Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Nghiên cứu tính đa dạng thực vật trong một số quần xã thực vật tại hai xã khe mo và văn hán thuộc huyện đồng hỷ, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 103 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



Phông phết SISAVENGSOUK

NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT TRONG MỘT SỐ
QUẦN XÃ THỰC VẬT TẠI HAI XÃ KHE MO VÀ VĂN HÁN
THUỘC HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Ngọc Công





THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i
Lời cảm ơn


Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Sinh thái học, tại khoa Sinh - KTNN Trường Đại học sư phạm
- Đại học Thái Nguyên, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, các
đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS.Lê Ngọc Công
- người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm quý
báu để em có thể hoàn thành được luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo khoa Sinh -
KTNN, Ban Giám hiệu và các phòng chức năng của Trường Đại học sư phạm
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các lưu học sinh Lào chúng
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Thái
Nguyên, Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên đã cung cấp số liệu tại khu vực
nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, bạn bèvà
đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình thực hiện luận văn, do còn hạn chế về mặt thời gian, kinh phí,
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được những ý kiến quý báu của thầy cô giáo, các nhà khoa học,
cùng bạn bè, đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 8 năm 2014.
Tác giả


Phông phết SISAVENGSOUK
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii
Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Tác giả


Phông phết SISAVENGSOUK
















MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
Lời cảm ơn ………………………………………………………………… i

Lời cam đoan………………………………………………………………. ii
Mục lục…………………………………………………………………… iii
Danh mục các bảng………………………………………………………. vi
Danh mục các hình……………………………………………………… vii
MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2.Mục tiêu nghiên cứu 3
3.Phạm vi nghiên cứu 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Một số khái niệm 4
1.1.1 Khái niệm về thảm thực vật - Rừng 4
1.1.2 Đa dạng sinh học, đa dạng loài 4
1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và Việt Nam 5
1.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới 5
1.2.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam 6
1.3. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu trúc
của quần xã 8
1.3.1. Những nghiên cứu về thành phần loài 8
1.3.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống 10
1.4. Cấu trúc của quần xã 11
1.4.1. Sự phân bố theo chiều thẳng đứng trong quần xã. 12
1.4.2. Sự hình thành cấu trúc bên trong của quần xã 12
1.5. Những nghiên cứu về thảm thực vật, đa dạng thực vật ởtỉnh Thái Nguyên. . 15
Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA VÙNG NGHIÊN CỨU 17
2.1.Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế vùng nghiên cứu 17
2.1.1.Vị trí địa lý, ranh giới hành chính 17
2.1.3.Khíhậu 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv

2.1. 21
2.2.Điều kiệnkinhtếxãhội 22
2.2.1.Dân cư 22
2.2.2.Dân tộc 23
2.3. Văn hoá, y tế và giáo dục 23
2.3.1. Văn hoá 23
2.3.2.Y tế 23
2.3.3.Giáo dục 23
3.3. Nhận xét và đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu
vực nghiên cứu 24
3.3.1. Những yếu tố thuận lợi 24
3.3.2. Những yếu tố khó khăn 24
Chƣơng 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
3.1. Đối tượng nghiên cứu 25
3.2. Nội dung nghiên cứu 25
3.3. Các phương pháp nghiên cứu 26
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 26
3.3.2. Phương pháp xác định mẫu thực vật 27
3.3.3. Phương pháp phân loại thảm thực vật 27
3.3.4. Phương pháp điều tra trong nhân dân 28
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
4.1. Đa dạng về các kiểu thảm thực vật trong khu vực nghiên cứu 29
4.1.1. Thảm thực vật tự nhiên 29
4.1.2. Thảm rừng trồng 33
4.2. Đa dạng về hệ thực vật trong các quần xã 33
4.2.1. Đa dạng ở mức độ ngành 33
4.2.2. Đa dạng về mức độ Họ 35
4.2.3. Đa dạng về mức độ Chi 37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


v
4.3. Đa dạng về hệ thực vật trong các trạng thái thảm thực vật 39
4.3.1. Đa dạng các họ, chi, loài trong các trạng thái thảm thực vật 39
4.3.2. Đa dạng về mức độ họ trong các trạng thái thảm thực vật tại KVNC . 40
4.3.3. Đa dạng về mức độ chi trong các trạng thái thảm thực vật 52
4.4. Đa dạng về cấu trúc hình thái (cấu trúc thẳng đứng) trong các quần xã 54
4.4.1. Thảm cây bụi 56
4.4.2. Rừng Keo tai tượng 56
4.4.3. Rừng Mỡ 56
4.4.4. Rừng Thông 57
4.5. Đa dạng về thành phần dạng sống 58
4.5.1. Đa dạng về thành phần dạng sống ở Thảm cây bụi 59
4.5.2. Đa dạng về thành phần dạng sống ở rừng Keo 60
4.5.3. Đa dạng về thành phần dạng sống ở rừng Mỡ 60
4.5.4. Đa dạng về thành phần dạng sống ở rừng Thông 61
4.6. Đa dạng về giá trị sử dụng của thực vật trong các quần xã 64
4.6.1. Nhóm loài cây làm Thuốc (T) 66
4.6.2. Nhóm loài cây làm cảnh (Ca) 66
4.6.3. Nhóm loài cây làm thức ăn gia súc (Ags) 67
4.6.4. Nhóm loài cây dùng xây dựng (Xay) 67
4.6.5. Nhóm loài cây lấy nhựa (Nh) 67
4.6.6. Nhóm loài cây lấy gỗ (G) 67
4.6.7. Nhóm loài cây ăn được (Ă) 68
4.6.8. Nhóm loài cây lấy tinh dầu (Td) 68
4.6.9. Nhóm loài cây làm đồ thủ công (Dtc) 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
PHỤ LỤC: 94
DANH MỤC BẢNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


