặc điểm chủ yếu của văn hoá phương
Đông. Vấn đề này, như đã nói ở trên, chỉ là những nhận xét bước đầu. Dưới đây là một
vài nhận xét xuất phát từ cơ sở triết học của vấn đề.
Có thể nói muốn tìm hiểu được bản sắc văn hoá phương Đông thì phải xem xét cơ
sở kinh tế - xã hội của nó. Nói như học thuyết Mac – Lênin thì đó là hạ tầng cơ sở hay tồn
tại xã hội, bởi tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Xã hội phương Đông là xã hội nông nghiệp vì vậy văn hoá phương Đông là văn
hoá gốc nông nghiệp và bản sắc nổi trội nhất của nó là tính chất nông nghiệp – nông
thôn.
Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau buộc người ta phải
cố gắng bao quát chúng. Từ đây hình thành lối tư duy tổng hợp và cách nhìn nhận toàn
diện, mọi mặt (chủ toàn).
Để sản xuất nông nghiệp thu được kết quả, người dân không thể không dựa vào
nhau, liên kết với nhau để tạo thành sức mạnh cộng đồng. Tính cộng đồng vì vậy mà nảy

sinh và phát triển. Và rồi quan hệ cộng đồng trở thành tiền đề cho quan hệ ứng xử mang
tính mềm dẻo, coi trọng tình cảm hơn những quyền lợi vật chất, coi trọng
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Làm trái tự nhiên là thất
bại. Những bài học ấy đã “dạy” người dân phương Đông cách sống hoà đồng với tự
nhiên và thuận theo tự nhiên.
Những gì bất thường của tự nhiên đều làm cho cư dân nông nghiệp lo lắng, thậm
chí khiếp sợ. Vì vậy từ trong tâm thức, họ trọng sự ổn định và luôn muốn một cuộc sống

22
tĩnh tại. Hơn nữa nền nông nghiệp phương Đông gắn liền với chế độ công xã nông thôn,
với tổ chức làng xã cô lập, tách biệt đã làm cho cuộc sống của người dân khép kín, hướng
nội.
2. Cơ sở kinh tế - xã hội của phương Đông, như vừa trình bày ở trên, có phần
khác với phương Tây. Và sự khác biệt về cơ sở ấy đã quy định sự khác nhau về tư tưởng,
triết học, triết lí của hai nền văn hoá [Xin xem Nguyễn Hùng Hậu, 2004, 9 – 16].
Nói chung triết học phương Đông thường đi liền với tôn giáo (như triết học Ấn
Độ) hoặc với đạo đức chính trị xã hội (như triết học Trung Hoa). Nhà triết học phương
Đông được suy tôn là người hiền, hiền triết, minh triết. Trái lại triết học phương Tây
thường gắn liền với những thành tựu của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Nhà triết
học của phương Tây thường là nhà khoa học, nhà bác học.
Mục đích của hai nền triết học cũng khác nhau: triết học phương Đông nhằm ổn
định trật tự xã hội (như triết học Trung Hoa mà tiêu biểu là đạo Nho), giải thoát (hay siêu
thoát như triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là Phật giáo) hay hoà đồng với thiên nhiên (thuận
thiên như Đạo giáo); triết học phương Tây thiên về giải thích và cải tạo thế giới.
Đối tượng của triết học phương Đông là xã hội, cá nhân con người, là cái tâm.
Nói cách khác, triết học phương Đông lấy con người làm trung tâm. Chính vì vậy tri thức
của triết học phương Đông chủ yếu nặng về xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh. Nghĩa là
nó mang tính “hướng nội”, lấy trong giải thích ngoài. Từ đây có thể thấy triết học
phương Đông có vẻ thiên về duy tâm. Đối tượng của triết học phương Tây rộng hơn:
toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư duy. Vì vậy tri thức của triết học phương Tây cũng rộng hơn.

Tuy nhiên tự nhiên được coi là gốc, là cơ sở, do đó triết học phương Tây thiên hơn về
hướng ngoại, lấy ngoài giải thích trong. Điều này cũng có nghĩa là triết học phương Tây
nặng về duy vật hơn triết học phương Đông.
Xét về phương pháp nhận thức, triết học phương Đông thiên về trực giác, trong
khi triết học phương Tây thì thiên về tư duy duy lí, phân tích, mổ xẻ. Lối tư duy duy lí,
phân tích, mổ xẻ của phương Tây làm cho khoa học kĩ thuật phát triển và kéo theo nó là
sự phát triển của công nghệ, kĩ nghệ hiện đại. Lối nhận thức trực giác của văn hoá
phương Đông rất phù hợp với đối tượng vận động, đặc biệt là khi triết học phương Đông
lấy con người làm trung tâm. Trực giác, linh cảm ban đầu có thể là một gợi ý, một tia
chớp loé lên tức thì, giúp định hướng cho các phát kiến về sau.

