Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.12 KB, 76 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em có thể hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp sau ba tháng tiếp xúc thực
tế là kết quả của nền tảng kiến thức cơ bản từ sự dạy bảo tận tình của các Giảng
viên Khoa Tài chính Ngân hàng _ Đại Học Công Đoàn và cơ hội vận dụng những lý
thuyết đã học vào thực tế tại Chi Nhánh Ngân hàng TMCP Công Thương Phú Thọ.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn các Giảng viên khoa
Tài chính Ngân hàng , đặc biệt là T.s Nguyễn Thị Toàn, Giảng viên trực tiếp hướng
dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Và em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo của Chi nhánh Ngân hàng
TMCP Công Thương Phú Thọ đã tạo điều kiện thuận lợi cho em có cơ hội thực tập,
học hỏi đựơc những kinh nghiệm thực tế cùng các cô chú anh chị trong chi nhánh
đã nhiệt tình giúp đỡ, góp ý, ủng hộ em trong thời gian thực tập qua. Em xin chân
thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Diễm Hương
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TMCP : Thương mại cổ phần
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTW : Ngân hàng trung ương
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHCT : Ngân hàng công thương
ST : Số tiền
TT : Tỷ trọng
NĐ : Nghị định
HĐBT : Hội đồng bộ trưởng
QĐ : Quyết định
HĐQT : Hội đồng quản trị
L/C : Thư tín dụng
KH : Khách hàng
TG : Tiền gửi


KKH : Không kì hạn
CKH : Có kì hạn
GTCG : Giấy tờ có giá
VCSH : Vốn chủ sở hữu
TSCĐ : Tài sản cố định

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản trong quá trình hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp hay một tổ chức
kinh tế nào muốn tồn tại và phát triển đều cần có vốn. Đặc biệt ở Việt Nam hiện
nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của nước ta. Nó đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế đất nước. Có thể nói ở Việt Nam hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ
thống ngân hàng cung cấp. Do đó công tác huy động vốn của Ngân hàng đóng vai
trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của Ngân hàng nói
riêng. Muốn đóng vai trò thực sự như một trung gian tài chính, một tổ chức kinh
doanh tiền tệ chuyên nghiệp, muốn giữ thế chủ động trong kinh doanh thì mỗi ngân
hàng không thể không tiến hành huy động vốn.
Vì vậy mỗi ngân hàng đều cần quan tâm thường xuyên đến công tác huy
động vốn, đáp ứng yêu cầu kinh doanh của bản thân ngân hàng và nhu cầu về vốn
cho nền kinh tế. Một trong các nguồn huy động vốn cơ bản là từ dân cư được thực
hiện bởi các Ngân hàng thương mại.
Trong đó không thể không kể đến Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam. Với uy tín hoạt động lâu năm của mình ngân hàng đã phục vụ cho hàng triệu
cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế,
tạo công ăn việc làm cho người lao động. Là một chi nhánh của Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương tỉnh Phú Thọ luôn làm tốt
vai trò của một trung gian tài chính, hàng năm huy động được hàng nghìn tỉ đồng

cung cấp cho các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đẩy
nhanh quá trình sản xuất, cũng như đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH đất nước.
Đứng trước thực trạng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, trong khi hoạt
động huy động vốn của Ngân hàng TMCP Công thương tỉnh Phú Thọ đang gặp
nhiều khó khăn, những ảnh hưởng từ môi trường kinh tế vĩ mô, sự cạnh tranh gay
gắt của các ngân hàng và tổ chức khác trên địa bàn làm cho hoạt động huy động vốn
của Ngân hàng TMCP Công thương tỉnh Phú Thọ ngày càng không hiệu quả và cần
có nhiều giải pháp thích ứng. Trước thực trạng đó, em đã lựa chọn đề tài: “Biện
pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam –
Chi nhánh Phú Thọ” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
1
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định nội dung, vai trò của NHTM thông qua hoạt động huy
động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, dịch vụ, chuyên đề nghiên
cứu thực trạng hoạt động của Ngân hàng TMCP Công thương CN Phú Thọ nói
chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng. Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
nhằm mở rộng huy động vốn tại NH TMCP Công thương Việt Nam – CN Phú Thọ,
đáp ứng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là những lý ltuận cơ bản về vốn và sử
dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng. Trong đó trọng tâm là
nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn từ khách hàng cá nhân
Phạm vi nghiên cứu là khảo sát hoạt động của NH TMCP Công thương Việt
Nam – CN Phú Thọ trong 3 năm từ năm 2011 đến 2013. Các giải pháp tăng cường
huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại NH TMCP Công thương Việt Nam – CN
Phú Thọ.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với các học
thuyết kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp

5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề chia thành 3 chương.
Chương I : Lý luận chung về công tác huy động vốn trong hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại
ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – CN Phú Thọ
Chương III : Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn
từ khách hàng cá nhân tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – CN Phú
Thọ
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Sự ra đời của NHTM là kết quả của quá trình phân công lao động, là yêu
cầu của nền sản xuất hàng hoá. Phân công lao động làm xuất hiện nhu cầu trao
đổi hàng hoá, ban đầu là giữa những người sản xuất và tiêu dùng trong cùng
một quốc gia, sau đó mở rộng ra phạm vi quốc tế. Các quốc gia khác nhau,
thậm chí là các vùng khác nhau trên cùng một lãnh thổ đều có đồng tiền riêng,
trong khi đó việc trao đổi, giao lưu buôn bán chỉ có thể thực hiện khi có sự
thống nhất về đồng tiền thanh toán. Như vậy, một thực tế đặt ra là phải có một
tổ chức đứng ra làm nghiệp vụ đúc tiền và đổi tiền. Bên cạnh đó, sự phát triển
của nền sản xuất hàng hoá làm nảy sinh nhu cầu vay tiền, các nhà sản xuất cần
vốn để mở rộng quy mô, đổi mới kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, người tiêu dùng cần tiền để thoả mãn
nhu cầu trong khi khả năng tài chính của họ chưa cho phép. Với những lý do đó
nghề ngân hàng đã đi vào lịch sử loài người. Hình thức ngân hàng đầu tiên là
ngân hàng của các thợ vàng và ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi với
những nghiệp vụ chủ yếu là thanh toán hộ, giữ hộ tiền, đổi tiền và cho vay.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng có
những bước tiến nhanh chóng. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống, các ngân
hàng ngày nay còn cung cấp cả những dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm thoả
mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, chất lượng phục vụ của ngân hàng cũng
không ngừng được cải tiến để có thể làm hài lòng cả những khách hàng khó
tính nhất. Các ngân hàng không những gia tăng về số lượng và quy mô mà còn
có xu hướng liên kết với nhau nhằm tạo ra sự thống nhất trong điều hành và
vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của nền kinh tế. Quá trình này đã diễn ra hàng thế kỷ. Tuy
nhiên, cho đến nay việc đưa ra một khái niệm chính xác về NHTM đang còn là vấn
đề gây nhiều tranh cãi của nhiều nhà kinh tế. Ở những quốc gia khác nhau thì quan
3
niệm về NHTM cũng khác nhau. Riêng ở Việt Nam, Theo điều 4 Luật các tổ chức
tín dụng đã được quốc hội thông qua vào ngày 16/6/2010, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1011 đã định nghĩa: “ NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất
cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Như vậy, có thể khái quát về Ngân hàng thương mại như sau: Ngân hàng
thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, là một tổ chức tín dụng thực hiện
huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín
dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội
1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Với khái niệm NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán, có thể thấy
NHTM có các hoạt động cơ bản sau:
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là hoạt động đầu tiên và là hoạt động khởi đầu cho tất cả
các hoạt động khác của NHTM,nó có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân ngân
hàng cũng như đối với toàn xã hội. Trong hoạt động này, NHTM được sử dụng
những biện pháp và công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép để huy động các
nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với
nền kinh tế. NHTM là một trung gian tài chính. Vì vậy, nó có một đặc điểm là
kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác. Trên bảng cân đối kế toán của
NHTM, nguồn vốn bao gồm 2 bộ phận là Vốn chủ sở hữu và Nợ. Vốn chủ sở
hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM, còn lại chủ yếu
là Nợ. Đây là đặc điểm khác biệt cơ bản phân biệt NHTM với các doanh nghiệp
sản xuất- kinh doanh thông thường khác. NHTM có được các nguồn Nợ thông
qua việc huy động các nguồn tiền trong nền kinh tế, như: mở các tài khoản tiền
gửi (tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn, tiển gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm) và đi vay (phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, vay các tổ chức tín dụng khác
hay vay NHTW). Huy động vốn là hoạt động rất cơ bản và quan trọng của
NHTM, nó tạo ra nguồn vốn để đáp ứng các hoạt động của ngân hàng.
4
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
NHTM huy động vốn đều nhằm vào những mục tiêu cụ thể, đó là các
hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Xuất phát từ đặc điểm nguồn vốn của
ngân hàng, cơ cấu sử dụng vốn phải đảm bảo an toàn và sinh lời. NHTM sử
dụng vốn vào các hoạt động như: hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư (đầu tư
vào trái phiếu Chính phủ, đầu tư vào sản xuất- kinh doanh, góp vốn liên
doanh), hoạt động mua sắm tài sản cố định cho ngân hàng, hoạt động ngân quỹ
(dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán và các hoạt động sử dụng vốn khác (các
hoạt động cứu trợ nhân đạo, quảng cáo, xúc tiến thị trường.
Sử dụng vốn là hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất cho NHTM, bù đắp
những chi phí mà ngân hàng bỏ ra trong huy động vốn, những chi phí khác và
còn đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp
NHTM có được lợi nhuận và mở rộng hoạt động kinh doanh. Trong các hoạt

động sử dụng vốn thì tín dụng luôn là quan trọng và đem lại nhiều thu nhập
nhất cho ngân hàng.
1.1.2.3. Các hoạt động trung gian của ngân hàng thương mại
Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay thì xu
hướng thành lập những NHTM ngày càng có quy mô lớn hơn nên các dịch vụ
ngân hàng không ngừng được hoàn thiện và ngày càng đa dạng hơn. Nhờ các
dịch vụ này mà NHTM có thể thu hút được khách hàng, và nhờ đó mà NHTM
thu hút được tiền gửi. Các hoạt động trung gian của NHTM bao gồm: cung cấp
dịch vụ chuyển tiền; hoạt động thanh toán qua ngân hàng (thanh toán không
dùng tiền mặt như thanh toán bằng thẻ, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, Séc, thư tín
dụng); các hoạt động bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, thanh toán hợp đồng; các
nghiệp vụ trung gian tài chính với tư cách là người môi giới, người tư vấn cho
khách hàng; các nghiệp vụ uỷ thác như: quản lý hộ, đại lý phát hành, ; các
nghiệp vụ tiện ích như: ngân hàng tại nhà, nghiệp vụ thuê két sắt (bảo quản hộ
tài sản), lưu ký chứng khoán, các nghiệp vụ hỗ trợ, nhất là hỗ trợ sau cho vay.
Các hoạt động trung gian hàng năm cũng đem lại nguồn thu nhập đáng
kể cho các ngân hàng. Mặt khác, với việc thực hiện các hoạt động này mà
NHMT có thể thu hút thêm được nhiều nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh
doanh. Ngoài ra, nó còn giúp cho ngân hàng đa dạng hoá hoạt động, giảm thiểu
rủi ro trong hoạt động của mình.
5
1.2. Vốn và hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của
NHTM
1.2.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn của NHTM là toàn bộ các giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được và
tạo lập để đầu tư, cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
Thực chất nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào

ngân hàng với các mục đích khác nhau. Nói cách khác khách hàng chuyển quyền sử
dụng tiền tệ cho ngân hàng và ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối
vốn làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết
định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Thứ nhất, Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường bất kì doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh
doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với NHTM, vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ
chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM không thể thực hiện các
hoạt dộng kinh doanh. Vì thế nnhững ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong
kinh doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thứ hai, Vốn quyết định quy mô của hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của NHTM
Ngoài vai trò là cơ sơ để ngân hàng tổ chức hoạt động kinh doanh, vốn còn
quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động
khác của NHTM.
Vốn tự có của ngân hàng ngoài việc sử dụng để mua sắm TSCĐ, trang thiết
bị, góp vốn liên doanh… Vốn tự có của ngân hàng là căn cứ để giới hạn các hoạt
động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc quy đinh tỷ lệ cho
vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTW thể hiiện vai trò quản lý, điều tiết
thị trường của nhà nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
6
Những quy định về mức cho vay, mức huy động trên vốn tự có như:
- Mức cho vay một khách hàng không vượt quá 15 % vốn tự có
- Mua cổ phần hoặc góp vốn liên doanh không được vượt quá 50 % vốn tự có
Qua những quy định của NHTW đối với NHTM ta thấy vốn tự có quyết định
đến khả năng cấp tín dụng, huy động vốn của NHTM vì thế những NHTM có vốn

tự có lớn thì quy mô tín dụng càng lớn và ngược lại. Không những vốn tự có có ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh mà vốn huy động cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động tín dụng và các hoạt động khác. Vốn tự có rất quan trọng nhưng chỉ chiếm
một phầm rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn và là
nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành các hạot dộng kinh doanh. Do đó ngân
hàng nào có nguồn vốn huy động càng lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền kinh
tế và các hoạt động khác càng được mở rộng.
Thứ ba, Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường.
Một NHTM có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến gửi tiền và sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi ngân hàng đó có uy tín trên thị trường. Uy
tín của ngân hàng trước tiên thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách
hàng khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng thông thường tỷ lệ thuận
với khối lượng vốn mà ngân hàng đó có. Nếu có lớn vốn năng lực thanh toán của
ngân hàng được nâng cao, do đó uy tín của ngân hàng được nâng cao từ đó sẽ thu
hút được nhiều khách hàng và nâng cao được vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Thứ tư, Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh
của ngân hàng.
Với mỗi ngân hàng quy mô, trình độ công nghệ hiẹn đại là tiền đề để thu hút
vốn. Đồng thời khả năng về vốn lớn là cơ sở đẻ ngân hàng mở rộng khối lượng tín
dụng và có thể quyết định cả mức lãi suất cho vay. Do đó có tiềm lực về vốn lớn,
ngân hàng có thể giảm lãi suất cho vay từ đó tạo cho ngân hàng ưu thế trong cạnh
tranh, và giúp ngân hàng có tiềm lực trong việc mở rộng các hình thức liên doanh,
liên kết, cho thuê, mua bán nợ, kinh doanh chứng khoán…
Kết luận: Vốn có vai trò rất quan trọng đối với hoạt độn kinh doanh ngân
hàng. Do đó ngân hàng phải luôn chú trọng đến việc phát triển nguồn vốn một cách
ổn định cả về vốn huy động và vốn tự có.
7
1.2.2. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu

a, Nguồn hình thành ban đầu
Nguồn hình thành ban đầu là nguồn vốn mà ngân hàng đầu tư ban đầu khi
mới thành lập. Tại một số nước, để có thể thành lập ngân hàng thì cần thiết phải có
một số vốn tối thiểu do Nhà nước quy định, gọi là vốn pháp định. Nguồn hình thành
nguồn vốn này tuỳ thuộc vào tính chất sở hữu của ngân hàng. Nếu là NHTM do nhà
nước thành lập thì vốn ban đầu do ngân sách Nhà nước cấp, nếu là Ngân hàng
TMCP thì nguồn hình thành là từ các cổ đông, nếu là NHTM liên doanh thì do các
bên liên doanh góp vốn, nếu là NHTM tư nhân thì do tư nhân bỏ vốn đầu tư.
b, Nguồn hình thành trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, hàng năm NHTM có thể có lợi nhuận ròng lớn
hơn 0. Khi đấy chủ ngân hàng thường có xu hướng trích ra một phần lợi nhuận để
lại nhằm gia tăng vốn chủ sở hữu cho ngân hàng. Tỷ lệ giữa phần trích để lại lợi
nhuận ròng và phần lợi nhuận sử dụng là tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ ngân
hàng. Đối với những ngân hàng đa năng, hoạt động lâu năm trên thị trường thì
nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn chủ sở hữu của
ngân hàng.
Nguồn vốn chủ sở hữu cũng có thể gia tăng do cấp thêm, góp thêm, đầu tư thêm
hay phát hành cổ phiếu mới, Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định, nó thường
chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng dưới 10%) nhưng
nó có một vị trí quan trọng quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân
hàng tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Mặc dù đây không phải là nguồn
vốn thường xuyên nhưng nó cũng là một nguồn nâng cao vốn chủ sở hữu cho ngân hàng
c, Các quỹ của ngân hàng
NHTM có nhiều quỹ được hình thành trong quá trình hoạt động. Mỗi quỹ
được hình thành đều nhằm một mục đích riêng, như: quỹ dự phòng tổn thất, quỹ
bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc.
Các quỹ này đều thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ
này là từ lợi nhuận của ngân hàng. Việc sử dụng quỹ này vào kinh doanh là tuỳ
thuộc vào mục đích hình thành quỹ.
1.2.2.2. Nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại

Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chính của NHTM, quyết định cơ bản đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. NHTM với chức năng là trung gian tài chính
8
đã thực hiện việc dẫn vốn từ nơi “thiếu vốn” đến nơi “thừa vốn”, thu hút các nguồn
vốn nhãn rỗi trong nền kinh tế thông qua việc mở các tài khoản tiết kiệm hay cung
cấp các công cụ tài chính như: tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, Từ đó thực
hiện cho vay và đầu tư.
a, Tiền gửi thanh toán
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh
toán tại NHTM. Đây là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân
hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả
của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Thông qua tài khoản
này, họ có thể phát séc hoặc lệnh cho ngân hàng thực hiện các yêu cầu chi trả của
mình. NHTM mở tài khoản này với thủ tục rất đơn giản. Ngân hàng chỉ yêu cầu
người mở có tiền nộp vào tài khoản và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư của tài
khoản. Thông thường, tài khoản tiền gửi thanh toán không có lãi hoặc lãi suất
không đáng kể nhưng người sở hữu tài khoản lại được sử dụng các dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng với mức phí thấp. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động thấp
đối với NHTM, người chủ sở hữu tài khoản sẵn sàng bỏ qua một khoản thu nhập để
có thể có được một tài sản có tính lỏng và được sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
Chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra đối với nguồn vốn này là các chi phí để phục vụ
cho các tài khoản ấy, như: xử lý và lưu giữ các séc đã thanh toán, soạn và gửi thông
báo tình hình hàng tháng, chi phí quảng cáo, marketing để thu hút khách hàng gửi
tiền,…hay chi phí cho việc trích lập dự trữ theo quy định.
Mặc dù, đối với tiền gửi thanh toán, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra bất
cứ lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định về thời gian
và số lượng, nên các loại tài khoản này luôn có số dư. Ngân hàng có thể huy động
số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình
thức để nâng lãi suất của loại tiền gửi này lên nhằm cạnh tranh với các tài chính tín
dụng khác.

Do chi phí nguồn vốn này thấp dẫn đến sự cạnh tranh giữa các ngân hàng rất
gay gắt. Mặt khác, người ta cũng thấy rằng thông thường một người gửi tiền tại
ngân hàng nào thì thường sẽ vay và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi có
nhu cầu. Vì vậy các ngân hàng ngày nay tăng cường tính hấp dẫn của tài khoản này
nhằm thu hút khách hàng gửi tiền.
Tiền gửi thanh toán là nguồn vốn có tính ổn định thấp vì nó phải được thanh
toán khi khách hàng gửi tiền có yêu cầu. Mặt khác, do người sở hữu tài khoản quan
9
tâm nhiều đến tính lỏng và sự thuận tiện trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hơn
là thu nhập từ khoản tiền gửi mang lại, chi phí cho khoản tiền gửi này thấp nên
nguồn vốn luôn này phải chịu sự cạnh tranh gay gắt.
b, Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức hay cá
nhân gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm 2 loại là tiền gửi có kỳ hạn (hay còn gọi là giấy
chứng nhận tiền gửi) và tiền gửi tiết kiệm. Mức lãi suất của chúng cao hơn so với
tiền gửi thanh toán bởi vì người gửi tiền không được hưởng nhiều dịch vụ như đối
với tiền gửi thanh toán. Những người gửi tiền này thường quan tâm nhiều đến sự an
toàn và thu nhập từ tài sản của họ mang lại hơn là tính lỏng của tài sản này. Đây là
nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng bởi chúng chiếm tới 50% tổng nguồn vốn
của ngân hàng. Mặt khác, chúng có tính ổn định tương đối cao cho phép ngân hàng
có thể sử dụng vào nhiều mục đích của mình.
Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch phổ biến nhất, chúng bao gồm
loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn. Với tiền gửi tiết kiệm không có kỳ hạn, vốn
có thể được thêm vào hay bớt ra bất cứ lúc nào, lãi được tính trên số dư của tài khoản
và thời gian gửi. Nói chung đối với loại tiền gửi này thì lãi suất thường thấp. Tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn về nguyên tắc là không được rút vốn trước hạn. Tuy nhiên để
cạnh tranh thì các ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút vốn trước hạn nhưng họ
phải chịu một mức phạt lãi đáng kể. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn có
tính ổn định tương đối cao. Chi phí trả lãi là chi phí chủ yếu của nguồn vốn này.
Tiền gửi có kỳ hạn thường là tiền gửi của các doanh nghiệp hay tổ chức kinh

tế. Các doanh nghiệp hay tổ chức thường có các khoản thu sẽ phải trả trong một
thời gian nhất định, khi đó họ có thể đến gửi tại ngân hàng. Đây là khoản tiền gửi có
thời gian đến ngày mãn hạn là cố định. Loại tiền gửi này có lãi suất cao hơn tiền gửi
thanh toán cho nên nó đem lại thu nhập cao hơn cho những người gửi tiền. Tuy nhiên,
người gửi không được sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng, khi muốn sử
dụng họ phải đến ngân hàng rút tiền ra.
c, Nguồn vốn đi vay
Mặc dù nguồn tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng đối với NHTM
nhưng khi cần vốn NHTM vẫn đi vay. Tại nhiều nước, NHTW quy định một tỷ lệ
nhất định giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn huy động
không được vượt quá một số lần so với vốn chủ sở hữu. Vì vậy khi cần vốn, nhất
10
là đối với các ngân hàng có vốn chủ sở hữu nhỏ, NHTM có thể đi vay vốn từ nhiều
nguồn khác nhau.
NHTM vay tiền trên thị trường thông qua việc phát hành các công cụ tài
chính, như là các kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Trong hình thức này, ngân hàng
chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội nhằm bổ sung vào nguồn vốn kinh
doanh của ngân hàng. Đây thường là nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn cho các
NHTM. Khoản vay này của các NHTM thường là không có bảo đảm, khả năng vay
mượn phụ thuộc vào uy tín của ngân hàng trên thị trường, cũng như sự phát triển
của thị trường tài chính. Mặt khác, việc huy động vốn bằng hình thức này rất phức
tạp và tốn kém nhiều chi phí, chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô.
Vì vậy các NHTM cần nghiên cứu kỹ khi huy động vốn bằng hình thức này.
Ngoài ra, NHTM còn có thể vay vốn từ các NHTM và tổ chức tín dụng khác
thông qua thị trường liên ngân hàng nhằm đảm bảo vốn khả dụng trong thời gian
ngắn. Trong quá trình hoạt động, một số NHTM có những ngày cho vay quá nhiều
hoặc có nhu cầu lớn về nghĩa vụ tài chính dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ tại NHTW,
trong khi đó một vài NHTM khác lại trong tình trạng thừa dự trữ. Hành vi vay lẫn
nhau giữa các ngân hàng là nhằm điều hoà nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn
vốn lưu chuyển liên tục trong hệ thống ngân hàng. Đây thông thường cũng là khoản

