Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phát triển dịch vụ logistics tại công ty TNHH CJ GLS việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.2 KB, 9 trang )

Phát triển dịch vụ logistics tại công ty TNHH CJ
GLS Việt Nam



Nguyễn Thị Loan


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn Thạc sĩ ngành: Kinh tế đối ngoại; Mã số: 60 31 07
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Kim Chi
Năm bảo vệ: 2014


Abstract. Luận văn đã trình bày được những đặc trưng cơ bản cũng như nội dung chính của
hoạt động Logistics đồng thời nêu rõ được thực trạng sự phát triển của hoạt động Logisitcs trên thị
trường Việt Nam hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO và đang tiến hành lộ trình thực hiện
cam kết của WTO.Với đối tượng nghiên cứu chính là công ty CJ GLS Việt Nam, luận văn đã trình
bày những nét chung khái quát về quá trình phát triển của tập đoàn CJ nói chung và công ty CJ GLS
Việt Nam nói riêng với những hoạt động và dịch vụ chính thuộc lĩnh vực Logistics mà công ty cung
cấp.Trong bài, tác giả cũng làm rõ được những đặc điểm nổi bật mà dịch vụ Logistics của công ty
đem lại cho khách hàng, phân tích những cơ hội cùng những khó khăn, thách thức đối với công ty
khi hoạt động trên thị trường Việt Nam để từ đó đưa ra cho công ty những giải pháp giúp phát triển
dịch vụ và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh cả trong nước và nước ngoài.
Keywords. Kinh tế đối ngoại; Dịch vụ Logistics; Doanh nghiệp; WTO

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vòng 20 năm qua, toàn cầu hoá kinh tế đã làm thay đổi thế giới trên nhiều phương diện
mở mang thêm các lĩnh vực hợp tác quốc tế từ mậu dịch hàng hoá đến mậu dịch vô hình, tác động
mạnh mẽ tới hệ thống “cung – cầu”, làm biến đổi nhanh về số lượng và chất lượng của nó. Trước


đây, vai trò của “cung” luôn được đặt lên hàng đầu, nhưng ngày nay, tình hình đã thay đổi: trong
dây chuyền phân phối hàng hoá, vai trò quan trọng hàng đầu đã được chuyển từ “cung” sang “cầu”.
Trong bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào, người sản xuất luôn phải quan tâm, đặt ra và giải
đáp câu hỏi: Khách hàng và người tiêu thụ sản phẩm của mình là ai? Ai là đối thủ cạnh tranh của
mình? Mình cần phải sản xuất cái gì và tổ chức sản xuất ra sao? Trong lĩnh vực giao thông vận tải,
người kinh doanh dịch vụ vận tải không chỉ đơn thuần là người vận chuyển nữa, mà thực tế họ đã
tham gia cũng với người sản xuất để đảm nhiệm thêm các khâu liên quan đến quá trình sản xuất
hàng hoá như : gia công, chế biến, lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, lưu kho và giao nhận.
Hoạt động vận tải thuần tuý đã dần chuyển sang hoạt động tổ chức toàn bộ dây chuyền phân phối
vật chất và trở thành một bộ phận khăng khít của chuỗi mắt xích “cung – cầu”. Xu hướng đó không
những đòi hỏi phải phối hợp liên hoàn tất cả các phương thức vận tải, mà còn đòi hỏi phải kiểm soát
được các luồng thông tin, luồng hàng hoá và luồng tài chính. Chỉ khi tối ưu được toàn bộ quá trình
này thì mới giải quyết được vấn đề đặt ra là: vừa làm tăng lợi nhuận cho các DN sản xuất hàng hoá,
vừa làm tăng lợi nhuận cho các hãng vận tải, thương mại, đảm bảo được lợi ích chung. Từ đó đã
hình thành nên vấn đề quản lý logistics nhằm đạt được mục tiêu trên. Hiện nay Việt Nam đang
trong quá trình chuyển mình để hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam cần
phải tăng khả năng cạnh tranh, cung cấp cho thị trường các loại hàng hoá phù hợp. Điều này đòi hỏi
người vận chuyển phải đảm bảo chi phí vận tải hợp lý, đúng thời điểm, chính xác và an toàn. Muốn
như vậy, không có cách nào khác là các doanh nghiệp giao nhận, vận tải của ta phải làm quen và áp
dụng logistics trong hoạt động của mình nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, đặc biệt là
trong hoạt động vận tải biển vì khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường biển luôn chiếm tỷ
trọng rất lớn trong toàn bộ khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được chuyên chở.
Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay, tính hiệu quả chính là yếu tố
quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Làm thế nào để đạt được hiệu quả
trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp suốt từ khâu đầu tiên của quá trình sản
xuất đến khâu cuối cùng trong quá trình phân phối. Logistics ra đời đã giúp doanh
nghiệp giải quyết vấn đề trên và ngày càng đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh
nghiệp.
Các doanh nghiệp ngày càng tin tưởng rằng nâng cao hiệu quả và để cải thiện năng lực cạnh
tranh của họ thì cần phải tập trung tòan bộ năng lực vào những mảng mà họ làm tốt nhất và chỉ