Tóm lại, văn hoá phương Đông có những đặc điểm khác với văn hoá phương
Tây. Theo một số học giả, sự khác biệt đó là như sau.
Khuynh hướng trội của phương Tây là hướng ngoại, chủ động, tư duy lí luận, hiếu
chiến, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, cạnh tranh, bành trướng, tư duy cơ
giới, chú ý nhiều đến thực thể, v.v.
Khuynh hướng trội của phương Đông là hướng nội, bị động, huyền bí, hoà hợp,
quân bình, thống nhất, tâm lí, tâm linh, tập thể, tổng hợp, minh triết, trực giác, tôn giáo,
hợp tác, giữ gìn, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ, v.v. [Nguyễn Hùng Hậu, 2004,
15].
IV. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NỀN VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG RA
KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
Một đặc điểm khá nổi bật của văn hoá phương Đông là có sự ảnh hưởng mạnh
của các nền văn hoá - văn minh lớn ra khu vực và thế giới. Có thể minh hoạ cho nhận xét
này bằng việc phân tích một số ảnh hưởng của văn hoá Arập, văn hoá Trung Quốc và văn
hoá Ấn Độ.
1. Văn hoá Arập có sự lan toả khá rộng.

23
Văn hoá Arập chính là nền văn hoá của những người du mục sống trên sa mạc ở

trên các vùng đất Arập. Nền văn hoá đó đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ và có
ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều khu vực ở châu Âu, châu Á và châu Phi. Dẫu rằng văn
hoá Arập đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau, nhưng những đóng góp và
ảnh hưởng của nó vẫn rất rộng rãi và sâu sắc.
Năm 650, 18 năm sau khi vị sứ giả cuối cùng Mohammed mất, người Arập tràn
qua Lybia và Tunisi. Năm 827, hơn mười nghìn người Arập đến chinh phục Sicily và bắt
đầu thời kì thống trị của họ trên hòn dảo châu Âu này. Năm 642, người Arập với ngọn cờ
Islam đã thắng thế ở Ai Cập, Syria, và Palestine.
Người Arập thống trị Sicily khoảng hai thế kỉ. Trong thời gian đó, họ đã lập nên
hàng chục đô thị ở nước Italy ngày nay. Trong hai thế kỉ đó, dân số hòn đảo Sicily xinh
đẹp tăng gấp đôi. Người Arập thay đổi toàn bộ xã hội Sicily, từ cách làm nông nghiệp
đến việc ăn uống, sinh hoạt. Họ đem tới Sicily mô hình hệ thống tưới tiêu từ vùng sa mạc
khô cằn. Họ gây dựng ngành tơ lụa ở Sicily. Họ trồng lúa, mía, bông và cam. Đường phố
Sicily đầy chợ ngoài trời nhộn nhịp, sầm uất. Nhưng ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là ngôn
ngữ. Từ khi người Arập đến Sicily, người Sicily nói hai thứ tiếng: tiếng Arập và tiếng Hy
Lạp. Sicily trở thành thành phố thịnh vượng nhất châu Âu, với kinh tế phát triển, văn học
– nghệ thuật nở rộ.
Từ Sicily (thủ đô của đế chế Byzantine và sau này của Constantinop), người Arập
chinh phục Tây Ban Nha, vươn tới Trung Hoa và Ấn Độ. Họ lật đổ người Xume và
thống trị vùng đất giữa hai con sông Tigơrơ và Ơphơrat cho tới tận năm 3800 TCN. Họ
tấn công Ba Tư ở phía Đông, bán đảo Sinai và toàn bộ vùng Địa Trung Hải ở phía Tây.
Văn hoá Arập ngày càng bám rễ sâu vào lãnh địa của người Norman dưới các
vương triều của hai đế chế Byzantine và Constantinope, nhất là trên mảnh đất nghệ thuật
và kiến trúc. Người theo đạo Hồi (Muslim), người Do Thái giáo, người Kitô giáo đã
chung sống hoà bình trên mảnh đất Sicily. Ngày nay, các quận Kalsa, Cala, Cassaro vẫn
còn nguyên vẹn những vết tích của nền kiến trúc pha trộn giữa hai phong cách Arập và
Norman. Theo nhận xét của John Julius Norwich, một nhà nghiên cứu về Sicily thì Sicily
hiên ngang đứng giữa lòng châu Âu - và hiên ngang đứng giữa một thế giới trung cổ tối
tăm - như là một biểu tượng của sự khoan dung và khai sáng, một bài học cho mỗi con
người phải học để hiểu cảm giác của những người có dòng máu và có niềm tin khác