vi
Bảng 4.1. Phân bố các (họ,chi,loài) trong các ngành thực vật tại khu vực
nghiên cứu 34
Bảng 4.2. Các họ đa dạng nhất trong KVNC (Có 3 loài trở lên) 36
Bảng 4.3. Các chi đa dạng nhất tại KVNC (Có từ 3 loài trở lên) 38
Bảng 4.4. Số lượng, tỷ lệ % các họ, chi, loài trong các trạng thái thảm thực
vật 39
Bảng 4.5. Những họ có từ 2 loài trở lên trong các trạng thái thảm thực vật 41
Bảng 4.6. Các họ giầu loài nhất trong các trạng thái thảm thực vật(có từ 4
loài trở lên) 51
Bảng 4.7. Các chi có từ 2 loài trở lên trong các trạng thái thảm thực vật 52
Bảng 4.8. Cấu trúc hình thái của các trạng thái thảm thực vật trong KVNC 55
Bảng 4.9. Thống kê tỷ lệ (%) số loài trong các dạng sống 58
Bảng 4.10. Dạng sống trong các quần xã thực vật tại KVNC 59
Bảng 4.11. Giá trị sử dụng của các loài thực vật tại KVNC 65


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: 18
Hình 4.1: Tỷ lệ (%) các họ, chi, loài trong các ngành thực vật ở KVNC. 34
Hình 4.2: Tỷ lệ các họ, chi, loài trong các trạng thái thảm thực vật. 39
Hình 4.3: Tỷ lệ % phân bố các dạng sống trong thảm Cây bụi 62
Hình 4.4: Tỷ lệ % phân bố các dạng sống ở rừng Keo 62
Hình 4.5: Tỷ lệ % phân bố các dạng sống ở rừng Mỡ 63
Hình 4.6: Tỷ lệ % phân bố các dạng sống ở rừng Thông 63

Hình 4.7: Tỷ lệ % phân bố các dạng sống trong các quần xã 64
Hình 4.8: Phân bố các nhóm giá trị sử dụng của thực vật trong KVNC 65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng
thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát
triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và với
hoàn cảnh bên ngoài (M.E Tcachenco 1952).
Rừng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với con người. Rừng là lá phổi
xanh khổng lồ điều hòa khí hậu, hạn chế thiên tai, bão lũ, là khâu quan trọng
trong chu trình tuần hoàn vật chất của thiên nhiên, là nơi cư trú của nhiều loài
động vật, là nơi cung cấp thức ăn cho động vật nói chung. Đặc biệt thảm thực
vật rừng còn có vai trò rất quan trọng cung cấp nguồn nguyên liệu cho con
người như: lấy gỗxây dựng nhà cửa và các trang thiết bị nội thất, cho dầu béo,
tinh dầu, làm thuốc, làm cảnh và nhiều giá trị sử dụng khác.
Liên Hợp Quốc (LHQ) đã tiến hành đánh giá toàn diện về hiện trạng
rừng trên thế giới.Theo thống kê mỗi năm diện tích rừng bị chuyển đổi thành
diện tích đất nông nghiệp và các mục đích sử dụng khác, hoặc bị mất do các
nguyên nhân tự nhiên đã giảm từ 16 triệu hécta trong những năm 90 của thế
kỷ trước xuống còn 13 triệu hécta. Diện tích rừng nguyên thuỷ toàn cầu với
các hệ sinh thái đa dạng và phong phú nhất về các loài sinh vật, với khoảng
1,4 tỷ hécta, chiếm 36% tổng diện tích rừng toàn cầu, cũng giảm trung bình
hàng năm hơn 40 triệu hécta, với tốc độ 0,4% mỗi năm. Khu vực Nam Mỹ bị
mất rừng nguyên thuỷ lớn nhất, sau đó là châu Phi và châu Á.
Liên Hợp Quốc chỉ rõ các mối đe doạ khác đối với đa dạng sinh học
rừng là do việc quản lý rừng không bền vững, biến đổi khí hậu, cháy rừng,