thực hiện những hoạt động giúp họ gia tăng giá trị cốt lõi của mình. Một số doanh nghiệp đang dần
nhận ra rằng hoạt động logistics không phải là thế mạnh trong kinh doanh của họ và cảm thấy
không hài lòng với hiệu quả hoạt động của chính bộ phận logistics của mình. Họ gia tăng việc
chuyển sang nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất.
Nhu cầu thuê ngoài dịch vụ logistics đã theo chân các nhà đầu tư nước ngoài du nhập vào
Việt Nam thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi họ đầu tư vào Việt Nam thì nhu cầu dịch
vụ logistics gia tăng nhanh chóng phục vụ cho vận chuyển, lắp đặt cơ sở sản xuất, nhập khẩu trang
thiết bị máy móc, xuất khẩu thành phẩm. Thị trường dịch vụ logistics ngày càng mở rộng, nhất là
khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, nhu cầu về dịch vụ logistics của các công
ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày càng gia tăng nhanh chóng. Từ đó đã kéo theo sự xuất
hiện của hàng loạt các công ty Logistics toàn cầu với tiềm lực tài chính mạnh như Maersk, APL,
UPS . Hiện nay hoạt động của các công ty này còn hạn chế do nhà nước còn bảo hộ, các doanh
nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng cạnh tranh và tham gia vào chuỗi cung ứng dịch vụ logistics của
các công ty logistics nước ngòai thông qua hợp đồng đại lý, liên doanh và những khâu như nước
còn bảo hộ.
Tuy nhiên khi gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải thực hiện cam kết mở cửa hoàn toàn dịch
vụ này trong thời hạn 5-7 năm. Sau thời gian này Việt Nam sẽ cho phép các công ty logistics 100%
vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng tại Việt Nam.
Chính điều này sẽ tạo thuận lợi cho các công ty logistic nước ngoài vào hoạt động ở Việt Nam
và học viên đã chọn Công ty TNHH CJ GLS Việt nam – nơi mình đã từng làm việc để nghiên cứu
về những khó khăn, thuận lợi khi tham gia kinh doanh dịch vụ logistic ở Việt Nam giai đoạn này.
Đối với chuyên ngành kinh tế và kinh doanh quốc tế, thương mại quốc tế đóng vai trò quan
trọng với những hoạt động giao thương, buôn bán. Chính vì thế logistic có tầm quan trọng đặc biệt
để phục vụ hiệu quả cho các hoạt động kinh doah quốc tế. Với tư cách là một công ty 100% vốn
nước ngoài vào Việt Nam Công ty TNHH CJ GLS có những chiến lược, đường hướng để có thể
thích nghi với môi trường Việt Nam và phát triển thời gian qua đã thôi thúc tác giả đi sâu tìm hiểu
và lựa chọn đề tài này.
Để làm rõ được vấn đề trên, luận văn tập trung nghiên cứu một số câu hỏi sau:
- Thực trạng dịch vụ logistics của công ty như thế nào ?
- Cơ hội, thách thức của công ty khi hoạt động tại Việt Nam là gì?

- Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới như thế nào?
2. Tình hình nghiên cứu
* Các nghiên cứu trong nước
Ở giác độ tiếp cận trung mô và vĩ mô, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến
logistics hạn chế hơn. Có thể kể đến các tài liệu như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) cấp bộ của Bộ Thương mại “Logistics và khả năng
áp dụng, phát triển logistics trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận ở Việt
Nam” do PGS. TS. Nguyễn Như Tiến (Đại học Ngoại thương) làm chủ nhiệm (2004) tập trung
nghiên cứu khía cạnh dịch vụ vận tải, giao nhận hàng hoá.
- Đề tài NCKH cấp Bộ “Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ hậu cần (logistics) và
bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại thực
hiện (2006) tập trung phân tích các kinh nghiệm quốc tế của một số nước và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc phát triển dịch vụ này.
- Đề tài NCKH cấp Bộ “Giải pháp phát triển dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội” do GS. TS. Đặng Đình Đào, Đại học Kinh tế quốc dân chủ
biên (2008) chủ yếu tập trung phân tích các dịch vụ logistics chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trên địa bàn Hà Nội…
- Công trình NCKH quy mô nhất cho đến nay liên quan đến logistics ở Việt Nam là Đề tài
NCKH độc lập cấp Nhà nước “Phát triển các dịch vụ logistics ở nước ta trong điều kiện hội nhập
quốc tế” do GS. TS. Đặng Đình Đào (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân) chủ nhiệm, được thực hiện trong 2 năm (2010, 2011) với sự tham gia của nhiều nhà
khoa học và tiến hành thu thập số liệu thông qua điều tra, phỏng vấn ở 10 tỉnh, thành phố trong cả
nước. Trong khuôn khổ đề tài này, 2 cuốn sách chuyên khảo đã được xuất bản. Cuốn “Logistics –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, 2011) tập
hợp 26 báo cáo khoa học tại hội thảo của đề tài do đông đảo các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và
những người hoạt động logistics thực tiễn ở Việt Nam trình bày. 26 báo cáo này tập trung vào các
nội dung cơ bản: các vấn đề lý luận cơ bản của logistics, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển
dịch vụ logistics ở Việt Nam, các quy định pháp lý liên quan đến phát triển dịch vụ logistics ở Việt
Nam, cơ sở hạ tầng logistics ở Việt Nam, chính sách phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, giải
pháp phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam… Kết quả nghiên cứu của đề tài được giới thiệu một

cách đầy đủ và chi tiết trong cuốn sách chuyên khảo thứ 2: cuốn “Dịch vụ logistics ở Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2012), với các nội dung cụ thể
như: khái niệm dịch vụ logistics, nội dung phát triển dịch vụ logistics, hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự
phát triển các dịch vụ logistics của quốc gia (giới thiệu chỉ số LPI của Ngân hàng thế giới) và của
doanh nghiệp, các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam,
quá trình phát triển và thực trạng phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam, yêu cầu, khả năng,
quan điểm và giải pháp phát triển các dịch vụ logistics ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Đề tài
tiếp cận nghiên cứu logistics dưới giác độ ngành (ngành dịch vụ logistics).
- Bên cạnh đó, trên các báo, tạp chí và các diễn đàn internet, xuất hiện một số bài viết, tham
luận đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến thực tiễn phát triển của logistics ở Việt Nam,
nhưng nhìn chung mới dừng lại ở những nhận xét mang tính chất khái quát, định tính, trong khuôn
khổ thời gian và dung lượng hạn hẹp, chưa phải là nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu. Tiêu biểu
có thể kể đến tác giả Đỗ Xuân Quang, Phó Tổng giám đốc của VINAFREIGHT, đã có một số bài
viết phân tích về thực trạng, cơ hội và thách thức đối với ngành logistics ở Việt Nam, thực trạng và
định hướng phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam và đề xuất một số
giải pháp từ quan điểm của Hiệp hội Giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFFAS); hay tác giả Đỗ Huy
Bình, chủ nhân của blog về chuỗi cung ứng và logistics nổi tiếng nhất Việt Nam hiện nay
(Vietnam’s supply chain and logistics blog) cũng đưa ra nhiều nhận định liên quan đến thực trạng
phát triển của lĩnh vực này của Việt Nam, chủ yếu là liên quan đến trình độ cung ứng dịch vụ của
các doanh nghiệp logistics nội địa.
* Các nghiên cứu ngoài nước
- Các nghiên cứu chung
Các công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến logistics tập trung nghiên cứu logistics ở 3
giác độ chủ yếu: (i) giác độ vi mô (mirco logistics- logistics tại các cơ sở kinh doanh), (ii) giác độ
trung mô (meso logistics - logistics của ngành/vùng) và (iii) giác độ vĩ mô (macro logistics -
logistics trong nền kinh tế của một quốc gia và trong nền kinh tế toàn cầu – logistics quốc gia).
a. Tiếp cận logistics dưới giác độ vĩ mô
Ở giác độ vĩ mô, nghiên cứu được thừa nhận rộng rãi nhất là của Ngân hàng Thế giới (WB). Trong
các báo cáo “Connecting to Compete: Trade
Logistics in global economy” được công bố vào các năm 2007, 2010 và 2012, WB đã xây