mình.
Cũng như ở châu Âu, văn hoá Arập có sức mạnh khá bền vững ở châu Phi và
châu Á. Với 22 nước Arập thuộc châu Phi và châu Á, cùng nói một tiếng nói chung là
tiếng Arập, cùng chọn đạo Hồi (Islam) làm tôn giáo quốc gia, cộng đồng người Arập cho
thấy một sức mạnh thống nhất về ngôn ngữ và tôn giáo. Văn hoá Arập đã nảy nở, lan toả
và phát triển trên những mảnh đất vốn không phải là quê hương của mình. Nó để lại dấu
ấn trong mọi biểu hiện của cuộc sống thường ngày của người dân, trong đời sống tôn
giáo, trong kiến trúc - hội hoạ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Islam là đóng góp lớn nhất
của văn hoá Arập và có ảnh hưởng lớn nhất đối với văn hoá thế giới. Bằng chứng là sự có
mặt của Hồi giáo với tư cách là tôn giáo chính thức ở Indonesia, Malaysia, Brunei –
những quốc đảo hùng mạnh ở Đông Nam Á, trong đó, Indonesia là quốc gia có số lượng
tín đồ Hồi giáo đông nhất thế giới. Ở khắp nơi trên các đất nước này, kiến trúc Hồi giáo,
đặc biệt là kiến trúc nhà thờ Hồi giáo, rất phổ biến và giữ vai trò chủ đạo trong nền kiến
trúc dân tộc. Chỉ một điều đó thôi cũng đủ thấy ảnh hưởng của văn hoá Arập - Islam ở
Đông Nam Á có sức mạnh đến mức độ nào!
2. Nhắc đến cống hiến của văn hoá Trung Hoa cổ đại đối với lịch sử nhân loại,
như sẽ nói kĩ ở dưới, không thể không nhắc tới “tứ đại phát minh”, đó là: la bàn, thuật
làm giấy, thuật in ấn và thuốc súng.

24
Từ cuối thế kỉ 12 đến đầu thế kỉ 13, la bàn được truyền sang Arập, từ đó sang
châu Âu, và đã đóng góp rất nhiều cho ngành hàng hải thế giới.
Sau thế kỉ 6, kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc được truyền sang Triều Tiên, Việt
Nam và Nhật Bản. Đến thế kỉ 8, phương pháp này qua Thổ Nhĩ Kì truyền vào Arập, sau
đó được truyền sang châu Âu.
Kĩ thuật in ấn của Trung Quốc cũng dần được truyền sang các nước láng giềng
như Triều Tiên, Nhật Bản, sau đó truyền sang Arập và châu Âu.
Vào thế kỉ 13, thuốc súng và vũ khí mang thuốc súng của Trung Quốc đã lần lượt
được đưa vào Ấn Độ, Arập, và vào cuối thế kỉ 13 đầu thế kỉ 14 được truyền sang châu
Âu.