thảm hoạ tự nhiên, dịch bệnh và do sự phá hoại của các loài côn trùng và các
sinh vật xâm thực. LHQ còn cảnh báo hiện trạng săn bắn vì mục tiêu thương
mại do nhu cầu tiêu dùng ở các thành phố cũng đang đẩy nhiều loài vật hoang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
dã tới nguy cơ tuyệt chủng trong tương lai. Tình trạng này sẽ trở nên tồi tệ
hơn nếu các nước không thực hiện những biện pháp hiệu quả để ngăn
chặn.LHQ kêu gọi các nước cần hành động mạnh mẽ nhằm bảo tồn hiệu quả
và sử dụng bền vững đa dạng sinh học các diện tích rừng sản xuất, đặc biệt ở
các khu rừng nhượng quyền sử dụng.
Tuy nhiên, LHQ cũng hoan nghênh các biện pháp đang được thực hiện ở
nhiều nước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học. Hiện diện tích rừng được khoanh
vùng trở thành các khu bảo tồn đa dạng sinh học trên toàn cầu đã tăng hơn 95
triệu hécta kể từ năm 1990, trong đó hơn 46% được khoanh vùng trong thời
kỳ 2000-2005. Hơn 460 triệu hécta, chiếm 12% tổng diện tích rừng nguyên
thuỷ, đã được khoanh vùng để bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ đất và nguồn
nước hoặc bảo tồn các di sản văn hoá. Các diện tích rừng được khoanh vùng
thành khu bảo tồn đa dạng sinh học, công viên quốc gia, khu vực hoang
dã…được bảo vệ bằng luật pháp.
Đất nước Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập với quốc tế, quá
trình đô thị hóa diễn ra một cách nhanh chóng, một diện tích đất rừng không
nhỏ đã được sử dụng để xây dựng các công trình nhà cửa, xí nghiệp, đường
xá, khu vui chơi… Bên cạnh đó nạn phá rừng làm rẫy, khai thác gỗ củi và các
nguồn tài nguyên khác vẫn thường xuyên xảy ra, diện tích rừng ngày càng bị
thu hẹp,nhiều loài sinh vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng, lâm tặc ngày
càng lộng hành tàn phá thiên nhiên… Nếu không có các biên pháp ngăn chặn
kịp thời thì trong những năm tới nguồn tài nguyên sẽ bị cạn kiệt hoàn toàn.
Khu vực nghiên cứu là hai xã Khe Mo và Văn Hán thuộc huyện Đồng
Hỷ tỉnh Thái Nguyên.Đây là các địa phương có tiềm năng rừng và đất rừng

khá lớn. Tuy nhiên hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về tính đa
dạng của các kiểu thảm thực vật, đa dạng về thành phần loài, dạng sống, cấu
trúc hình thái và đa dạng về giá trị sử dụng của các loài thực vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu tính
đa dạng thực vật trong một số quần xã thực vật tại hai xã Khe Mo và Văn
Hán thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định sự đa dạng về kiểu thảm thực vật, thành phần loài, thành phần
dạng sống, cấu trúc hình thái và giá trị sử dụng của các loài thực vật trong khu
vực nghiên cứu.
- Cung cấp những dẫn liệu làm cơ sở cho các cơ quan chức năng của địa
phương đề xuất các biện pháp nhằm bảo vệ, phát triển rừng ở khu vực nghiên
cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tiến hành nghiên cứu đa dạng các kiểu thảm thực vật, thành phần
loài, dạng sống, cấu trúc hình thái và giá trị sử dụng của các loài thực vật,
trong 4 quần xã: Thảm cây bụi (2 tuổi),rừng trồng Keo 7 tuổi,rừng trồng Mỡ
10 tuổi, rừng trồng Thông 40 tuổi.
- Khu vực nghiên cứu là hai xã Khe Mo và Văn Hán (huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên), trong thời gian từ tháng 9/2013 - 5/2014.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
Trong đề tài chúng tôi có sử dụng một số khái niệm có liên quan đến

nội dung nghiên cứu:
1.1.1 Khái niệm về thảm thực vật - Rừng
- Thảm thực vật: Thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ trên mặt
đất như một tấm thảm xanh (Thái Văn Trừng 1978) [37]. Theo Trần Đình Lý
(1998) [21]: Thảm thực vật là toàn bộ lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể hay
toàn bộ lớp phủ thực vật trên bề mặt trái đất. Ở khái niệm này thảm thực vật
mới chỉ là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đặc trưng hay phạm vi không
gian của một đối tượng cụ thể. Nó chỉ có nội hàm cụ thể khi có định ngữ kèm
theo như “Thảm thực vật Thái Nguyên” hay “Thảm thực vật Khe Mo”,“Thảm
thực vật cây bụi”…v.v. Thành phần chủ yếu của thảm thực vật là cây cỏ,
nhưng đối tượng nghiên cứu chủ yếu của thảm thực vật là tập thể cây cối
được hình thành do một số lượng những cá thể của loài thực vật tập hợp lại.
Do vậy thảm thực vật còn được coi là bộ mặt phản ánh tính đa dạng sinh học
cho một vùng, một địa phương.
- Rừng là một kiểu thảm thực vật mang các đặc trưng riêng, chẳng hạn
như rừng cây gỗ (hay rừng tre nứa). Với rừng cây gỗ thì yếu tố chủ đạo trong
đó là cây gỗ và cây gỗ phải có chiều cao 5m so với mặt đất và độ tàn che (k)
của chúng phải 0,3, đối với rừng tre nứa độ tàn che > 0,5. Nếu k < 0,3 thì
chưa thành rừng, k = 0,3 – 0,6 là rừng thưa, k > 0,6 là rừng kín [24].
1.1.2 Đa dạng sinh học, đa dạng loài
Theo Công ước về Bảo tồn đa dạng sinh học đã thông qua tại Hội nghị
thượng đỉnh toàn cầu ở RiodeJaneiro năm 1992"Đa dạng sinh học" có nghĩa
là (tính đa dạng) biến thiên giữa các sinh vật của tất cả các nguồn bao gồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
các hệ sinh thái tiếp giáp, trên cạn, biển, các hệ sinh thái thủy vực khác và các
tập hợp sinh thái mà chúng là một phần. Tính đa dạng này thể hiện ở trong
mỗi loài, giữa các loài và các hệ sinh thái [15].
Thuật ngữ đa dạng sinh học (Biodiversity) dùng để mô tả sự phong