dựng và công bố Chỉ số năng lực logistics của một quốc gia (LPI), được đánh giá thông qua 6 nhóm
yếu tố: Năng lực thông quan; Kết cấu hạ tầng cho hoạt động logistics, bao gồm cả kết cấu hạ tầng
cố định (cảng biển, đường sá, kho bãi…) và kết cấu hạ tầng dịch vụ thông tin liên lạc; Vận tải biển
quốc tế; Năng lực và chất lượng dịch vụ logistics; Khả năng truy xuất (khả năng theo dõi tình trạng
hàng hóa sau khi gửi) và Mức độ đúng hạn về thời gian thông quan và dịch vụ. Chỉ số LPI của WB
được xây dựng thông qua việc tiến hành điều tra các nhà hoạt động logistics ở 155 quốc gia trên thế
giới và được sử dụng rộng rãi để đánh giá trình độ phát triển logistics của một quốc gia, một khu
vực, một nhóm quốc gia… cũng như so sánh trình độ phát triển logistics giữa các quốc gia, các khu
vực, các nhóm nước trên toàn thế giới. Các báo cáo về LPI của WB cung cấp một bức tranh tổng
thể về hiện trạng logistics toàn cầu cũng như của các quốc gia, các khu vực trên thế giới.Ngân hàng
phát triển châu Á (Asian Development Bank – ADB), trong một nghiên cứu quy mô lớn về phát
triển hành lang kinh tế Bắc – Nam công bố năm 2007 (“Development Study on the North – South
Economic Corridor”) đã đưa ra quan niệm về hệ thống logistics quốc gia như sau: Một hệ thống
logistics bao gồm: (1) Những người sử dụng dịch vụ bao gồm những nhà xuất khẩu, nhập khẩu,
thương mại, người gửi hàng, nhận hàng; (2) Các nhà cung ứng dịch vụ logistics công cộng và tư
nhân; (3) Các thể chế, chính sách, quy định của quốc gia và địa phương; (4) Kết cấu hạ tầng giao
thông vận tải và thông tin liên lạc. ADB cũng cho rằng kết quả hoạt động của hệ thống logistics
được đo lường bởi 4 tiêu chí cơ bản: sự hiệu quả về chi phí, mức độ thuận tiện, mức độ tin cậy và
mức độ an toàn. Những tiêu chí này được xem xét để đánh giá mức độ hội nhập của một hệ thống
logistics, đồng thời đánh giá năng lực cung ứng dịch vụ logistics trong khuôn khổ hệ thống. Tác giả
Ruth Banomyong của Trung tâm Nghiên cứu Logistics, Đại học Thammasat,Thái Lan, một trong
những thành viên của nghiên cứu kể trên của ADB, trong rất nhiều nghiên cứu của mình (công bố
các năm 2007, 2008, 2010) đều sử dụng quan điểm này. Đây cũng là quan điểm được nhiều nhà
nghiên cứu Việt Nam sử dụng khi tiếp cận hệ thống logistics quốc gia, tiêu biểu là Đề tài NCKH
cấp Nhà nước do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân tiến
hành (đã đề cập ở trên).
Trong tác phẩm “National Logistics System”, Pavel Dimitrov (2002) chỉ ra rằng tiếp cận
logistics ở cấp độ vĩ mô liên quan đến việc nghiên cứu và ứng dụng các yếu tố cơ bản như: Cấu trúc
vĩ mô của hệ thống logistics của quốc gia/nền kinh tế thế giới; Thực trạng logistics của quốc gia/nền
kinh tế thế giới và Chiến lược phát triển logistics của quốc gia/toàn cầu. “National Logistics