vay ngắn, nó giúp các tổ chức tín dụng có thể có được thu nhập từ nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi của mình và đảm bảo cho khả năng thanh toán, chi trả của NHTM
thiếu vốn. Một NHTM đóng vai trò như là một mắt xích quan trọng trong hệ thống
ngân hàng, sự phá sản của một ngân hàng có thể kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống
ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Vì vậy mà nghiệp vụ vay mượn này của các
NHTM rất đơn giản. Họ chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hay thông
qua các ngân hàng đại lý. Đây thường là khoản vay không có bảo đảm, có thời hạn
ngắn và chi phí cao nên NHTM chỉ sử dụng chúng trong trường hợp cấp bách.
1.2.2.3. Các nguồn vốn khác
Đối với một số NHTM, ngoài các nguồn vốn kể trên, họ có thể nhận được
nguồn vốn uỷ thác của các nước hay các tổ chức tín dụng, Tổ chức quốc tế trong và
ngoài nước theo các chương trình, dự án có mục tiêu cụ thể. Đây có thể là nguồn vốn
uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ Các
nguồn này tạo nên nguồn vốn uỷ thác cho ngân hàng. Để nhận được nguồn vốn này,
các NHTM phải lập dự án cho từng đối tượng hoặc từng nhóm đối tượng phù hợp với
đối tượng của khoản vay.
11
Ngoài ra, NHTM còn có các nguồn vốn khác dưới dạng các khoản phải trả
như: lương chưa trả, thuế chưa nộp.
Trên đây là các nguồn vốn mà NHTM có thể có được. Trong đó, nguồn vốn
huy động là chủ yếu và là nguồn vốn hoạt động chính của NHTM. NHTM huy động
vốn thông qua việc mở các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn để thu hút
các nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng; mở tài khoản tiền gửi thanh toán để thu
hút nguồn vốn trong thanh toán của khách hàng; khi cần NHTM cũng có thể đi vay
để đảm bảo cho hoạt động của mình. Qua đó, một lần nữa lại khẳng định vai trò
quan trọng của hoạt động huy động vốn đối với hoạt động của các NHTM.
1.2.3. Khái niệm và đặc điểm của nguồn vốn huy động
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn tự có và vốn huy động. Trong khi
vốn tự có chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong nguồn vốn của ngân hàng, có vai trò như một
tấm đệm chống rủi ro thì vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu được ngân hàng sử

dụng vào mục tiêu kinh doanh tạo ra lợi nhuận.
Vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động
được từ các chủ thể khác trên thị trường thông qua việc nhận tiền gửi, phát hành
giấy tờ có giá hoặc đi vay
Hoạt động huy động vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi ngân
hàng. Nó quyết định đến quy mô, phạm vi hoạt động và quy mô mở rộng tín dụng
của ngân hàng. Giống như một động cơ muốn chạy cần có nguyên liệu thì vốn huy
động cung cấp cho ngân hàng nguồn năng lượng để thực hiện cách hoạt động của
mình, bao gồm cho vay, đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng hay đầu tư vào
các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, muốn huy động vốn một cách thông minh chúng ta
nên xem xét đến những đặc điểm của nó :
Thứ nhất, quy mô của vốn huy động rất lớn so với vốn tự có, chiếm 70-80%
nguồn vốn của mỗi ngân hàng.
Thứ hai, điểm khác biệt cơ bản nhất của vốn huy động và vốn tự có là sự
tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Điều này có nghĩa là khi hết kì
hạn sử dụng ngân hàng phải trả lại vốn cho người sở hữu nó. Thậm chí trong nhiều
trường hợp, ngân hàng sẽ chịu rủi ro khoản vốn bị rút trước hạn. Do đó, khi quy mô
vốn huy động của ngân hàng tăng cao quá mức cho phép, có thể ảnh hưởng đến sự
an toàn trong kinh doanh của ngân hàng đó. Điều này có nghĩa là huy động vốn quá
nhiều cũng đem lại những bất lợi cho ngân hàng.
12
Thứ ba, chi phí nguồn vốn huy động thường cao hơn so với các nguồn vốn
khác. Nguyên nhân là do ngân hàng phải trả lãi cho quyền sử dụng vốn và phải trích
lập dự trữ bắt buộc trên khoản vốn huy động được theo quy định của NHTW. Ngoài
ra, ngân hàng còn phải trả những khoản phí an toàn nhất định, chẳng hạn như mua
bảo hiểm tiền gửi…
Thứ tư, nguồn vốn huy động rất nhạy cảm với các biến số kinh tế. Vốn huy
động liên quan chặt chẽ đến lợi ích của người sở hữu nó. Khi có sự biến đổi bất
thường trong nền kinh tế, ảnh hưởng xấu đến lợi ích của người gửi tiền, ngân hàng
sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Kết quả là ngân hàng sẽ phải chấp nhận