phú và đa dạng của giới tự nhiên.Đa dạng sinh học là sự phong phú của mọi
cơ thể sống từ mọi nguồn, trong hệ sinh thái đất liền, hệ sinh thái biển và các
hệ sinh thái dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên. Đa
dạng sinh học bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay đa dạng
gen); giữa các loài (đa dạng loài); các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái); Bao
gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần của cơ thể,
các quần thể hay các hợp phần sinh học khác của hệ sinh thái, hiện đang có
giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho loài người.
Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy
trong một khu vực nhất định tại một vùng hoặc địa điểm nào đó. Đa dạng loài
là tất cả sự khác biệt trong một hay nhiều quần thể của một loài cũng như đối
với các quần thể khác nhau.
1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới
Champion H.G (1936) khi nghiên cứu rừng Ấn Độ - Miến Điện đã
phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: Nhiệt đới, á nhiệt đới,
ôn đới và núi cao (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004 [34]).
Bead J. (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần
hệ và loại quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loại quần hệ: Loại quần
hệ rừng xanh mưa mùa; loại quần hệ khô thường xanh; loại quần hệ miền núi;
loại quần hệ ngập từng mùa và loại quần hệ ngập quanh năm (theo Nguyễn
Nghĩa Thìn, 2004 [34]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật ở Đông Dương đã chia
thảm thực vật thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và vùng
trung gian, đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [37].
1.2.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam
Năm 1918 nhà khoa học người Pháp Chevalier, là người đầu tiên đã

đưa ra một bảng phân loại thảm thực vật rừng Bắc bộ Việt Nam (đây được
xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới châu Á đầu tiên trên thế
giới). Theo bảng phân loại này, rừng ở miền Bắc Việt Nam được chia thành
10 kiểu (theo Thái Văn Trừng 1978 [37]).
Năm 1943 kỹ sư lâm học người Pháp Maurand đã chia Đông Dương
thành 3 vùng thảm thực vật:
+ Thảm thực vật Bắc Đông Dương
+ Thảm thực vật Trung Đông Dương
+Thảm thực vật Nam Đông Dương
Năm 1953, Maurand khi tổng kết về các công trình nghiên cứu các
quần thể rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil, trên cơ sở nghiên
cứu của các nhà khoa học, (Theo Thái Văn Trừng, 1978 [37]). Ông đã đưa ra
bảng phân loại thảm thực vật rừng miền Nam Việt Nam.
Năm 1956, Dương Hàm Hi đã xếp loại thảm thực vật rừng miền Bắc
Việt Nam theo một bảng phân loại mới. (Theo Nguyễn Nghĩa Thìn 2004 [34]).
Năm 1962 ở miền Nam Việt Nam còn xuất hiện một bảng phân loại
thảm thực vật rừng Nam Trường Sơn [32].
Bảng phân loại đầu tiên của ngành lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng ở Việt Nam là của Cục điều tra và quy hoạch rừng thuộc Tổng cục
lâm nghiệp Việt Nam, bảng phân loại này xây dựng năm 1960 đã áp dụng
cách phân loại rừng theo trạng thái của Loschau (Theo Thái Văn Trừng,
1978) [37]. Theo bảng phân loại này, rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được
chia làm 4 loại hình lớn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
+ Loại I: Đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này
cần phải trồng rừng.
+ Loại II: Gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây
hoặc tỉa thưa.

+ Loại III: Gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh nên trở
thành nghèo kiệt tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải
xúc tiến tái sinh, tu bổ, cải tạo.
+ Loại IV: Gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu,
chưa bị phá hoại, cần khai thác hợp lý.
Bảng phân loại này không phân biệt được kiểu rừng nguyên sinh với
các kiểu phụ thứ sinh và các giai đoạn diễn thế.
Năm 1970, Trần Ngũ Phương đưa ra bảng phân loại rừng ở miền Bắc
Việt Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: Đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai
rừng á nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao [31].
Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, tại Hội Nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat, 1975), Thái
Văn Trừng đã đưa ra bảng phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan
điểm sinh thái, đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt
Nam phù hợp nhất trên quan điểm sinh thái cho đến nay [36].
Nguyễn Hải Tuất (1991) nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về sinh
thái của các quần thể thực vật tại vùng núi cao Ba vì đã chia ra 3 kiểu rừng cơ
bản: Rừng hỗn giao ẩm á nhiệt đới, rừng kín hỗn giao ẩm á nhiệt đới núi cao,
rừng kín hỗn giao cây Hạt kín và Hạt trần [39].
Thái Văn Trừng (1999) khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới
Việt nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm
cấu trúc ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thảm thực vật dựa
trên yếu tố phát sinh hệ thực vật làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật
Việt Nam thành 5 kiểu thảm với 14 kiểu quần hệ [38].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
1.3. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu
trúc của quần xã
1.3.1. Những nghiên cứu về thành phần loài