System” tập hợp các nghiên cứu liên quan đến thực trạng chính sách phát triển của hệ thống
logistics của các quốc gia châu Âu.
b. Tiếp cận logistics dưới giác độ trung mô
Trong kinh tế và kinh doanh, thuật ngữ “trung mô’ (meso) thường được sử dụng liên quan
đến khái niệm cụm/ngành công nghiệp (industrial cluster), tức là chỉ một sự tập trung về mặt địa lý
của nhiều công ty và tổ chức có liên quan đến nhau trong cùng một lĩnh vực, bao gồm các nhà cung
ứng đầu vào, các nhà sản xuất, các nhà cung cấp dịch vụ, các kênh phân phối sản phẩm đến tay
người tiêu dùng. Do đó, tiếp cận logistics dưới giác độ trung mô thường được các tác giả đề cập
đến mối liên hệ vi mô – vĩ mô giữa hệ thống logistics vi mô của một doanh nghiệp với hệ thống
logistics vĩ mô của cả nền kinh tế. Một hệ thống logistics trung mô thể hiện sự hợp tác và liên kết
với nhau giữa các chủ thể khác nhau trong lĩnh vực vận tải và logistics như các nhà cung cấp dịch
vụ logistics và các cơ quan hoạch định chính sách trong phạm vi một vùng địa lý nhất định.
Cách tiếp cận logistics dưới giác độ trung mô thường được nghiên cứu và giải quyết ở các
khía cạnh:
- Các nghiên cứu về trung tâm logistics. Trung tâm logistics là một khu vực bao gồm mọi
hoạt động liên quan đến vận tải, logistics và phân phối hàng hóa nội địa cũng như quốc tế, thực hiện
bởi nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể là người chủ sở hữu hoặc người thuê sử dụng
các cơ sở vật chất và trang thiết bị của trung tâm logistics như kho bãi, văn phòng, khu vực xếp/dỡ
hàng….Trung tâm logistics cần phải có và được trang bị các trang thiết bị phục vụ cho các hoạt
động và dịch vụ của trung tâm, cần được kết nối với các phương thức vận tải khác nhau như đường
ôtô, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không… Trung tâm logistics thường được đặt
ở gần các đầu mối giao thông vận tải lớn, kết nối nhiều dạng hình phương thức vận tải hàng hoá
khác nhau cũng như gần các trung tâm kinh tế - thương mại lớn.
- Các nghiên cứu về logistics đô thị hay logistics thành phố (city logistics). Các đô thị là
những địa điểm quan trọng đối với các hoạt động kinh tế của một quốc gia với tư cách là các trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời cũng là nơi tập trung về mặt địa lý của nhiều
doanh nghiệp kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Chính vì vậy, các đô thị
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vĩ mô của một quốc gia, một ngành kinh tế
cũng như của các doanh nghiệp. Nhiều đô thị đã và đang phải đối mặt với những vấn đề nghiêm
trọng liên quan đến giao thông, môi trường… gây ảnh hưởng đến các hoạt động của đô thị đó, trong

đó có các hoạt động kinh tế và kinh doanh. Logistics đô thị là một khái niệm mới được phát triển
trong thời gian gần đây đề cập đến việc tích hợp những nguồn lực hữu hạn hiện tại để giải quyết
những khó khăn gây ra do việc gia tăng dân số và phương tiện đi lại ở các đô thị, dẫn đến ách tắc
giao thông, hiệu quả vận tải thấp, môi trường bị xâm hại… và do đó khiến năng lực cạnh tranh
trong kinh doanh giảm. Logistics đô thị có thể được định nghĩa là quá trình tối ưu hóa các hoạt
động logistics và vận tải được thực hiện bởi các công ty tư nhân vớisự hỗ trợ của hệ thống thông tin
tiên tiến ở những khu vực đô thị nhằm cải thiện môi trường, giảm ách tắc giao thông, tăng cường an
toàn giao thông và tiết kiệm năng lượng trong khung khổ nền kinh tế thị trường. Một hệ thống
logistics đô thị được cấu thành bởi 4 nhóm lợi ích: (1) các doanh nghiệp/chủ hàng, (2) các nhà vận
tải, (3) dân cư và (4) chính quyền địa phương.
Cũng giống như các hệ thống logistics khác, trục cơ bản của hệ thống logistics đô thị là các
luồng hàng hóa và thông tin từ các doanh nghiệp/chủ hàng đến người tiêu dùng (dân cư). Các
doanh nghiệp vận tải tham gia vào quá trình chuyển đưa hàng hóa và thông tin này, trong khi đó
chính quyền địa phương sẽ điều tiết hoạt động của họ thông qua các công cụ quản lý.
c. Tiếp cận logistics dưới giác độ vi mô – logistics trong hoạt động của doanh nghiệp -
logistics kinh doanh
Ở giác độ vi mô, các tài liệu về logistics rất phong phú, tiêu biểu là các tác giả và tác phẩm:
“Fundamentals of Logistics Management” của Lampert và các tác giả (1998), “Logistics and
Supply Chain Management” của Christopher (1998) hay “Business Logistics/Supply Chain
Management” của Ballou (2004).
Hầu hết các tác giả đều coi logistics là dòng vận động của nguyên vật liệu/hàng hóa, thông
tin và tài nguyên giữa các phần tử trong cùng một chuỗi cung ứng thống nhất liên quan đến hoạt
động của một doanh nghiệp. Một chuỗi cung ứng là một nhóm gồm các tổ chức kết nối trực tiếp
bằng một hay nhiều dòng chảy xuôi hoặc ngược của sản phẩm, dịch vụ, tài chính và thông tin từ
một nhà cung ứng đến khách hàng. Cũng có thể coi chuỗi cung ứng là tập hợp các quy trình, các
chức năng và các hoạt động có mối quan hệ tương hỗ, liên quan mật thiết đến nhau, bao gồm việc
mua hàng và giải phóng hàng, vận tải xuất nhập, nhận hàng, xử lý nguyên liệu, lưu kho và phân
phối, kiểm soát và quản lý tồn kho, lên kế hoạch cung cầu, xử lý đơn hàng, lên kế hoạch sản xuất,
vận tải đường biển, gia công hàng và dịch vụ khách hàng… Như vậy, từ cách tiếp cận trong mối
tương quan với chuỗi cung ứng, định nghĩa của CSCMP được sử dụng rất rộng rãi: Logistics có thể