một khoản phí trả lãi cao hơn hoặc thu hẹp quy mô huy động vốn lại.
1.2.4. Vai trò của vốn huy động và hoạt động huy động vốn đối với NHTM
Đối với hoạt động kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào thì nguồn vốn có
vai trò đặc biệt quan trọng. Nó quyết định tới năng lực, quy mô hoạt động và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với NHTM thì nguồn vốn lại
càng có ý nghĩa quan trọng hơn, trong đó thì nguồn vốn mà ngân hàng huy động có
ý nghĩa hơn cả. Chúng ta đều biết rằng, NHTM kinh doanh chủ yếu bằng tiền của
người khác, “đi vay để cho vay”. Nguồn vốn ảnh hưởng đến tất cả các mặt hoạt
động của ngân hàng, đảm bảo cho mục tiêu của hoạt động ngân hàng là lợi nhuận
và an toàn.
Trước hết, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thực hiện hoạt
động kinh doanh tạo ra lợi nhuận. Điều này là do hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ, và các ngân hàng là các trung gian tài chính. “Nguyên vật liệu
đầu vào” để sản xuất của các ngân hàng là tiền và sản phẩm tạo ra cuối cùng cũng là
tiền. Do đó, ngân hàng nào huy động được nhiều vốn và có thể sử dụng vốn hiệu
quả thì sẽ tạo được mức lợi nhuận cao hơn.
Thứ hai, vốn huy động quyết định đến quy mô hoạt động của ngân hàng, các
loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cũng như lĩnh vực hoạt động của ngân
hàng đó. Việc sử dụng vốn luôn được các ngân hàng xem xét dựa trên quy mô, chi
phí, và kì hạn của những khoản vốn huy động được nhằm đảm bảo tính sinh lời và
sự an toàn trong kinh doanh. So với các ngân hàng nhỏ, ngân hàng lớn thường cung
cấp những danh mục sản phẩm đa dạng hơn, đối tượng khách hàng đa dạng hơn,
phạm vi hoạt động rộng hơn. Những ngân hàng trường vốn có thể đầu tư vào những
dự án lớn, lợi nhuận cao nhưng đòi hỏi nhiều vốn và thời gian. Ngược lại, ngân
hàng ít vốn chủ yếu tập trung vào những dự án nhỏ, an toàn và mức sinh lời thấp.
13
Thứ ba, vốn huy động ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu thanh
khoản của khách hàng, từ đó ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của ngân hàng. Quy
mô vốn huy động lớn tạo điều kiện cho ngân hàng dự trữ nhiều hơn, danh mục đầu
tư của ngân hàng cũng đa dạng và có tính lỏng cao hơn. Ngân hàng có thể đáp ứng

được những nhu cầu rút tiền của khách hàng một cách nhanh chóng, đặc biệt là
trong trường hợp khách hàng rút tiền trước hạn. Năng lực thanh toán sẽ góp phần
nâng cao vị thế của ngân hàng trên thị trường.
Thứ tư, vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Nguồn
vốn huy động với quy mô lớn, cơ cấu ổn định, và chi phí hợp lí sẽ mang lại những
thuận lợi cho ngân hàng khi cạnh tranh với các ngân hàng khác:
- Khi chi phí huy động vốn bình quân thấp hơn so với các ngân hàng khác,
ngân hàng sẽ đạt được lợi nhuận biên cao hơn nếu duy trì mức lãi suất cho vay bằng
với lãi suất thị trường; hoặc nó có thể mở rộng tín dụng bằng việc cấp những khoản
vay có lãi suất cạnh tranh.
- Nguồn vốn huy động lớn mở rộng khả năng cấp tín dụng của ngân hàng.
Với nguồn vốn huy động dồi dào, ngân hàng có thể tiến hành cho vay với những dự
án đầu tư lớn với mức lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra, ngân hàng có thể đa dạng hóa
danh mục đầu tư, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
- Nguồn vốn huy động ổn định đảm bảo khả năng thanh toán, nâng cao uy tín
của ngân hàng trên thị trường, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm các bộ phận sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu.
- Nguồn vốn huy động.
- Nguồn vốn đi vay.
- Các nguồn vốn khác.
Trong các bộ phận trên thì nguồn vốn mà NHTM huy động được chiếm tỷ
trọng chủ yếu. Mặc dù nguồn vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng, quyết định
đến quy mô nguồn vốn mà NHTM có thể huy động nhưng nguồn vốn huy động lại
là nguồn vốn hoạt động chính của NHTM. Do đó, công tác huy động vốn có vai trò
quyết định. Nó đảm bảo cho NHTM có đủ vốn để hoạt động và phát triển. Ngoài
việc huy động được một quy mô vốn đủ lớn thì cơ cấu nguồn vốn cũng có vai trò rất
quan trọng, nó giúp cho NHTM có thể kinh doanh đa năng, đa dạng trên thị trường.
Việc sử dụng vốn phải phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động được. Và
14

với một mục đích sử dụng vốn nhất định, việc huy động vốn phù hợp với nhu cầu
sử dụng là hết sức có ý nghĩa.
Với ý nghĩa đó của nguồn vốn và công tác huy động vốn, để có thể duy trì và
phát triển được thì trong quá trình hoạt động, các NHTM cần hết sức chú trọng công tác
này.
1.2.5. Các hình thức huy động vốn của NHTM
1.2.5.1. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tiền gửi
a, Tiền gửi không kì hạn
Tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc
nào. Mục đích chính của người gửi không phải là để hưởng lãi mà để hưởng những
dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp và tìm kiếm một nơi cất trữ an toàn. Do đó,
ngân hàng chỉ phải trả một mức lãi suất rất thấp hoặc không phải trả lãi. Đây là nguồn
vốn thường xuyên biến động nên ngân hàng không thể sử dụng một cách chủ động mà
luôn phải dự trữ một khoản tiền để trả cho khách hàng ngay khi có họ có nhu cầu thanh
toán. Tuy nhiên, nếu như ngân hàng có thể huy động được một khối lượng lớn những
khoản tiền gửi không kì hạn thì đây lại là nguồn vốn ổn định và có chi phí rẻ đối với
ngân hàng.
b, Tiền gửi có kì hạn
Tiền gửi có kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng có sự
thỏa thuận trước đối với ngân hàng về thời hạn rút tiền. Ngân hàng có thể chủ động
sử dụng số tiền gửi vào mục đích kinh doanh trong thời gian kí kết. Đối với loại tiền
gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại kì hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng…mục đích
là để khách hàng có thể lựa chọn kì hạn phù hợp với khoảng thời gian nhàn rỗi của
khoản vốn. Khách hàng gửi tiền là để hưởng lãi suất nên mức lãi suất mà ngân hàng
đưa ra phải cao hơn lãi suất tiền gửi không kì hạn.
c, Tiền gửi tiết kiệm
Là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng
lãi. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng sẽ được ngân hàng phát cho một
cuốn sổ tiết kiệm. Khách hàng phải mang theo cuốn sổ này mỗi khi đến ngân
hàng giao dịch.