Trên thế giới
Những công trình nghiên cứu của Alokhin (1904), Vưsotxki (1915),
Craxit (1927) chỉ ra rằng mỗi vùng sinh thái sẽ hình thành thảm thực vật đặc
trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác biểu biểu thị bởi thành
phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của nó. Việc nghiên
cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là một chỉ tiêu quan trọng trong
phân loại thảm thực vật (Theo Hoàng Chung, 1980) [9].
Ramakrishman (1981 - 1992), nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
vùng Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: Chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài
ưu thế đạt cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời
gian bỏ hoá (Theo Hoàng Thị Thanh Thủy, 2009) [35].
Long chun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ
sinh thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận
xét: khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19
năm thì có 60 họ, 134 chi và 167 loài (Theo Ma Thị Ngọc Mai, 2007) [28].

Ở Việt Nam
Phan Kế Lộc (1970), đã xác định hệ thực vật miền Bắc Việt Nam có
5.609 loài thuộc 1.660 chi và 240 họ [22].
Phan Nguyên Hồng (1991) lập danh lục cùng với một số chỉ tiêu khác
(dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 loài thuộc nhóm loài cây ngập
mặn điển hình và cây gia nhập vào rừng ngập mặn [18].
Phạm Hoàng Hộ (2003) trong "Cây cỏ Việt Nam" đã thống kê số loài
hiện có hệ thực vật là 10.500 loài [16].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
Hoàng Chung (1980), trong nghiên cứu về đồng cỏ vùng núi phía Bắc
đã thống kê được thành phần loài trong đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam

có 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ [9].
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983), khi nghiên cứu hệ thực vật Tây
Nguyên đã thống kê được 3210 loài, chiếm gần một nửa số loài đã biết của
toàn Đông Dương [4].
Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1995), nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của savan bụi vùng đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được
123 loài thuộc 47 họ khác nhau [11].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995), khi nghiên cứu một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của savan Quảng Ninh và các mô hình sử dụng đã
phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài [19].
Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), thống kê thành phần loài trong
Vườn Quốc gia Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 loài
cây có ích ở Tam Đảo thuộc 478 chi, 213 họ thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt
trần và Hạt kín. Các loại này xếp thành 8 nhóm có giá trị khác nhau. Trong
các loài trên có 42 loài đặc hữu và 64 loài quý hiếm cần được bảo tồn như:
Hoàng Thảo Tam Đảo, Trà hoa đài, Trà hoa vàng Tam Đảo, Hoa tiên, Trọng
lâu kim tiền (Theo Giáp Thị Hồng Anh, 2007) [1].
Nguyễn Thế Hưng (2003) [20], đã thống kê trong các trạng thái thảm
thực vật nghiên cứu ở huyện Hoành Bồ, Cẩm Phả (Quảng Ninh) có 324 loài
thuộc 251 chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch: Ngành Hạt trần
(Gymnospermae), ngành Thực vật khuyết (Pteridophyta), và ngành Hạt kín
(Angiospermae). Đồng thời khi so sánh với trạng thái rừng, khẳng định thảm
cây bụi có thành phần chủ yếu bao gồm các loài trong họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae), họ Hòa thảo (Poaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Na
(Annonaceac), họ Cà phê (Rubiaceae)…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
Lê Ngọc Công (2004) [13], nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái nguyên
đã thống kê các loài thực vật bậc cao có mạch gồm 160 họ, 468 chi, 654 loài

chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý như: Lim,
Dẻ, Nghiến…v.v.
1.3.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống

Trên thế giới:
Dạng sống của thực vật là biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với môi trường sống của nó.
Theo Raunkiaer (1934), (Theo Hoàng Chung, 2008 [10]) dấu hiệu
chủ yếu để phân chia thành phần dạng sống là vị trí của chồi nằm ở đầu
trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm.Ông đã chia 5 nhóm dạng
sống cở bản:
+ Phanerophytes (Ph): Nhóm cây có chồi trên mặt đất.
+ Chamaetophytes (Ch): Nhóm cây có chồi sát mặt đất.
+ Hemicryptophytes (He): Nhóm cây có chồi nửa ẩn.
+ Cryptophytes (Cr): Nhóm cây có chồi ẩn.
+ Therophytes (Th): Nhóm cây sống một năm.
Ông đã xây dựng phổ dạng sống ở các vừng khác nhau trên trái đất (SB)
SB= 46Ph+9Ch+26He+6Cr+13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng,
đảm bảo tính khoa học, dễ áp dụng cho các kiểu thảm thực vật, do vậy có
nhiều các nhà nghiên cứu đã áp dụng phương pháp này để nghiên cứu thành
phần dạng sống.

