Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Giải pháp tăng cường hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.79 KB, 50 trang )

Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
2.1.1. Khái quát tình hình của NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa – Hà Nội 21
3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Chi nhánh Hà Tây 37
DANH MỤC VIẾT TẮT
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
NHNN Ngân Hàng Nhà Nước
NHTM Ngân Hàng Thương Mại
NHNo &PTNT Việt Nam Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Việt Nam
Agribank Đống Đa Chi Nhánh NHNo & PTNT Đống Đa
NH Ngân Hàng
TCTD Tổ chức Tín Dụng
TCKT Tổ chức Kinh Tế
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
DANH MỤC BẢNGBIỂU
DANH MỤC VIẾT TẮT 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
2.1.1. Khái quát tình hình của NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa – Hà Nội 21
2.1.1. Khái quát tình hình của NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa – Hà Nội 21
3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Chi nhánh Hà Tây 37
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề huy động vốn đóng vai trò vô cùng
quan trọng. Vón là một trong những nhân tố quyết định tới sự thành công hay
thất bại của doanh nghiệp. Đặc biệt, trong hoạt động ngân hàng, vốn trở thành
yếu tố đặc biệt quan trọng. Nó quyết định sự hình thành và phát triển của ngân


hàng vì ngân hàng là tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên kinh doanh tiền tệ. Vốn
ngân hàng càng nhiều thì khả năng thanh toán cũng như nắm bắt cơ hội đầu tư
của ngân hàng càng cao.
Trong thời gian qua, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
đã đạt được một số thành công đáng khích lệ trong công tác huy động vốn. Qui mô
vốn huy động được tăng dần qua các năm góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn
cho các doanh nghiệp, hộ gia đình phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần thực
hiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, giữ vững vai
trò là một trong các ngân hàng chủ đạo của đất nước. Đặc biệt, nền kinh tế Việt
Nam hiện đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, hội nhập kinh tế thế giới thì
càng đòi hỏi phải có một lưọng vốn lớn, ổn định. Do đó, huy động vốn lại càng trở
nên quan trọng hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn, nghiên cứu thực
trạng huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội,
sau một thời gian thực tập tại phòng Nguồn vốn, được sự giúp đỡ của Ban Giám
đốc, các cô, chú trong phòng Nguồn vốn và thầy giáo hướng dẫn GS.TS Vũ Văn
Hóa, em đã chọn đề tài: “ Giải pháp tăng cường hiệu quả huy động vốn tại
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội” làm đề tài cho chuyên
đề tốt nghiệp của mình.
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
1
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
Nội dung gồm 3 chương chính
Chương 1: Khái quát về vốn kinh doanh và hiệu quả huy động vốn của Ngân
hàng Phát triển và Nông thôn chi nhánh Đống Đa.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn và hiệu quả huy động vốn của Ngân
hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đống Đa, trong thời gian
2010 - 2012
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao huy động vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.

Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú trong Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Hà Nội và thầy giáo PGS, TS Vũ Duy Hào đã tận tình giúp
đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
2
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU
QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
1.1.Vốn kinh doanh và nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
1.1.1 Khái niệm về vốn.
* Khái niệm: Hoạt động kinh doanh đòi hỏi cần phải có vốn đầu tư. Có thể
nói rằng, vốn là tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp cũng như của ngân
hàng.Vốn được biểu hiện là một khoản tiền bỏ ra nhằm mục đích kiếm lời.
Vốn kinh doah của Ngân hàng là toàn bộ giá trị tiền tệ và tài sản do ngân
hàng tạo lập và huy động được dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác trong thời gian nhất định
Vốn kinh doanh của NHTM được thể hiện :
- Các tài sản cố định gồm :
+ Trụ sở, đất đai
+ Máy, thiết bị, phương tiện vận tải
+ Thương hiệu của NHTM
- Các tài sản lưu động
- Tiền mặt, tiền gửi
- Các loại khác
1.1.2.Thành phần của vốn kinh doanh.
1.1.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu.
Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo
lập được, thuộc sở hữu ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của

ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin
đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp
thua lỗ. Nó còn là một căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng huy động của
ngân hàng, qua đó quyết định đến năng lực và thế phát triển của một NHTM.
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
3
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
• Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng được yêu
cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có
để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ
lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân
hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Khi ngân hàng bước vào
hoạt động thì nguồn vốn này được thể hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết
bị, dự trữ, và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích
lập quỹ phúc lợi khen thưởng.
Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng các loại hình ngân hàng, vốn
điều lệ cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào đặc
trưng từng hình thức sở hữu. Đối với các ngân hàng tư ngân, đây là vốn sỡ hữu
riêng của doanh nghiệp và được hình thành sau một quá trình tích tụ, tập trung vốn.
Ngược lại, các ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động trên cơ sở vốn ban đầu
so Ngân sách nhà nước câp. Vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần do các cổ đông
đóng góp dưới hình thức mua cố phiếu, còn đối với các ngân hàng liên doanh là sự
góp vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước.
• Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn điều lệ không phải luôn
giữ cố định mà vẫn được bổ sung và tăng dần theo các hình thức: ngân sách nhà
nước cấp thêm, huy động từ các cổ đông, lợi nhuận tích lũy tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể.