Ở Việt Nam, việc phân biệt tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm dựa trên
đối tượng áp dụng, tuy nhiên điều này không phải hoàn toàn đúng : Tiền gửi có kì
hạn được áp dụng đối vói khách hàng doanh nghiệp còn tiền gửi tiết kiệm thường
15
áp dụng đối với khách hàng là dân cư. Các hình thức tiền gửi tiết kiệm bao gồm :
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn
Là loại tiền gửi có thể được rút ra bất cứ lúc nào, song không được hưởng
các dịch vụ thanh toán để chi trả cho người khác. Đối với khách hàng khi chọn lựa
hình thức gửi tiền này thì mục tiêu an toàn tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh
lợi. Lãi suất áp dụng đối với loại tiền gửi này cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, tiền gửi tiết kiệm có kì hạn được
thiết kế dành riêng cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục
tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch gửi tiền trong tương lai. Đa số
khách hàng lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân viên chức, hưu trí. Mục
tiêu quan trọng của họ là lợi tức theo định kì. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan
trọng để thu hút được khách hàng.
1.2.5.2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Ngoài nghiệp vụ truyền thống là huy động tiền gửi, các ngân hàng có thể
phát hành các loại giấy tờ có giá để huy động vốn. Giấy tờ có giá ở đây thực chất là
các giấy nhận nợ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của ngân hàng đối với khách hàng. Ngân
hàng thường phát hành các loại giấy tờ có giá sau :
a, Phát hành trái phiếu
Trái phiếu là một chứng thư xác nhận khoản nợ của ngân hàng phát hành đối
với người sở hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm lãi trong một khoảng thời
gian nhất định. Kỳ hạn của trái phiếu thường từ 1 năm đến 5 năm. Do đó, trái phiếu
là công cụ huy động vốn trung, dài hạn của ngân hàng. Hiện nay, trái phiếu NHTM
được nhận định là rất thanh khoản, có tính sinh lời cao, lãi suất hấp dẫn. Phát hành
trái phiếu để tăng vốn trung, dài hạn đang là một kênh huy động vốn ưa thích đối
với các NHTM.

b, Phát hành kì phiếu
Hình thức của kì phiếu giống như trái phiếu, chỉ khác nhau ở điểm kì hạn của
kì phiếu thường nhỏ hơn 1 năm. Các ngân hàng thường phát hành kì phiếu với mục
tiêu huy động vốn ngắn hạn. Kỳ phiếu có tính ổn định, tính tập trung và lãi suất cao
hơn so với tiền gửi có kì hạn. Ngoài ra kỳ phiếu được phép mua bán, chuyển
nhượng, chiết khấu, nên ngân hàng có thể chủ động hơn trong việc huy động vốn.
c, Phát hành chứng chỉ tiền gửi
16
Bản chất của chứng chỉ tiền gửi giống như một khoản tiền gửi có kì hạn, theo
đó người sở hữu nó được hưởng các khoản lãi suất định kì trên cơ sở 360 ngày và
được hoàn trả gốc khi đáo hạn. Điểm khác biệt lớn nhất giữa chúng là chứng chỉ
tiền gửi được phép mua bán, chuyển nhượng trên thị trường.
1.2.5.3. Vay Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tín dụng khác
Khi ngân hàng cần đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, nó có thể đi vay từ các
TCTD khác trên thị trường liên ngân hàng. Điều này có lợi cho cả ngân hàng đi vay và
ngân hàng cho vay. Một mặt ngân hàng đi vay có thể bù đắp được sự thiếu hụt vốn khả
dụng, mặt khác ngân hàng cho vay có thể kiếm lời từ những khoản dự trữ dư thừa. Tuy
nhiên, chi phí của việc đi vay trên thị trường liên ngân hàng thường khá cao và không ổn
định. Do đó các ngân hàng thường chỉ sử dụng hình thức này để bù đắp thiếu hụt
vốn trong ngắn hạn.
Trong trường hợp khan hiếm vốn, các ngân hàng không thể đi vay từ các
TCTD khác thì có thể đi vay NHTW. NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng trung
gian thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn. Từ đó, các
ngân hàng có thể bổ sung thêm vốn khả dụng một cách thường xuyên. Tuy nhiên,
các khoản tín dụng của NHTW gắn liền với việc phát hành tiền trung ương, nên
điều kiện chiết khấu thường rất chặt chẽ. Ở nhiều nước, việc vay quá nhiều từ cửa
số chiết khấu có thể ảnh hưởng đến uy tín của NHTM. Vì thế, NHTW thường được
nhắc nhiều hơn với vai trò người cho vay cuối cùng trong trường hợp NHTM gặp
những khó khăn bất khả kháng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM

1.3.1. Các nhân tố khách quan
1.3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội
Hoạt động kinh doanh nói chung và huy động vốn của NHTM nói riêng luôn
gắn với môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường kinh tế và pháp lý. Hoạt
động huy động và sử dụng vốn của NHTM chịu sự tác đông trực tiếp từ các chỉ tiêu
kinh tế như: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân, tốc độ chu
chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Khi nền kinh tế trong thời kỳ
hưng thịnh, tốc độ phát triển nhanh, thu nhập quốc dân cao, các đơn vị kinh tế, dân
cư có nguồn tiền dồi dào gửi vào ngân hàng. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế bất
ổn, nền kinh tế trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát cao thì việc huy động vốn của
ngân hàng gặp nhiều khó khăn, người dân sẽ không tin tưởng gửi tiền vào ngân
17
hàng mà dùng tiền để mua sắm các tài sản có tính ổn định cao, còn các doanh
nghiệp phải thu hẹp sản xuất, lượng tiền gửi vào ngân hàng sẽ bị giảm xuống.
Các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng là các nhân tố ảnh
hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các thành phố lớn, nơi tập
trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành một nguồn tiền gửi lớn.
Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn
tiền, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Ví dụ:
vào dịp cuối năm, nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng như tiền gửi của các doanh nghiệp
có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn đang
phổ biến như nước ta hiện nay.
Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt của dân cư
ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế về tiêu dùng và tiết kiệm của người có thu nhập,
mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hay quyết định chi số tiền
nhàn rỗi của họ đầu tư vào bất động sản, động sản, chứng khoán.
1.3.1.2. Ảnh hưởng của môi trường chính trị- pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt chẽ
của pháp luật và cơ quan chức năng của chinh phủ. Hoạt động ngân hàng được điều
chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. môi trường pháp lý đem lại cho