Ở Việt Nam:
Hoàng Chung (1980), thống kê thành phần dạng sống cho loại hình
đồng cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại
kiểu đồng cỏ savan, thảo nguyên [9].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11

Lê Trần Chấn (1990), khi nghiên cứu hệ thực vật tại Lâm Sơn ( Hòa
Bình) ông đã theo phương pháp của Raunkiaer để phân chia thảm thực vật
thành 5 nhóm dạng sống. Tuy nhiên, tác giả dùng thêm một số kí hiêụ để chi
tiết hóa một số dạng sống (a: kí sinh; b: bì sinh; c: dây leo; d: cây chồi trên
thân thảo). Ông không xếp phương thức sống kí sinh, bì sinh vào dạng sống
cơ bản mà coi đây là những dạng phụ [8].
Phan Nguyên Hồng (1991), khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật ở
rừng ngập mặn Việt Nam ông đã chia 7 dạng sống cơ bản: Cây gỗ (G), cây
bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụ
(B) [18].
Phạm Hồng Ban (1992) [2], nghiên cứu tính đa dạng của các trạng
thái thảm thực vật sau nương rẫy vùng Tây Nam Nghệ An, áp dụng khung
phân loại của Raunkiaer để phân chia dạng sống, phổ dạng sống là:
SB=67,40Ph+7,33Ch+12,62He+8,53Cr+4,09Th.
Lê Ngọc Công (2004) [13], nghiên cứu quá trình phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật tại Thái Nguyên đã phân chia thảm
thực vật thành các nhóm dạng sống: cây gỗ, cây bụi, cây cỏ và dây leo.
Như vậy, nghiên cứu dạng sống là một trong những nội dung quan
trọng khi nghiên cứu hệ thực vật vì dạng sống thể hiện sự thích nghi của thực
vật với môi trường sống.Cho đến nay đã có rất nhiều cách phân loại dạng
sống khác nhau, nhưng để xây dựng phổ dạng sống của một hệ thực vật,
người ta thường sử dụng cách phân loại của Raunkiaer (1934).
1.4. Cấu trúc của quần xã
Cấu trúc quần xã được hiểu là đặc điểm phân bố của các loài trong
không gian và theo thời gian. Cấu trúc biểu thị khoảng không của môi trường
được thực vật sử dụng và những đặc trưng cùng mức độ tác động của các
thành phần thực vật tới môi trường.Cấu trúc được xác định bởi thành phần và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12

mối quan hệ số lượng giữa các thành phần trong quần xã, cũng như các điều
kiện thuộc môi trường, sự tác động của động vật.
Dấu hiệu quan trọng của cấu trúc là độ khép tán của thực bì và đặc
điểm phân bố theo chiều thẳng đứng của diện tích lá, sự phân chia thành các
tầng, mức độ đồng nhất về phân bố nằm ngang (thể khảm). Cũng có người
dùng khái niệm cấu trúc hình thái và cấu trúc không gian, điều này hoàn toàn
không nên, vì không có cấu trúc hình thái nào mà lại không có không gian
trong đó.
1.4.1. Sự phân bố theo chiều thẳng đứng trong quần xã.
Để làm sáng tỏ của cấu trúc thẳng đứng của quần xã cần phải xác định
khối lượng môi trường được các loài sử dụng là bao nhiêu, đặc điểm phân bố
của các cá thể theo từng tầng của môi trường (khối lượng, thể tích, bề mặt tiếp
xúc với môi trường). Cấu trúc phần trên mặt đất của quần xã được nghiên cứu
khá đầy đủ.
Sự phân bố của phần dưới đất trong quần xã tập trung lớn ở lớp đất mặt, điều
này thể hiện rõ ở quần xã đồng cỏ, thảo nguyên, bán hoang mạc và cả rừng.Đi
sâu vào trong lòng đất, khối lượng và cả diện tích bề mặt của phần dưới đất
đều giảm.Điều này được thể hiện rõ trong quần xã đồng cỏ vùng núi Bắc Việt
Nam [9].
1.4.2. Sự hình thành cấu trúc bên trong của quần xã
Chúng ta biết rằng, các quần xã thực vật bị giới hạn bởi không gian
phân bố của mình (Theo chiều thẳng đứng và nằm ngang), đôi khi cả theo
thời gian bằng những yếu tố thuộc cấu trúc. Theo đề nghị của Tras (1930), gọi
đó là những yếu tố của quần xã.Đa số các tác giả gọi đó là cấu trúc tầng và
nhóm nhỏ của quần xã. Tầng là đặc trưng cho cấu trúc theo chiều thẳng đứng,
nhóm nhỏ là cấu trúc nằm ngang của quần xã.
 Tầng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13