được hiểu là một phần của toàn bộ quá trình quản trị chuỗi cung ứng liên quan đến việc lập kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả dòng chu chuyển và lưu kho hàng hoá, dịch vụ
và các thông tin liên quan một cách hiệu quả từ điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng để đáp ứng yêu
cầu của khách hàng.
Với khái niệm trên, logistics trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hay logistics
kinh doanh bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Ballou (2004) phân chia những bộ phận cấu thành
của một hệ thống logistics điển hình trong doanh nghiệp ra thành 2 nhóm hoạt động cơ bản: nhóm
các hoạt động chính và nhóm các hoạt động hỗ trợ.
- Nhóm các hoạt động chính là các hoạt động được tiến hành ở tất cả các kênh logistics của
mọi doanh nghiệp, có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động logistics, chiếm một
tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí logistics của doanh nghiệp. Các hoạt động này bao gồm: dịch vụ
khách hàng, vận chuyển hàng hóa, quản trị dự trữ, xử lý đơn hàng và các dòng thông tin đến và đi.
- Nhóm các hoạt động hỗ trợ bao gồm: kho bãi và bảo quản, mua hàng, bao gói, phối hợp với
bộ phận sản xuất để xác định khối lượng sản phẩm cần sản xuất, thời gian sản xuất, kết quả sản
xuất; xác định lịch trình cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất và hoạt động của doanh nghiệp,
thu thập, lưu trữ và xử lý các thông tin, phân tích các số liệu…
* Các nghiên cứu ngoài nước về logistics ở Việt Nam
- Không có nhiều nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về logistics ở Việt Nam. Một trong
những nghiên cứu được biết đến rộng rãi là “Vietnam logistics development, trade facilitation and
the impact on poverty reduction” của Viện Nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) công bố năm 2002.
Nghiên cứu này phân tích thực trạng phát triển logistics của Việt Nam, chủ yếu tập trung vào khía
cạnh logistics và chi phí logistics của sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam, cũng như tác động của logistics đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
- Nghiên cứu của Sullivan (2006) “Vietnam transportation and logistics: opportunities
and challenges” cho thấy một đánh giá khái quát về thực trạng, các cơ hội và thách thức đối với
lĩnh vực vận tải và logistics ở Việt Nam. Nghiên cứu này tập trung vào phân tích các cơ hội và
thách thức của Việt Nam đối với các phương thức vận tải hàng hóa như đường bộ, đường sắt,
đường không, đường biển.
- Các nghiên cứu của ADB (2007) về hành lang kinh tế Bắc Nam (đã đề cập ở trên) và Ruth
Banomyong (2007, 2008 và 2010) về logistics ở các quốc gia tiểu vùng sông Mêkông mở rộng và

khu vực ASEAN đã đưa ra những nhận xét và đánh giá về thực trạng phát triển logistics của các
nước liên quan trong khu vực nghiên cứu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ
mang tính chất khái quát và được đặt trong mối tương quan với các quốc gia trong khu vực.
- Tổ chức Business Monitor International (Anh) từ 2009 đã công bố các báo cáo hàng năm
“Vietnam Freight Transport Report” (Báo cáo về Vận tải hàng hóa ở Việt Nam). Các báo cáo này
không phân tích toàn bộ hệ thống logistics của Việt Nam mà chú trọng vào tình hình vận tải hàng hóa
Việt Nam theo các phương thức vận tải và tình hình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam.
Các báo cáo này sử dụng phương pháp phân tích SWOT để tiếp cận và trình bày nội dung nghiên cứu.
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy liên quan đến Logistics và
phát triển Logistics ở Việt Nam chủ yếu là các công trình nghiên cứu ở giác độ vĩ mô và trung mô.
Ở giác độ vĩ mô, các nghiên cứu chủ yếu mang tính chất khái quát, hoặc chỉ tập trung vào một khía
cạnh nội dung của logistics. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có một nghiên cứu ở giác độ vi mô
một cách đầy đủ, toàn diện để có thể thấy được những thực trạng cụ thể của dịch vụ logistics của
doanh nghiệp khi kinh doanh ở Việt Nam,
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
+ Nghiên cứu bản chất của dịch vụ logistics.
+ Thực trạng dịch vụ logistics được cung cấp bởi Công ty TNHH CJGLS.
+ Giải pháp đẩy mạnh sự phát triển của dịch vụ logistics của Công ty
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Đánh giá môi trường kinh doanh logistics ở Việt Nam hiện nay và thực trạng kinh doanh
logistics ở công ty trước xu thế chung của thế giới từ
đó đi vào giải quyết những mặt tồn tại của doanh nghiệp trong môi trường WTO.
- Phân tích những đặc điểm và thực trạng của hoạt động logistics ở Công ty TNHH CJ GLS
Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại giúp cho doanh nghiệp
cạnh tranh và phát triển trong môi trường WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động Logistics trong công ty TNHH CJGLS: lịch sử phát triển, quy mô hoạt động và đường