• Các quỹ:
Ngân hàng có rất nhiều quỹ. Các quỹ đều thuộc sở hữu của ngân hàng, hình
thành từ thu nhập của ngân hàng nhưng nhằm các mục đích khác nhau như quỹ dự
phòng tổn thất nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra, quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp
hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát, …
• Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Nguồn này gồm các khoản vay trung và dài hạn có thể chuyển đổi thành cổ
phần. Đây được coi là một phần vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
4
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
nguồn này có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Trước khi đến hạn, nếu ngân
hàng có thể trả được các khoản vay nợ này thì trả với lãi suất thấp, còn khi đến
hạn thì các khoản vay này sẽ trở thành vốn của ngân hàng. Do đó, ngân hàng có
thể dùng các khoản vốn này để sủ dụng lâu dài, đầu tư vào nhà cửa, trang thiết
bị, đổi mới công nghệ….
1.1.2.2. Nguồn vốn cố định:
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Tài sản cố định là những tư liệu lao
động chủ yếu, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
được khấu hao dần trong quá trình sử dụng để chuyển dịch vào giá trị sản phẩm và
đựơc bù đắp lại bằng tiền khi tiêu thụ được sản phẩm. Quy mô của vốn cố định
quyết định quy mô tài sản cố định nhưng tốc độ lưu chuyển giá trị của tài sản cố
định lại quyết định tốc độ lưu chuyển vốn cố định.
1.1.2.3. Nguồn vốn lưu động:
Là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản lưu động, đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh được liên tục. Sự vận động của vốn lưu động phụ thuộc vào sự
vận động của tài sản lưu động. Tài sản lưu động trong doanh nghiệp luôn thay đổi
hình thái biểu hiện từ tài sản lưu động trong sản xuất sang tài sản lưu động trong
lưu thông làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, thường xuyên. Giá trị của
tài sản lưu động được chuyển dịch một lần vào giá trị sản phẩm.

1.1.2.4. Nguồn từ nợ phải trả.
Nợ phải trả là phần vốn không thuộc sở hữu của ngân hàg nhưng ngân hàng
có quyền sử dụng để kinh doanh và có trách nhiệm trả cả gốc lẫn lãi cho chủ sở
hữu Nợ phải trả bao gồm:
• Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ mà ngân hàng phải trả có thời hạn dưới một năm
hoặc trong một chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, thường bao gồm các khoản sau:
+ Các khoản tiền gửi ngắn hạn: Các khoản tiền gửi khách hàng gửi đến ngân
hàng với thời hạn dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh của ngân hàng.
+ Vay ngắn hạn: Là các khoản ngân hàng vay NHNN, TCTD, NHTM khác
với thời hạn dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh của ngân hàng.
Nợ dài hạn đến hạn trả: Là các khoản ngân hàng vay với thời hạn dài nhưng
thời hạn phải trả chỉ còn dưới một năm hoặc trong kỳ kinh doanh này.
Các khoản nợ ngắn hạn khác như thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, phải
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
5
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
trả công nhân viên và các khoản phải trả, phải nộp khác.
• Nợ trung và dài hạn: Là các khoản nợ có thời gian trả nợ trên một năm
hoặc trên một chu kỳ kinh doanh.
+ Các khoản tiền gửi trung và dài hạn: Các khoản tiền gửi khách hàng gửi đến
ngân hàng với thời hạn trên một năm hoặc trên một chu kỳ kinh doanh của ngân
hàng.
+ Vay trung và dài hạn: Là các khoản ngân hàng vay NHNN, TCTD, NHTM
khác với thời hạn trên một năm hoặc trên một chu kỳ kinh doanh của ngân hàng,
trừ các khoản ngân hàng vay với thời hạn dài nhưng thời hạn phải trả chỉ còn dưới
một năm hoặc trong kỳ kinh doanh này.
1.1.2.5. Nguồn vốn đi vay.
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Tuy nhiên, khi các
ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì các
NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi vay là quan

hệ vay vốn giữa NHTM với ngân hàng nhà nước, hoặc giữa NHTM với nhau, với
các tổ chức tín dụng hoặc vay trên thị trường.
• Vay ngân hàng nhà nước.
Vay Ngân Hàng Nhà Nước là khoản vay nhẳm giải quyết nhu cầu cấp bách
trong chi trả khi NHTM thiếu hụt dự trữ, thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt vốn.
Đây là nguồn cứu tinh sau cùng cho các NHTM để tránh vấp phải khủng hoảng tài
chính. Tuy nhiên, việc vay Ngân hàng nhà nước phụ thuộc vào rất nhiều vào việc
ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách nới lỏng và thắt chặt tiền tệ. Khi
Ngân hàng Nhà nước đang hạ lãi suất chiết khấu, nới lỏng cung ứng tiền tệ nhằm
mục đích kích thích đầu tư thì các NHTM có thể có nguồn vốn dồi dào với chi phí
thấp. Ngược lại, khi Ngân Hàng Nhà Nước muốn thắt chặt cung ứng tiền để chống
lạm phát thì việc vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước là rất khó khăn và các NHTM
phải cân nhắc kĩ chi phí huy động, tránh thua lỗ.
• Vay các tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
6
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng do trong quá trình hoạt đông, cũng có lúc
các NHTM thiếu hụt dự trữ hoặc thiếu tiền mặt, buộc phải vay mượn các tổ chức
tín dụng khác. Các tổ chức tín dụng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết cấu dư
gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng
cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh toán.
Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và
chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ ngân hàng Nhà nước.
• Vay trên thị trường.
Bên cạnh phương thức vay trên, các NHTM còn có thể vay trên thị trường
tiền tệ và thị trường vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiên gửi, kỳ phiếu và trái

phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc
phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu là phiếu nợ
ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai
loại phiếu nợ trên được ngân hàng phát hành từng đợt, tùy theo mục đích với sự
chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước hoặc Ủy ban chứng khoán nhà nước.
1.1.2.6. Vốn bên trong ngân hàng:
Là vốn huy động được từ kết quả hoạt động của ngân hàng, bao gồm khấu
hao tài sản cố định, các quỹ được trích từ lợi nhuận sau thuế như quỹ dự phòng tài
chính, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ đầu tư phát triển,… Khi sử dụng vốn này thì
ngân hàng được quyền tự chủ sử dụng vốn và không phải trả chi phí sử dụng vốn.
1.1.2.7. Nguồn vốn bên ngoài ngân hàng:
Là nguồn vốn ngân hàng huy động được từ bên ngoài phục vụ quá trình sản
xuất kinh doanh, bao gồm: vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát
hành trái phiếu,… Nguồn vốn này tạo ra một cơ cấu vốn linh hoạt nhưng ngân
hàng phải trả lãi vay và vốn đúng kỳ hạn, nếu sử dụng vốn vay không hiệu quả thì
nợ vay sẽ trở thành gánh nặng và chịu rủi ro lớn.
1.1.2.8.Nguồn vốn thường xuyên:
Gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay, tiền gửi dài hạn. Nguồn vốn này có
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
7
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
tính chất ổn định và dài hạn mà ngân hàng thường dùng để mua sắm tài sản cố định
và cho vay trung, dài hạn.
1.1.2.9.Nguồn vốn tạm thời:
Gồm các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn như các khoản vay ngắn hạn, tiền
gửi ngắn hạn,…thường dùng để cho vay ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu thanh toán
hàng ngày và một phần có thể sử dụng để cho vay trung, dài hạn.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn.
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được vốn lớn, các
NHTM phải tìm cách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu và

thỏa mãn mọi mong muốn của khách hàng. Vì thế , theo các tiêu thức khác nhau có
thể phân các hình thức huy động vốn thành các loại khác nhau.
1.1.3.1. Theo đối tượng huy động.
 Huy động vốn từ dân cư.
Ngân hàng huy động vốn từ dân cư thông qua tiết kiệm, mở và duy trì việc sử
dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Là một phần thu nhập của người dân gửi vào
ngân hàng nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời. Sổ tiết kiệm không dùng để thanh
toán tiền hàng song có thể dùng để thế chấp vay vốn nếu được ngân hàng cho
phép.
Theo kỳ hạn gửi tiền thì ngừơi ta chia ra tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm
không kỳ hạn:
- Tiết kiệm không kỳ hạn là hình thức mà người gửi có thể rút vốn ra bất kỳ
lúc nào để phục vụ nhu cầu sử dụng. Hình thức này có lãi suất thấp, là nguồn vốn
rẻ nhất mà ngân hàng huy động được, nhưng do lãi suất quá thấp nên đã hạn chế
khả năng tăng trưởng của nguồn vốn này.
- Tiết kiệm có kỳ hạn là hình thức huy động tiền nhàn rỗi của dân cư trên cơ
sở họ đã xác định kế hoạch sử dụng trong tương lai. Hình thức này có lãi suất cao
hơn tiết kiệm không kỳ hạn và nếu kỳ hạn càng dài thì lãi suất thường càng cao.
+ Tài khoản tiền gửi cá nhân: Là tài khoản tiền gửi để khách hàng gửi vào
ngân hàng những khoản tiền nhàn rỗi, tạm thời chưa cần dùng nhằm mục đích
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
8
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
sinh lời hoặc để sử dụng các phương tiện thanh toán qua ngân hàng như séc, uỷ
nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,… Tuỳ vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng
mà các tài khoản này có thể có hay không có kỳ hạn. Nhưng các tài khoản này
chủ yếu vẫn là tài khoản không kỳ hạn và thường để thực hiện các giao dịch,
thanh toán qua ngân hàng.
Từ nguồn này, ngân hàng có thể huy động được vốn khá lớn mà chi phí lại rất

thấp (chủ yếu là không kỳ hạn nên ngân hàng chỉ phải trả lãi suất không kỳ hạn)
nhưng cũng chính vì nguồn tiền này chủ yếu là không kỳ hạn nên nó không ổn
định, khách hàng có thể gửi thêm, rút ra bất cứ lúc nào. Vì vậy, nếu ngân hàng sử
dụng nguồn vốn này quá nhiều thì nguy cơ rủi ro thanh khoản cao còn nếu ngân
hàng lại dự trữ quá nhiều thì sẽ lãng phí nguồn vốn. Do đó, để sử dụng nguồn vốn
ngay có hiệu quả thì ngân hàng cần nghiên cứu, phân tích kỹ đặc điểm kinh doanh,
thu nhập, chi tiêu của khách hàng để từ đó có thể rút ra quy luật tỷ lệ sử dụng
nguồn vốn này của khách hàng để đưa ra kế hoạch dự trữ cho phù hợp, phần còn
lại có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn.
 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế.
Tại những thời điểm nhất định trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các
TCKT thường tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi và được gửi vào ngân hàng. Các
khoản tiền đó thường được gửi dưới 2 hình thức tiền gửi thanh toán và tiền gửi có
kỳ hạn.
+ Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền gửi không kỳ hạn được dùng để thanh
toán, chi trả một cách thường xuyên cho các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình kinh doanh. Hình thức này rất an toàn và thuận tiện với
khách hàng là doanh nghiệp và các nhà kinh doanh.
Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài
khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi vãng lai. Tài khoản thanh toán
thường được chi trả cho bên thứ ba bằng séc hoặc chuyển khoản. Tài khoản tiền
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
9
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
gửi vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có và được ngân hàng đáp ứng
nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Tiền gửi thanh toán là khoản tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng có thể rút bất
cứ lúc nào nên lãi suất của những khoản tiền gửi này là thấp và ngân hàng phải dự
trữ đảm bảo khả năng thanh toán rất cao.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền khách hàng gửi ngân hàng với sự thởa