Kerner (1863) là người đầu tiên đề cập đến và đã phân chia rừng Thông
ra thành 3 tầng - đó là tầng cây gỗ, tầng cây thảo, tầng rêu. Tiếp theo, Hult
(1881) đã phân chia các quần xã rừng Thông thành 7 tầng:(Quần xã học thực
vật Hoàng Chung).
1 - Tầng cây gỗ trên cùng - cao từ 6m trở lên.
2 - Tầng cây gỗ thấp - dưới 6m.
3 - Thảm cây dưới rừng - đến 2m.
4 - Tầng cỏ cao - đến 80cm.
5 - Tầng cỏ trung bình - đến 30cm.
6 - Tầng cỏ thấp - đến 10cm.
7 - Sát mặt đất - đến 3cm.
Sự phân chia các tầng nếu chỉ căn cứ theo chiều cao là không thỏa
đáng. Chúng ta biết rằng, sự phân tầng của quần xã là kết quả của chọn lọc tự
nhiên giữa các loài, nó có khả năng cùng tồn tại và sử dụng các đới khác nhau
của môi trường, ở trong từng đới này chúng sẽ làm giảm cường độ chiếu sáng.
Sự phân tầng các loài thực vật giúp tận dụng tốt hơn môi trường, đó cũng là
hiện tượng bổ trợ lẫn nhau giữa các loài thực vật về mặt sinh thái.
Về vấn đề phân tầng hiện cũng còn nhiều điều chưa thống nhất, như bì
sinh, dây leo, cây con dưới rừng thuộc vào tầng nào. Bì sinh và dây leo có thể
chia thành nhóm đặc biệt gọi là thực vật giữa tầng (hay ngoại tầng). Nhóm
cây dưới tán rừng gồm cây con, cây non và các loại cây chưa trưởng thành
khác, có thể có cả cây đã đạt tuổi trưởng thành, Sukasov và một số tác giả cho
nó thuộc vào tầng cây đã trưởng thành và đạt trạng thái phát triển bình thường
trong cùng loài và xem nó như là màn của tầng đó.
Tầng được hình thành trong quá trình hình thành quần xã, sau đó có thể
đi tới ổn định hoặc bị thay đổi theo mùa sinh dưỡng, qua năm, hoặc từ năm
này sang năm khác. Người ta có thể chia ra một số kiểu phân tầng:
1. Bền vững theo mùa và năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


14
2. Tồn tại quanh năm, nhưng biến đổi ít, nhiều theo mùa sinh dưỡng, ví dụ
như tầng cây gỗ, cây bụi có lá rụng hàng năm.
3. Tầng cây thuộc thảo, có thể tồn tại trạng thái sinh dưỡng cả năm hay
gần hết thời kỳ sinh dưỡng.
4. Cây đoản mệnh, tồn tại không dài, thường chỉ một phần thời kỳ sinh
dưỡng, nó được hình thành từ cây thảo, tảo, rêu.
5. Tầng được hình thành trong từng năm riêng biệt, ví dụ tầng của những
cây thảo một năm, thường gặp ở vùng hoang mạc, năm nào điều kiện
thuận lợi nó mọc, năm không thuận lợi thì không mọc.
6. Tầng được hình thành lặp đi lặp lại trong mùa sinh dưỡng do cắt hay
chăn thả động vật.
 Những lớp thực vật quần lạc
Sự phân tầng trong các quần xã thực vật không phải lúc nào cũng thể
hiện rõ ràng, trong nhiều trường hợp phân tầng mang tính công nhận. Người
ta còn phân tầng để làm sáng tỏ cấu trúc quần xã.
- Badanốp (1963) là người đầu tiên đã đề cập đến vấn đề này. Ông đã
nhận thấy, trong thảm cỏ không có sự phân tầng, ông viết “nó có sự tăng dần
đều trong phân bố của thực vật theo chiều cao”. Patrotski (1921) khi nghiên
cứu về thảo nguyên cũng đã viết: “Thực vật phân bố rất khác nhau theo chiều
cao và độ lớn của nó, nó tạo thành lớp chứ không thành tầng” (Quần xã học
thực vật Hoàng Chung).
- Kortragin (1976) đã viết: Mỗi lớp thực vật quần lạc không chỉ được
đặc trưng bởi những loài thực vật tự dưỡng mà nó còn có sự tham gia của các
cơ quan của những loài thực vật có trong đó. (Quần xã học thực vật Hoàng
Chung).
 Tầng phiến:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