hướng kinh doanh . Phạm vi bài viết chỉ đi với nghiên cứu hoạt động logistics với tư cách là dịch vụ thuê
ngoài. Tuy nhiên logistics là một lĩnh vực rất rộng liên quan tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế nên tác
giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu dịch vụ logistics phục vụ cho hoạt động ngoại thơng, vì hiện nay ở Việt
Nam logistics phục vụ kinh doanh trong nước chưa được sự quan tâm của người sử dụng.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Về chủ thể: Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics CJ GLS tại Việt Nam, có khả năng
cung ứng một chuỗi các hoạt động logistics phục vụ cho xuất nhập khẩu hàng hóa. Còn các chủ
hàng với tư cách người mua dịch vụ, tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu ở công ty xuất nhập khẩu, chi
nhánh hoạt động ở Hà Nội, Hải Phòng. Bên cạnh đó để minh họa cho những vấn đề tồn tại ở doanh
nghiệp tác giả có nghiên cứu thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài như APL
Logistics, MOL Logistics, Nippon Express, Menlo Worldwide và một số doanh nghiệp khác.
Về không gian: Đề tài nghiên cứu hoạt động của công ty ở các tỉnh thành có diễn ra hoạt
động Logistics của doanh nghiệp ở Việt Nam tập trung ở Hải Phòng và Hà Nội.
Về thời gian: Từ năm 2007 đến 2012 do mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phục vụ cho
doanh nghiệp logistics sau khi thực hiện cam kết WTO.
5. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp nghiên cứu cơ bản của
luận văn. Trong từng nội dung cụ thể, tuỳ thuộc yêu cầu và điều kiện nghiên cứu, luận văn sử dụng
các các phương pháp nghiên cứu khác nhau để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến nội dung luận văn. Các phương pháp tổng hợp, so sánh… được sử dụng để phân tích các nội
dung liên quan đến cơ sở lý luận của luận văn cũng như các nội dung phân tích thực trạng của hệ
thống logistics trong nền kinh tế Việt Nam. Các phương pháp toán, thống kê, được sử dụng để thu
thập, và xử lý số liệu phục vụ cho phân tích thực trạng phát triển của hệ thống logistics trong nền
kinh tế Việt Nam.
* Phương pháp phân tích thống kê: bao gồm phân tích dựa trên các dữ liệu thống kê được
cung cấp từ các nguồn sau:
- Các số liệu thống kê của Tổng cục thống kê.
- Tài liệu của Hiệp Hội Giao Nhận Việt Nam (VIFFAS).
- Tài liệu nghiên cứu, báo cáo của công ty TNHH CJ GLS.
- Nguồn Internet