thuận trước về thời gian rút tiền. Tiền gửi này chủ yếu có nguồn gốc từ tích luỹ và
được gửi với mục đích hưởng lãi. Các khoản tiền này không được dùng để thanh
toán như tiền gửi thanh toán mà thường đuợc khách hàng rút khi đến hạn nên có lãi
suất cao song nếu khách hàng rút tiền trước hạn thì thường phải chịu lãi suất thấp.
 Huy động vốn từ các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng.
Ngân hàng thường huy động vốn từ các tổ chức tín dụng bằng cách nhận mở
và duy trì các tài khoản tiền gửi hoặc đi vay.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có thể phát sinh nhu cầu vay vốn do đã
sử dụng hết các nguồn vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn
hoặc thiếu hụt ngân quỹ do khách hàng đến rút nhiều. Khi đó, ngân hàng phải vay
vốn để bù đắp nguồn vốn thiếu hụt đó. Ngân hàng có thể vay vốn từ các tổ chức tín
dụng khác hoặc vay NHNN.
+ Vay từ tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng khác:
Ngân hàng có thể huy động vốn từ TCTD, TCTC thông qua nhận mở và duy
trì tài khoản tiền gửi hoặc đi vay.
Trong một số giai đoạn nhất định, NHTM có thể phát sinh nhu cầu vay vốn
khi sử dụng hết các nguồn vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn
hoặc thiếu hụt ngân quỹ do có những khách hàng đến rút tiền đột xuất. NHTM có
thể bù đắp nguồn vốn thiếu hụt bằng cách đi vay. Ngân hàng có thể vay ở các
TCTD khác hoặc vay NHNN.
Vay từ TCTC, TCTD khác: Trong trường hợp phát sinh nhu cầu, ngân hàng
có thể vay các TCTD khác thông qua cơ chế thị trường liên ngân hàng, thành viên
tham gia thị trường liên ngân hàng là các NHTM có hoạt động hợp pháp, các
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
10
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
khoản vay đều phải có tài khoản thế chấp (chứng từ có giá, số dư tài khoản tại
NHNN) hoặc được NHNN bảo lãnh.
Vay NHNN: Các NHTM có thể vay NHNN khi gặp khó khăn dưới hình thức
tái chiết khấu chứng từ có giá. NHNN với vai trò là người cho vay cuối cùng sẽ

xem xét xem có cho các NHTM này vay hay không bởi việc này sẽ ảnh hưởng đến
khối lượng tiền trong lưu thông.
Nguồn vốn đi vay nói trên rất quan trọng vì nó đảm bảo cho TCTD hoạt động
một cách bình thường.
Nguồn vốn tài trợ uỷ thác: Sự phát triển của nền kinh tế, sự hình thành công
ty đa quốc gia, sự phụ thuộc lẫnm nhau của hệ thống kinh tế thế giới làm nảy sinh
những yêu cầu mới và ngân hàng tìm cách đáp ứng những yêu cầu đó như: những
nguồn viện trợ, nhu cầu chi trả cho một món hàng,… Để làm cho vốn lưu động có
hiệu quả hơn, ngân hàng đứng ra làm nhiệm vụ trung gian thanh toán, thực hiện
việc chi trả cho khách hàng hoặc phân phối giúp nguồn tài sản của khách hàng cho
những người mà họ yêu cầu,… Ngoài việc tạo thêm thu nhâp từ phí dịch vụ, hoạt
động này cũng tạo nên vốn ngắn hạn cho ngân hàng do sự chênh lệch giữa thời
gian thu và chi hộ.
Vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn của ngân hàng,
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.1.3.2. Theo đối tượng huy động.
 Huy động tiền gửi.
 Tiền gửi không kì hạn.
Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân
hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất
thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người ra phân chia
thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy.
- Tiền gửi thanh toán: Đây la khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến hành thanh
toán, chi trả các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và cách khoản chi phía phát sinh
trong quá trình kinh doanh của một cách thường xuyên, an toàn và và thuận tiện.
Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khoản phải trả cho ngân hàng
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
11
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng

một khoản phí.
- Tiền gửi không kì hạn thuần túy: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, cá
nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa cóp kế hoạch sử dụng cụ thể
nhằm mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể đến ngân hàng rút tiền để
chi tiêu. Hinh thức gửi tiền này không được ngân hàng cho phép phát hành séc.
 Tiền gửi có kì hạn.
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về
thời gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân,
có nguồn vốn từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích
hưởng lãi.
Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi
báo rút ( tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền gửi có kì
hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn
trên tài khoản vãng lai nên không thể phát séc. Thông thường, tiền gửi có kì hạn là
các khoản tiền có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn đinh, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa
loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm
đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
 Tiền gửi tiết kiệm.
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐ –
NHNN của thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quy định tõ tiền gửi tiết kiệm là
khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận
trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm
và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Đây là một phần thu nhập của cá nân người lao động chưa sử dụng cho tiêu
dùng. Do đó, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và
hưởng lãi. Vì thế, tài khoản tiền gửi không thể phát séc hay thực hiện các khoản
thanh toán khác ngoại trừ người gửi tiền đề nghị trích tài khoản tiền gửi tiết kiệm

Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
12
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
để trả nợ vay hay chuyển sang một tài khoản khác của chính chủ tài khoản.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại
là tiền gửi tiết kiệm không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: Tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể
rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: Tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền
sau một kì hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng và quan trọng nhất trong tổng nguồn
vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng bán lẻ. Do đó, việc tăng cường huy
động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
NHTM.
1.1.3.3. Theo thời gian huy động.
 Ngắn hạn.
Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản huy
động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa dạng hóa các
sản phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ han theo ngày, tuần,
tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dữ trữ bắt buộ thường cao. Theo
quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc
đối với các tổ chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng là 11% trên tổng số dư tiền
gửi phải dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền được khách hàng ưa chuộng nên chiếm
tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động.
 Trung và dài hạn.
Do ngân hàng chủ yêu cho vay dài hạn nên để nâng cao khả năng thanh khoản
cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM thường huy động các nguồn tiền
trung hạn ( từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (60 tháng trở lên). Do kì hạn

dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền này thường cao. Theo quyết định của thống
đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
13
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền
gửi có kì hạn trên 12 tháng là 5 % trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Đây là nguồn tiền có chi phí cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn so với nguồn ngắn
hạn trong tổng vốn huy động và thường cao cho vay, đầu tư vào các dự án có tính
khả thi cao.
1.1.3.4. Theo loại tiền huy động.
Căn cứ vào tính thanh khoản, mức độ ưa thích, nhu cầu dự trữ, đầu tư của người
dân mà ngân hàng có thể huy động nội tệ ( VNĐ) hoặc là ngoại tệ (ngoại tệ mạnh).
 Huy động bằng nội tệ.
Do quá trình tích lũy và nhu cầu tiêu dùng, thanh toán trong nước nên khách
hàng thưởng gửi tiền bằng đồng nội tệ. Do đó, nguồn vốn này thường chiếm phần
lớn trong nguồn vốn huy động và có lãi suất cao hơn.
 Huy động bằng nội tệ
Từ nhu cầu thanh toán trong xuất nhập khẩu hàng hóa với yêu cầu đầu tư, cất
trữ bằng các ngoại tệ mạnh của khách hàng đã làm nên nguồn vốn huy động bằng
ngoại tệ trong ngân hàng. Do đó biên động về tỷ giá nên lãi suất huy động của loại
này thường thấp hon so với huy động bằng nội tệ.
1.1.4. Vai trò của vốn kinh doanh đối với NHTM.
 Vốn là cơ sở để các NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh
doanh. Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các NHTM để được phép hoạt động.
Ngày từ khi bước vào hoạt động, các ngân hàng cần vốn để mua đất đai, xây dựng
cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, và những điều kiện làm việc khác. Và với
đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà
còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM.

 Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng và các
hoạt động khác.
Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp quy
mô hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, khả năng thanh toán, chỉ trả cũng
như các hoạt động khác. Thông thường, so với các ngân hàng lớn, các ngân hàng
nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và đối tượng cho
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
14
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn.
 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng.
Như đã trình bày ở trên, phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn tiền gửi
từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Đặc điểm của nguồn tiền này là hoàn trả khi có
yêu cầu nên ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với nhau cầu rút tiền của khách
hàng. Vì thế năng lực thanh toán cao là yếu tố các ngân hàng cần phải đảm bảo và
luôn được chú trọng.
 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, kinh doanh ngân hàng đang là một lĩnh
vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Vì thế nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi
ngân hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà quản lý ngân hàng. Trong lĩnh vực
này rất khó có thể tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ hay lãi suất. Do đó, để
có thể thu hút khách hàng, ngân hàng phải có một tiềm lực tài chính mạnh và ổn
định. Tiềm lực tài chính mạng được xây dựng dựa trên một nguồn vốn lớn.
1.2. Hiệu quả huy động vốn và các tiêu chí đánh giá huy động vốn
của NHTM.
1.2.1 Khái niệm về hiệu quả huy động vốn.
Hiệu quả huy động vốn của NHTM chính là kết quả huy động mà ngân hàng
đạt được, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo được mục tiêu an toàn và
sinh lợi cao cho ngân hàng trong từng thời kỳ.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá huy động vốn.

• Nguồn vốn tăng trưởng ổn định về số lượng và thời gian:
Đánh giá qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy
động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( 1
năm sau - trước
> 0 ) đạt mục tiêu
về nguồn vốn đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định .
Sự tăng trưởng vốn thể hiện :
Tổng vốn huy động năm n
Tăng trưởng vốn huy động = > 1
Tổng vốn huy động năm n -1
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
15
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
• Hiệu suất sử dụng vốn: Hoạt động huy động vốn của NHTM không thể
tách rời với hoạt động sử dụng vốn và hoạt động sử dụng vốn là mục tiêu của hoạt
động huy động vốn.
Hiệu suất sử dụng vốn được thể hiện :

Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = > 80 %
Tổng vốn huy động
• Chi phí huy động vốn: Chi phí huy động vốn thấp sẽ tạo điều kiện cho
NHTM cá khả năng tăng được lợi nhuận hay mở rộng quy mô đầu tư và cho vay.
Chi phí huy động vốn thể hiện qua công thức:

Tổng chi phí trả lãi tiền gửi
Chi phí huy động vốn = < 10 %
Tổng vốn huy động
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn.
1.2.3.1. Các nhân tố khách quan.

• Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế quyết đinh thu nhập của người dân, ảnh hưởng đến nhu
cầu về vốn, gửi tiền của khách hàng, do đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động huy
động vốn của ngân hàng.
Khi nền kinh tế phát triển ổn định thì thu nhập dân cư cao và ổn định, làm cho
nguồn tiền vào và ra ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được dồi dào và cơ
hội đầu tư mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái thì thu nhập người dân
giảm, thu nhập chủ yếu dùng để trang trải cuộc sống hàng ngày nên ngân hàng sẽ
gặp khó khăn trong việc huy động vốn.
Khi nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, gây nên sự mất giá đồng tiền làm lợi ích
của người gửi tiền giảm do lãi suất thực giảm xuống thì khách hàng sẽ thường
chuyển sang giữ vàng hoặc ngoại tệ mạnh để tránh mất giá đồng tiền làm cho
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
16
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
doanh số tiền gửi của ngân hàng giảm.
.
• Môi trường chính trị, pháp luật.
Mỗi quốc gia đều theo một thể chế nhất định. Sự ổn định về chính trị, ngoại
giao khiến cho người dân yên tâm gửi những khoản thu nhập nhàn rỗi vào ngân
hàng mà không phải tính toán đầu cơ vào các tài sản khác mang chứa đựng nhiều
rủi ro khi mà họ chỉ mong muốn bảo toàn vốn.
Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng phải chịu sự điều chỉnh, giám sát
chặt chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng. Sự điều chỉnh của Nhà nước về
tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất có tác động mạnh mẽ tới hoạt động của ngân
hàng. Do đó, nếu hệ thống pháp luật đồng bộ, không chồng chéo sẽ tạo điều kiện
cho hoạt động của ngân hàng thuận lợi, an toàn, tạo niềm tin cho công chúng.
• Môi trường cạnh tranh.
Môi trường cạnh tranh có tác động mạnh đến ngân hàng. Các đối thủ cạnh
tranh càng nhiều, càng phát triển thì thị trường tiền tệ càng phát triển, môi trường

cạnh tranh càng trở nên khốc liệt. Khi đó đòi hỏi ngân hàng phải biết tận dụng các
cơ hội kinh doanh của mình như địa bàn, uy tín, thương hiệu của mình, tăng
cường tìm hiểu, ra đời nhiều dịch vụ mới phục vụ nhu cầu khách hàng, áp dụng
chính sách lãi suất linh hoạt,…
• Khách hàng.
Khách hàng bao gồm cả những người có vốn gửi tại ngân hàng và những
người sử dụng vốn đó. Khách hàng gửi tiền có hai yếu tố tác động tới là thu nhập
và tâm lý. Thu nhập ảnh hưởng đến số vốn tiềm tàng mà ngân hàng có thể huy
động còn tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra, vào của các nguồn tiền. Khách
hàng càng tin tưởng vào ngân hàng thì nguồn tiền vào, ra của ngân hàng càng ổn
định, càng tạo điều kiện cho ngân hàng huy động vốn tốt hơn.
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
17
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan.
• Trình độ công nghệ.
Hoạt động của ngân hàng không thể tách rời sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ. Phương thức trao đổi giữa ngân hàng và khách hàng rất nhạy cảm với các
tiến bộ công nghệ. Trình độ công nghệ của ngân hàng càng cao thì ngân hàng càng
có khả năng cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích, phù hợp với nhu cầu khách hàng, cơ
sở vật chất càng được trang bị đầy đủ khiến cho khách hàng cảm thấy hài lòng và
yên tâm hơn khi gửi tiền tại ngân hàng. Đây là một yếu tố phi lãi suất rất quan
trọng trong cạnh tranh vì khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất mà còn quan
tâm đến chất lượng phục vụ. Cùng với một mức lãi suất như nhau, chất lượng phục
vụ của ngân hàng nào tốt hơn thì sẽ khiến cho khách hàng yên tâm và giành ưu thế,
do đó sẽ giảm được chi phí huy động vốn và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
• Trình độ nhân sự.
Khi huy động vốn, các nhân viên phải giao dịch trực tiếp với khách hàng. Do
đó, phong cách, thái độ, trình độ của giao dịch viên có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của ngân hàng và tâm lý khách hàng. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị

trường, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn thì cán bộ nhân viên ngân hàng không
chỉ cần có đạo đức nghề nghiệp tốt, trách nhiệm với công việc, hết lòng phục vụ
khách hàng mà còn cần phải có trình độ chuyên môn giỏi, nhạy bén, khả năng phán
đoán cao, sẵn sàng tiếp cận với các phương thức kinh doanh hiện đại, đáp ứng nhu
cầu cạnh tranh, phát triển nền kinh tế.
• Mạng lưới.
Mạng lưới hoạt động bao gồm chi nhánh, phòng giao dịch, quầy huy động. Hệ
thống mạng lưới ngân hàng tạo nên dòng chảy dịch vụ từ ngân hàng đến khách
hàng. Do đó, mạng lưới hoạt động càng phát triển thì các dịch vụ ngân hàng càng
trở nên thuận lợi, tiện ích làm cho hiệu quả hoạt động huy động vốn càng cao.
Ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thực hiện dịch vụ nhanh
chóng, thuận tiện ngày càng gia tăng, đòi hỏi các ngân hàng phải liên kết với nhau
để có thể phân phối, cung ứng dịch vụ cho khách hàng hiệu quả nhất.
• Lãi suất.
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
18
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
Lãi suất là một yếu tố nhạy cảm, tác động trực tiếp đên hoạt động huy động
vốn của ngân hàng thương mại. Bởi vì lãi suất là một trong những mối quan tâm
hàng đầu của cá nhân, tổ chức khi muốn gửi tiền vào ngân hàng. Trước khi gửi tiền
vào ngân hàng, họ thường xem xét chất lượng phục vụ, an toàn tiền gửi của họ khi
gửi tiền vào ngân hàng, so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn. Nếu khách hàng
đánh giá các ngân hàng có cùng hệ số an toàn và các dịch vụ tiện ích thì họ sẽ chọn
ngân hàng có lãi suất cao hơn để gửi. Điều đó hoàn toàn phù hợp vì khi đó gửi vào
ngân hàng có lãi suất cao hơn sẽ có lợi hơn.
Tuỳ theo kỳ hạn mà người gửi tiền sẽ quan tâm đến lãi suất như thế nào. Đối
với tiền gửi ngắn hạn, mức độ an toàn không quan trọng như gửi tiền dài hạn nên
họ sẽ quan tâm đến lãi suất nhiều hơn. Đối với tiền gửi dài hạn thì họ lại quan tâm
đến sự an toàn vốn nhiều hơn nên sẽ có sự cân nhắc giữa lãi suất và an toàn vốn.
• Hình thức huy động vốn.

Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau. Có ngừời
gửi tiền nhằm mục đích sinh lời, lấy lãi tiêu dùng hàng tháng, có người gửi nhằm
mục đích bảo đảm an toàn,… Họ có thể gửi 3 tháng, 6 tháng, 1năm,… hoặc lâu
hơn để hưởng mức lãi suất phù hợp. Do đó, để có thể huy động được nhiều vốn từ
dân cư, các ngân hàng phải có hình thức huy động vốn đa dạng, đảm bảo thực hiện
được các nhu cầu của khách hàng. Khi hình thức huy động vốn của ngân hàng đa
dạng, khách hàng đều tìm được cho mình cách phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng,
đảm bảo thực hiện hiệu quả nhất nguồn vốn của mình. Khi đó số lượng người gửi
tăng lên và số tiền ngân hàng huy động được cũng tăng lên.
Tuy nhiên, hình thức huy động vốn càng đa dạng thì việc quản lý càng trở nên
khó khăn, phức tạp làm chi phí quản lý vốn tăng, đòi hỏi ngân hàng phải áp dụng mô
hình quản lý phù hợp, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc huy động vốn
là nguồn vốn có tính ổn định càng cao thì lãi suất huy động cũng phải cao.
• Uy tín, thương hiệu của ngân hàng.
Uy tín, thương hiệu của ngân hàng được xây dựng nên sau nhiều năm hoạt
động ổn định, có chất lượng, đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Một ngân hàng
lớn, có sẵn uy tín, tiếng tăm trong nhiều năm sẽ khiến khách hàng tin tưởng nên có
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
19
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
lợi thế trong huy động vốn. Bởi vì với cùng một mức lãi suất, thậm chí thấp hơn
ngân hàng khác một chút nhưng ngân hàng nào có uy tín, thương hiệu tốt thì người
gửi tiền tin tưởng rằng ở ngân hàng này số tiền mình gửi sẽ tuyệt đối an toàn và
thường vẫn quyết định gửi tiền vào ngân hàng đó. Do đó, ngân hàng vừa ổn định
khối lượng vốn huy động được, vừa tiết kiệm chi phí huy động vốn.
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao huy động vốn.
1.3.1. Đối với nền kinh tế.
Việc nâng cao hiệu quả huy động vốn sẽ tạo cơ hội cho việc giảm giá bán
hàng hóa, nâng cao đời sống dân cư, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trong nước và quốc tế. Hiện này về huy động vốn nước ngoài, nhiều tiềm năng vốn