Ngoài bốn phát minh trên, một số thành tựu khoa học kĩ thuật khác của Trung
Quốc cũng có ảnh hưởng nhất định đối với văn minh nhân loại. Thuật luyện đơn (bào chế
thuốc) của Trung Quốc sau khi truyền vào Arập, đã góp phần thúc đẩy kĩ thuật chế biến
thuốc của nước này phát triển, và cũng cần nói thêm rằng sau đó kĩ thuật chế biến thuốc
của châu Âu lại chịu ảnh hưởng của Arập, và nền hoá học hiện đại sau này chính là được
phát triển trên cơ sở kĩ thuật chế biến thuốc của châu Âu thời trung cổ.
Đồ sứ tinh xảo của Trung Quốc từ lâu đã nổi tiếng trên thế giới. Vào nửa cuối thế
kỉ 15, kĩ thuật làm đồ sứ của Trung Quốc đã được truyền sang Italy, mở ra một kỉ nguyên
mới cho lịch sử chế tạo đồ sứ của châu Âu, và còn ảnh hưởng cho tới ngày nay. Không
phải ngẫu nhiên mà từ tiếng Anh China vừa có nghĩa là Trung Quốc lại vừa có nghĩa là
đồ sứ.
Nền văn học rực rỡ và đồ sộ của Trung Quốc cũng có ảnh hưởng vô cùng rộng
lớn trên phạm vi toàn thế giới. Những tác phẩm văn học nổi tiếng như “Tam Quốc Diễn
Nghĩa”, “Tây Du Ký”, “Hồng Lâu Mộng”, “Thuỷ Hử”, “ Liêu Trai Chí Dị”, “Kim Bình
Mai”… đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng và được các học giả nước ngoài đánh giá cao.
Nền nghệ thuật phong phú và thần bí của Trung Quốc đã khiến cho không biết
bao nhiêu các triết gia và các nghệ thuật gia của châu Âu khuynh đảo. Nhà khải mông tư
tưởng Pháp thế kỉ 18 Voltaire đã gọi Trung Quốc của phương Đông là “cái nôi của mọi
nền nghệ thuật”.
Triết học Trung Quốc cũng có ảnh hưởng sâu sắc ở châu Âu vào thế kỉ 17-18.
Triết gia Gottfried Wilhelm von Leibniz, người tiên phong của triết học cổ điển Đức, là
triết gia đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của văn hoá Trung Quốc đối với sự phát triển
của châu Âu. Khi nghiên cứu về phép toán cơ số 2, “Chu dịch” cổ đại của Trung Quốc đã
cho ông những gợi mở vô cùng quan trọng. Năm 1701, một giáo sĩ Pháp trong bức thư
gửi cho ông đã gửi kèm theo hai bản Dịch đồ, đó là “Phục Hi lục thập tứ quái thứ tự đồ”
và “Phục Hi lục thập tứ quái phương vị đồ”. Leibniz sau khi nghiên cứu kĩ hai bản vẽ
này, cho rằng chính sự sắp xếp trong bát quái là sự thể hiện tư tưởng của phép tính “cơ số
2” đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Năm 1703, ông đã triển khai phép cơ số 2 sang bốn
lĩnh vực cộng trừ nhân chia. Phép tính cơ số 2 có vai trò vô cùng quan trọng. Không phải
ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng không có sự ra đời của phép tính cơ số 2, thì sẽ

không thể xuất hiện lôgíc toán học và khoa học máy tính hiện đại ngày nay.
Khi các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần chiếm vị trí thống trị trong xã hội,
ở châu Âu đã nổ ra phong trào khải mông tư tưởng. Sự phát triển của phong trào này đòi
hỏi sự kế thừa tư tưởng của những người đi trước. Nhưng các trào lưu tư tưởng ở châu
Âu thời trung thế kỉ lại có mối ràng buộc chặt chẽ với tôn giáo thần học, do vậy không
thể đáp ứng được những đòi hỏi của các nhà khải mông tư tưởng. Và chính nền văn minh
cổ đại Trung Hoa đã đem lại cho họ nguồn năng lượng mới. Đầu tiên, các nhà khải mông
tư tưởng nhận thấy màu sắc tôn giáo trong triết học Trung Quốc rất mờ nhạt. Lý tưởng
chính trị của Voltaire là hy vọng sau khi xoá bỏ được nền “tôn giáo thần học” dựa vào mê

25
tín, sẽ xây dựng nên một nền “ tôn giáo lý tính” đề cao lý tính, tự nhiên và đạo đức.
Trong con mắt ông, Nho giáo của Trung Quốc chính là hình mẫu cho thứ “tôn giáo lý
tính” này. Nhà khải mông tư tưởng Pháp Denis Diderot trong phần giới thiệu về Trung
Quốc trong cuốn “Bách khoa toàn thư” cũng cho rằng, khái niệm cơ bản trong triết học
Trung Quốc là “lý tính”. Ông đặc biệt ngợi ca Nho giáo, chỉ ra rằng Nho giáo chủ trương
lấy “lý tính” và “ chân lý” để trị quốc bình thiên hạ.
Ở Đức, trào lưu lấy “tôn giáo triết học” thay thế “tôn giáo thần học” cũng chịu
ảnh hưởng của triết học Trung Quốc. Georg Wilhelm Friedrich Hegel mặc dù rất coi
thường triết học Trung Hoa, nhưng cũng thừa nhận rằng “nguyên tắc cơ bản mà người
Trung Quốc thừa nhận là lý tính”. Ở Anh, các nhà khải mông cũng thường trích dẫn “lập
luận của người Trung Quốc” để phản đối “Kinh Thánh”. Triết học truyền thống của
Trung Quốc cũng có ảnh hưởng rất lớn ở Nga vào thế kỉ 19.
Ảnh hưởng của triết học Trung Quốc đối với châu Âu không chỉ dừng lại ở thế kỉ
18. Mặc dù sau đó có những biến động nhất định, nhưng bắt đầu từ giữa thế kỉ 19, châu
Âu lại xuất hiện trào lưu tìm hiểu, nhu cầu giao lưu với văn học, nghệ thuật, triết học của
Trung Quốc. Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, châu Âu xuất hiện cuộc khủng hoảng
văn hoá, trí thức châu Âu lại hướng tầm mắt của mình về phương Đông, hy vọng tìm thấy
phương thuốc giúp châu Âu thoát khỏi cuộc khủng hoảng này từ văn hoá phương Đông,
đặc biệt là trong triết học và văn học Trung Quốc. Nhà xã hội học, triết học nổi tiếng