15

Thuật ngữ tầng phiến trong cấu trúc quần xã được Rubel dùng đầu tiên,
sau này được Gams (1918) phát triển. Gams đã chia tầng phiến ra thành các
mức độ khác nhau.
Mức độ 1- tầng phiến là tập hợp các cá thể của một loài đang tồn tại độc lập
trong giới hạn vùng phân bố xác định - nó giống quan niệm quần thể trong quần
xã của Laprenkô (1959).
Mức độ 2 - tầng phiến là tập hợp những loài đang độc lập tồn tại, chúng thuộc
vào cùng một kiểu dạng sống có nhịp điệu mùa rất giống nhau.
Mức độ 3 - tầng phiến là tập hợp những loài đang độc lập tồn tại, thuộc vào các
dạng sống khác nhau nhưng có quan hệ với nhau và cùng mọc trong một điều
kiện môi trường xác định.Quan niệm này tương đương khái niệm nhóm nhỏ
trong quần xã của Laprenkô (1959). Hoàng Chung [10].
1.5. Những nghiên cứu về thảm thực vật, đa dạng thực vật ởtỉnh Thái
Nguyên.
Năm 1993, Viện điều tra quy hoạch rừng thuộc bộ Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn đã tiến hành điều tra tình hình tái sinh và diễn thế ở vùng Bắc
Thái (cũ) đã thống kê được bảng danh mục loài thực vật gồm 688 loài thuộc
433 chi và 134 họ (Theo Lê Ngọc Công, 2004) [13].
Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Thái cũ (1996) trong chuyên đề “Tài nguyên
thực vật khu bảo tồn thiên nhiên Phượng Hoàng, Thần Sa (Võ Nhai)” đã
thống kê được 262 loài thuộc 79 họ. Trong đó các tác giả đã phân loại theo 6
nhóm giá trị sử dụng: thực vật làm thuốc, thực vật cho sợi, thực vật cho tinh
dầu, cho nhựa, làm cảnh, cho quả và lá ăn được (Theo Hoàng Thị Thanh
Thủy, 2009) [35].
Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (sau khi tách tỉnh 1997) đã tiến
hành điều tra thảm thực vật và khu hệ thực vật rừng ATK Định Hóa đã thu
được 316 loài thực vật có mạch thuộc 96 họ (Theo Lê Ngọc Công, 2004) [13].
Đặng Kim Vui (2002) nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau
khi nương rẫy làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


16
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã kết luận: giai đoạn phục hồi 1-2 tuổi
thành phần loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ, trong đó họ Hòa thảo có số
lượng lớn nhất là 10 loài, tiếp đến là họ Thầu dầu (6 loài)…giai đoạn 3-5 tuổi
có 65 loài thuộc 34 họ, giai đoạn 5-10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ, giai đoạn
10-15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ [40].
Trần Thị Minh Hương (2003), trong quá trình nghiên cứu ảnh hưởng
của một số rừng phục hồi tự nhiên, rừng trồng đến các yếu tố sinh thái môi
trường Hồ Núi Cốc đã điều tra được 124 loài thực vật [21].
Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995) nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của savan bụi vùng đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được
123 loài thuộc 47 họ khác nhau [11].
Lê Ngọc Công (2001) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã
thống kê các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ,
468 chi, 654 loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây
gỗ quý như: Lim, Dẻ, Trai, Nghiến…[12].
Lê Ngọc Công (2006) với đề tài “Bước đầu điều tra nguồn gen cây
thuốc ở hai xã Khe Mo và Văn Hán huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên” đã
thống kê được 214 loài cây thuốc thuộc 189 chi và 73 họ [14].
Lê Ngọc Công và cộng sự (2006), “Điều tra hiện trạng, góp phần bảo
tồn và phát triển tài nguyên thực vật huyện Phú Lương, tỉnh thái Nguyên” đã
thống kê được 490 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 350 chi và 106 họ.
Tác giả đã phân loại thực vật theo 7 nhóm giá trị sử dụng: Nhóm cây lấy gỗ,
nhóm cây làm thuốc, cây cho tinh dầu, cây cho rau ăn, cây làm cảnh và nhóm
cây quý hiếm [14].
Nhìn chung những công trình của các tác giả đều tập trung nghiên cứu
và đánh giá thành phần loài của một vùng và khu vực cụ thể, phản ánh hệ
thực vật đặc trưng trong mối tương quan với điều kiện địa hình và khí hậu.
Các công trình nghiên cứu về đa dạng và tài nguyên thực vật ở tỉnh Thái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
Nguyên chưa nhiều, phạm vi nghiên cứu hẹp, chưa phản ánh hết được sự đa
dạng của chúng.


Chƣơng 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1.Kháiquátđiềukiệntựnhiênvà kinhtếvùngnghiêncứu
2.1.1.Vịtríđịalý,ranhgiớihànhchính
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam,
có tọa độ địa lý: 21 21 đến 22 03 vĩ độ Bắc, từ 105 28 đến 106 14 kinh
Đông, cách thủ đô Hà Nội 75 km về phía nam và là tỉnh nằm trong quy hoạch
vùng thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn
nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh Thái Nguyên
có diện tích 3.534,72 km² (2012) phía bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía tây
giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía đông giáp với các tỉnh Lạng
Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Với vị trí đóThái
Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,giáo dục, của vùng
trung du miền núi phía bắc của đất nước.
Đồng Hỷ là một huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên.
Diện tích 455,524 km
2
, dân số 111.147 ngườ ồng Hỷ
giáp huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn ở phía bắc, huyện Võ Nhai về phía
Đông Bắc; giáp huyện Phú Lương về phía Tây; giáp thành phố Thái
Nguyên và huyện Phú Bình về phía nam và giáp huyện Yên Thế thuộc tỉnh
Bắc Giang về phía đông.
Huyện Đồng Hỷ có ở 18 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các xã:

Hóa Thượng, Huống Thượng, Nam Hòa, Tân Lợi, Cây Thị, Hợp Tiến, Khe
Mo, Văn Hán, Hóa Trung, Quang Sơn, Văn Lăng, Tân Long, Hòa Bình, Minh

×