* Ngoài ra trong khi thực hiện đề ti tác giả có tham khảo ý kiến của những người có công tác
lâu năm v có chức vụ tại công ty logistics trong và ngoài nước như Transimex Saigon, Menlo
Worldwide (hiện nay là UPS), Nippon Express, APL Logistics để thấy rõ được những yếu kém hiện
nay của các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp nước ngoài, thực trạng phát triển của
các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam cũng như thực hiện các giải pháp khả thi cho các doanh
nghiệp trong nước.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đã trình bày được những nội dung cơ bản cũng như:
+ Nội dung chính của hoạt động Logistics đồng thời nêu rõ được thực trạng sự phát triển của
hoạt động Logisitcs trên thị trường Việt Nam hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO và đang
tiến hành lộ trình thực hiện cam kết của WTO.
+ Với đối tượng nghiên cứu chính là công ty CJ GLS Việt Nam, luận văn đã trình bày những
nét chung khái quát về quá trình phát triển của tập đoàn CJ nói chung và công ty TNHH GLS Việt
Nam nói riêng với những hoạt động và dịch vụ chính thuộc lĩnh vực Logistics mà công ty cung
cấp.Trong bài, tác giả cũng làm rõ được những đặc điểm nổi bật mà dịch vụ Logistics của công ty
đem lại cho khách hàng, phân tích những cơ hội cùng những khó khăn, thách thức đối với công ty
khi hoạt động trên thị trường Việt Nam để từ đó đưa ra cho công ty những giải pháp giúp phát triển
dịch vụ và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh cả trong nước và nước ngoài.
Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Hiện nay, dịch vụ Logistics đang trở thành một nhu cầu
thiết yếu đối với hầu hết các công ty kinh doanh, sản xuất nên việc nghiên cứu dịch vụ này tại công
ty TNHH CJ GLS có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các công ty Logistics nước ngoài
hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra, các công ty Logistics trong nước có thể ứng dụng những ưu việt
của công ty nước ngoài vào hoạt động của mình một cách phù hợp để tăng khả năng cạnh tranh trên
sân nhà.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ Logistics
Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics ở Công ty TNHH CJ GLS Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy sự phát triển dịch vụ logistics của công ty TNHH CJ

GLS Việt Nam trong những năm tới


References
Tiếng Việt
1. Nguyễn Văn Chương (2007), “Phát triển dịch vụ logistics khi Việt Nam hội nhập WTO”, Tạp
chí Hàng hải online.
2. Công ty TNHH CJ GLS Việt Nam (2007 – 2012), Báo cáo hàng năm của Công ty TNHH CJ
GLS Việt Nam (Hà Nội)
3. Đặng Đình Đào. Vũ Thị Minh Loan, Nguyễn Minh Ngọc, Đặng Thu Hương và Phạm Thị Minh
Thảo (2011), “Logistics: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”, Viện Nghiên cứu
Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc
dân.
4. Đặng Đình Đào, Nguyễn Minh Sơn (2012), “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội
nhập quốc tế”, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
5. Đinh Lê Hải Hà (2009), “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
logistics Việt Nam – Tiếp cận từ mô hình 5 lực lượng cạnh tranh”, Đề tài Nghiên cứu khoa
học cấp cơ sở, ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội.
6. Đinh Lê Hải Hà (2011), “Phát triển thị trường dịch vụ logistics ở Việt Nam”, Tạp chí Thương
mại, số 35.
7. Đinh Lê Hải Hà, Nguyễn Xuân Quang (2011), “Bàn về các giác độ tiếp cận khi nghiên cứu và
ứng dụng logistics trong kinh tế và kinh doanh hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 171.
8. Trịnh Thị Thu Hương (2009), “Phát triển hệ thống logistics trên hành lang kinh tế Đông –
Tây”, Đề tài Nghiên cứu khoa học Cấp Bộ, Mã số B2009 – 08 – 58, Đại học Ngoại thương Hà
Nội.
9. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), “Luật Thương mại”, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia.
10. Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại (2006), “Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về
dịch vụ hậu cần (logistics) và bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam”, Nxb Giao thông vận

tải, Hà Nội.
11. Đoàn Thị Hồng Vân (2003), “Logistic – Những vấn đề cơ bản”, Nhà xuất bản Lao động – Xã
hội, Hà Nội.
12. Đoàn Thị Hồng Vân (2003), “Quản trị Logistic”, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

Tiếng Anh
13. Amos Paul (2007), “Responding to global logistics trends with a national logistics strategy”,
World Bank, Washington DC.
14. Asian Development Bank – ADB (2007), “Development Study on the North – South
Economic Corridor”.
15. Australia Bureau of Transport Economics (2001), “Logistics in Australia, a preliminary
analysis”, Working Paper No. 49.
16. Ballou, R. H. (2004), “Business logistics/supply chain management”, 5
th
edition, Pearson
Prentice Hall, USA.
17. Business Monitor International (2009), “Vietnam Freight Transport Report”.
18. Christopher (1998), “Logistics and Supply Chain Management”.
19. Curtis Spencer (2007), “Global Logistics Trends”, Real Estate Logistics Forum, Journal of
Commerce.
20. Lampert (1998), “Fundamentals of Logistics Management”.
21. Pavel Dimitrov (2002), “National Logistics System”.
22. Sangam VK (2006), “Global Logistics outsourcing trends - Challenges in managing 3PL
relationship”.
23. Sullivan (2006), “Vietnam transportation and logistics: opportunities and challenges”.
Website:
24.
25.
26.
27.

28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.


×