nước ngoài vẫn chưa được khai thác triệt để. Thực hiện ODA và FDI còn thấp so
với mức cam kết và đăng ký của các nhà tài trợ, các nhà đầu tư tại Việt Nam. Sự
cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang ngày càng trở nên
gay gắt trong khu vực và trên thế giới trong khi môi trường đầu tư của Việt Nam
vẫn bị đánh giá là thiếu nhất quán và kém cạnh tranh. Ngoài ra thu hút vốn đầu tư
gián tiếp còn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn còn gặp nhiều khó khăn do Việt
Nam chưa thực sự có những quy định pháp lý rõ ràng.
1.3.2. Đối với NHTM.
Đối với ngân hàng, vốn huy động chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn,
chính vì thế nguồn vốn huy động là cơ sở để Ngân Hàng tổ chức thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh của mình. Do đó, vốn huy động có ý nghĩa rất quan trọng đối
với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Quy mô hoạt động của ngân hàng phụ
thuộc vào khối lượng vốn của ngân hàng. Một ngân hàng được đánh giá là lớn hay
nhỏ trước hết là phải xem nguồn vốn và sử dụng vốn lớn hay nhỏ. Bên cạnh đó,
nguồn vốn lớn giúp cho ngân hàng có điều kiện cạnh trạnh trên tất cả lĩnh vực nhất là
quy mô tạo tiền hay lãi suất thấp nhờ đó làm cho lãi suất đầu vào sẽ thấp tạo điều kiện
phân bổ đầu tư tín dụng, tạo khả năng sinh lời cao từ đó hạn chế rủi ro.
1.3.3. Đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh việc sử dụng vốn tự có, vốn vay ngân hàng, cần xác định các
phương thức thu hút vốn trong và ngoài nước một cách thích hợp. Cụ thể: các
doanh nghiệp nên áp dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
công ty, doanh nghiệp cổ phần có thể lựa chọn khả năng phát hành thêm cổ phiếu
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
20
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
và niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nước. Một khía cạnh rất quan trọng
đối với các doanh nghiệp là tăng cường hiệu quả huy động vốn, đổi mới công nghệ
để tăng hiệu quả đầu tư. Đây là là mục tiêu quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng tái
tạo vốn trong doanh nghiệp. Nếu các ngân hàng huy động được vốn giá rẻ thì phí
lãi suất cho vay giảm sẽ có lợi cho các doanh nghiệp.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN
VÀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo & PTNT
CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA - HÀ NỘI
2.1. Khái quát về NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa – Hà Nội.
2.1.1. Khái quát tình hình của NHNo & PTNT Chi nhánh Đống Đa –
Hà Nội.
Năm 1998, hệ thống NH chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp. Từ đó, cùng với
cơ chế quản lý mới của hệ thống NH và những nhu cầu mới trong xu thế thị trường
như tiết kiệm đầu tư gia tăng, hệ thống NH ngày càng được mở rộng và phát triển.
NHNo & PTNT là một trong những NH có mạng lưới chi nhánh cấp một được
thành lập theo QĐ 27/6/1988 của tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam trên cơ
sở tách chuyển từ NHNN thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu
tư phát triển kinh tế thủ đô đặc biệt là lĩnh vực NN&PTNT.
Ngân hàng NHNo & PTNT Đống Đa là chi nhánh của NHNo & PTNT Hà
Nội được thành lập năm 2000, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trên địa
bàn quận và góp phần mở rộng quy mô hoạt của NH thành phố. Khi thành lập, chi
nhánh có trụ sở chính đặt tại 154 Tôn Đức Thắng.
Tuy mới được thành lập và đi vào hoạt động chưa lâu nhưng cán bộ nhân viên
chi nhánh đã cố gắng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, bỡ ngỡ, và đạt được một số
kết quả cao.
Trong năm 2004, nền kinh tế thủ đô có nhiều khởi sắc trên mọi lĩnh vực. Giá
trị sản lượng các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ đều
tăng trưởng khá. Các doanh nghiệp đã từng bước thích nghi và đứng vững trong
nền kinh tế. NH cũng là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ. Hệ thống các NH cũng đã từng bước khẳng định được vị thế của
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809
21
Luận văn tốt nghiệp Tài chính – Ngân hàng
mình trong nền kinh tế trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT Đống Đa.
Trong khuôn khổ thực hiện nghị quyết 15/NQ-TW của bộ tài chính về

phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001 – 2010 là:
“Phát triển Hà Nội thành trung tâm tài chính – tiền tệ của cả nước” trong năm
2007, chi nhánh thực hiện chuyển trụ sở làm việc từ 154 Tôn Đức Thắng – Đống
Đa – Hà Nội đến 37 Đê La Thành – Đống Đa – Hà Nội đã góp phần nâng cao vị
thế của chi nhánh trong con mắt nhìn nhận của khách hàng. Đồng thời chi nhánh
vẫn duy trì hoạt động của phòng giao dịch tại 154 Tôn Đức Thắng – Hà Nội để tạo
điều kiện cho các khách hàng gửi tiền hay vay vốn từ trước được thuận lợi hơn
cũng là để duy trì và phát triển nguồn vốn huy động từ dân cư.
Đến ngày 01 tháng 04 năm 2008, NHNo & PTNT Đống Đa được NHNo &
PTNT Việt Nam chuyển đổi thành chi nhánh cấp một và chuyển trụ sở chính về 37
Kim Liên – Hà Nội. Đến tháng 1 năm 2009 trụ sở chính của chi nhánh được
chuyển về 211 Xã Đàn - Đống Đa – Hà Nội và được hoạt động tiếp tục cho đến
ngày nay.
Tháng 7 năm 2012 Chi nhánh Thanh Xuân sát nhập vào chi nhánh Agribank
Đống Đa
2.1.2. Mô hình tổ chức.
Là một NHTM vừa thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng, vừa thực hiện chức
năng huy động nguồn vốn và các dịch vụ sản phẩm khác… Hiện tại NHNo &
PTNT chi nhánh Đống Đa có tổng số cán bộ là: Ban lãnh đạo: 4 đồng chí, chiếm
4.5 %; Phòng kế hoạch kinh doanh: 18 đồng chí, chiếm 20.5%; Phòng kế toán –
ngân quỹ: 19 đồng chí, chiếm 21.6%; Phòng kiểm tra kiểm soát: 2 đồng chí, chiếm
2.3%; Phòng Dịch vụ Marketing: 5 đồng chí, chiếm 5.7% , Phòng hành chính nhân
sự: 8 đồng chí, chiếm 9.1%; Phòng giao dịch: 32 đồng chí, chiếm 36.3%.
Mô hình tổ chức được bố trí cụ thể như sau:
+ Ban giám đốc: 01 Giám Đốc, 03 Phó Giám Đốc.
+ Phòng hành chính nhân sự
+ Phòng kế hoạch kinh doanh
+ Phòng dịch vụ - Marketing
+ Phòng kế toán ngân quỹ
Ngô Ngọc Anh Lớp 7TD02809

22

×