người Đức Bertolt Brecht đã giành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu triết học cổ đại
Trung Quốc. Ông đặc biệt quan tâm tới tư tưởng “phi công”, “kiêm ái” của Mạc gia, lý
luận triết học tu thân trị quốc của Lão Trang và học thuyết “lấy nhu thắng cương” trong
triết học cổ đại Trung Quốc.
Nhưng ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc đối với khu vực, đặc biệt là các quốc
gia láng giềng vẫn rộng rãi và sâu sắc hơn cả. Lương Khải Siêu đã từng chia lịch sử
Trung Quốc thành 3 giai đoạn: “Trung Quốc của Trung Quốc”, “Trung Quốc của châu
Á” và “Trung Quốc của thế giới”; trong đó, giai đoạn từ khi nhà Tần thống nhất Trung
Quốc cho tới cuối triều vua Càn Long nhà Thanh được coi là thời kì “Trung Quốc của
châu Á”. Trong 2000 năm lịch sử này, Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trên vũ đài
lịch sử châu Á, văn hoá Trung Quốc đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quốc gia ở châu lục
này, đặc biệt là Nhật Bản, Triều Tiên,Việt Nam và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á.
Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước láng giềng kề cận, có quan hệ truyền thống
lâu đời. Vào năm 600, Nhật Bản đã cử sứ đoàn đầu tiên sang nhà Tuỳ Trung Quốc, và sự
lớn mạnh của nhà Tuỳ đã để lại ấn tượng sâu sắc cho sứ đoàn Nhật Bản. Sau đó, Nhật
Bản đã mô phỏng chế độ của nhà Tuỳ, căn cứ vào tư tưởng của Nho gia, tiến hành các
cuộc cải cách và đạt được thành công rõ rệt. Sau khi nhà Đường thành lập, sự lớn mạnh
thịnh vượng của nhà Đường với chế độ chính trị hoàn mỹ, quân đội lớn mạnh, nền văn
hoá rực rỡ càng khiến cho Nhật Bản khâm phục bội phần. Vào năm 623, Nhật Bản lại cử
sứ đoàn sang nhà Đường, từ đó về sau trong vòng 200 năm, Nhật Bản liên tục cử 18 sứ
đoàn sang Trung Quốc. Năm 645, Nhật Bản nổ ra cuộc “Đại hoá cách tân” với tôn chỉ tối
cao là “Đường hoá” (tức “Trung Hoa hoá”). Năm 718, Thiên Hoàng Nguyên Chính định
ra “Dưỡng lão luật lệnh”, quan chế, binh chế, điền chế, thuế chế, học chế…được quy định
trong đó đều là phiên bản của chế độ nhà Đường. Vào giai đoạn này, luật pháp của Nhật
Bản về cơ bản áp dụng theo luật pháp nhà Đường, chỉ chỉnh sửa đôi chút để bản địa hoá.
Trường học các cấp của Nhật Bản lấy kinh điển của Nho gia làm giáo trình, thờ cúng
Khổng Tử. Nhật Bản coi Trung Quốc là quê hương của Phật giáo, nhà Đường có tông
phái Phật giáo nào, Nhật Bản cũng có tông phái Phật giáo tương ứng. Nhật Bản còn sử
dụng lịch pháp của nhà Đường, nhà Đường định ra lịch mới, Nhật Bản liền áp dụng
nguyên mẫu. Trong xã hội, các tầng lớp nhân dân chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá

×