ngân hàng hàng loạt cơ hội và thách thức. Ví dụ như việc dỡ bỏ các hạn chế về huy
động vốn tiền gửi nội tệ sẽ mở đường cho các ngân hàng nước ngoài phát triển các
sản phẩm để huy động tiền gửi nội tệ và các sản phẩm về cho vay nội tệ.
Ngoài ra ngân hàng còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều bộ luật: luật dân sự,
luật NHTW, các quy định của chính phủ… Do đó hoạt động uy động vốn của ngân
hàng cũng bị ảnh hưởng bởi chính sách pháp luật của nhà nước, chính sách của
NHTW như: hính sách tiền tệ, lãi suất, tài chính, tín dụng… Sự thay đổi của chính
sách này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn và chất lượng nguốn và NHTM.
1.3.1.3 Ảnh hưởng của nhân tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Theo xu hướng đa dạng hóa trong môi trường họi nhập quốc tế, các ngân
hàng không chỉ cạnh tranh với các nhân hàng của nước mình mà còn phải cạnh
tranh với các ngân hàng của nước ngoài có cơ sở vật chất, kĩ thuật, dịch vụ đa năng
và hiện đại. Nó đã làm cho sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vị tài chính ngày càng
trở nên gay gắt và quyết liệt trong việc tìm kiếm các nguồn tiết kiệm cạnh tranh,
thúc đẩy các ngân hàng ngày càng cung cấp các tiện ích tốt hơn cho khách hàng,
buộc các ngân hàng áp dụng các công nghệ mới, chú ý đến chất lượng dịch vụ.
18
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy động vốn
Ngân hàng cần hiểu được động cơ, thói quen và những mong muốn của
người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng gửi tiền thông qua phân tích lợi
ích của khách hàng. Mục đích gửi tiền của doanh nghiệp thường là nhờ ngân hàng
quản lý, ký quỹ hoặc nhờ chi trả trong thanh toán trong khi các cá nhân gửi tiết
kiệm có mục đích là hưởng lãi. Mục đích của tiền gửi trên loại tài khoản khác nhau
cũng rất khác nhau như tiền gửi giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có
kỳ hạn để dành tiền cho tiêu dùng, đầu tư trong tương lai đồng thời hưởng lãi.
Trên cơ sở những thông tin của khách hàng, ngân hàng có thể đưa ra
những hệ thống các chính sách và biện pháp phù hợp để có được quy mô và chất
lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách liên quan đến huy động
vốn bao gồm:

- Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của ngân hàng:
Nhóm chính sách này nhằm vào việc đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung cấp
và chất lượng của chúng như: Chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịch vụ liên quan
đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán.
Những năm gần đây các ngân hàng đã đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, hoàn thiện và
đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường,
đồng thời mở rộng phát triển dịch vụ mới.
- Các chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi và phí dịch vụ: đây được coi là
giá cả của các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất
tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy
mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, ngân hàng cần ấn định mức
lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi
tiền thường xuyên. Hơn nữa, hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và
cơ cấu nguồn vốn. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn còn bị chi phối bởi giá cả của các
dịch vụ khác như phí chuyển tiền, phí dịch vụ thanh toán, ngân quỹ.
- Các chính sách về tổ chức- kỹ thuật: đây là các chính sách và biện pháp
nhằm làm thuận lợi, nhanh chóng, đơn giản trong quan hệ với khách hàng, bao
gồm: việc bố trí mạng lưới thu hút vốn, hoàn thiện công nghệ ngân hàng, cơ chế tài
chính, đồng thời tổ chức thông suốt hệ thống thanh toán sao cho nhanh chóng, an
toàn, chính xác.
19
- Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp: Các chính sách này được các
NHTM rất quan tâm nhằm tạo ra và củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó
với khách hàng truyền thống va hấp dẫn khách hàng mới. Trong điều kiện khó có
thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả như hiện nay, chất lượng dịch vụ
khách hàng trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút nguồn vốn.
Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, bố trí hệ thống thanh toán khoa học là những
điều hết sức cần thiết để giữ vững khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng.
Trên cơ sở những thông tin của khách hàng, ngân hàng có thể đưa ra hệ
thống các chính sách và biện pháp phù hợp để có được quy mô và chất lượng nguồn

vốn mong muốn.
1.3.2.2. Mạng lưới và các dịch vụ ngân hàng
Mạng lưới hoạt động càng rộng thì kết quả huy động vốn càng tăng về số
lượng do việc thực hiện được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các
khoản tiền tiết kiệm của dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp
cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo ra cho khách hàng tâm lý ngại đến ngân hàng. Với
một mạng lưới rộng khắp, tạo ra sự dễ dàng trong việc tiếp cận ngân hàng của người dân
thì ngân hàng sẽ thu hút được các khoản tiền gửi một cách có hiệu quả.
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung
cấp các dịch vụ cho công chúng. Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc
vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ mà xã hội yêu cầu, thực hiện các dịch
vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Sau đây là
các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp:
- Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng là: thực hiện trao đổi ngoại tệ;
chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại; nhận tiền gửi; bảo quản vật có
giá trị; tài trợ các hoạt động của chính phủ; cung cấp các tài khoản giao dịch;
cung cấp dịch vị ủy thác.
- Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây là: cho vay tiêu dùng; tư vấn
tài chính; quản lý tiền mặt; dịch vụ thuê mua thiết bị; cho vay tài trợ dự án; bán các
dịch vụ bảo hiểm; cung cấp các kế hoạch hưu trí; cung cấp các dịch vụ môi giới đầu
tư chứng khoán; cung cấp các dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp; cung cấp dịch vụ
ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn.
Một ngân hàng cung cấp các dich vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn
các ngân hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn
20

×