Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.99 KB, 8 trang )

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công
nghiệp đường mía Việt Nam


Đinh Thị Nương


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Dũng
Năm bảo vệ: 2007


Abstract: Giới thiệu cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành công nghiệp đường mía Việt Nam (CNMDVN). Khảo sát ngành công nghiệp
đường mía ở một số quốc gia, rút ra bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh
công nghiệp đường mía cho Việt Nam. Trình bày thực trạng năng lực cạnh tranh của
ngành CNMĐVN từ năm 1992 đến nay. Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh
tranh của ngành CNMĐVN trong những năm qua. Đề xuất quan điểm và một số giải
pháp cơ bản nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
CNMĐVN trên thị trường khu vực và thế giới.

Keywords: Công nghiệp đường mía; Cạnh tranh; Kinh tế; Việt Nam


Content

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Cạnh tranh là qui luật của nền kinh tế thị trường, là động lực cho sự phát triển. Trong cơ
chế thị trường, các chủ thể kinh tế không những phải chấp nhận cạnh tranh trên thị trường nội địa


mà còn phải chấp nhận cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng,
mức độ cạnh tranh ngày càng quyết liệt khi nền kinh tế của nước ta thực hiện lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế sâu hơn, rộng hơn.
Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của hàng hoá Việt Nam
trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta và doanh nghiệp, khi quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta đang vào giai đoạn mới.
Nâng cao sức cạnh tranh cũng có nghĩa là khắc phục được nguy cơ tụt hậu, tạo ra động lực
cho phát triển, sử dụng tốt nhất nguồn lực của đất nước và làm cho hoạt động kinh tế của mỗi
doanh nghiệp, của cả quốc gia có hiệu quả cao nhất. Sau hai mươi năm đổi mới kinh tế và hơn
mười năm hội nhập kinh tế quốc tế, ở Việt Nam hiện nay đã có một số ngành, một số lĩnh vực đã
có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, nhiều loại hàng hoá dịch vụ của nước ta chiếm được
thị phần đáng kể ở hàng trăm nước trên thế giới. Bên cạnh đó, còn nhiều ngành hàng chưa đủ sức
cạnh tranh trên thị trường trong đó có ngành công nghiệp đường mía.
Ngành công nghiệp đường mía Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất gay gắt
trong qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy có rất nhiều nhà máy đường, nhưng lại chỉ có rất ít
nhà máy tầm cỡ có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện mới, phần lớn các nhà máy có qui mô
nhỏ, thiết bị và công nghệ Trung Quốc, (năng suất thiết bị, năng suất lao động, hiệu quả chất
lượng sản phẩm thấp, giá thành cao). Vùng nguyên liệu qui mô nhỏ bé, phân tán, năng suất nông
nghiệp và năng suất công nghiệp chế biến thấp, chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu sản
xuất công nghiệp, diện tích trồng mía ở nhiều đang có chiều hướng thu hẹp dần, các nhà máy
thiếu mía nguyên liệu để sản xuất. Công nghiệp đường mía Việt Nam đang phát triển trong tình
trạng mâu thuẫn: công suất sản xuất thừa đáp ứng nhu cầu trong nước nhưng năm 2005 và năm
2006 nước ta lại luôn trong tình trạng thiếu đường. Hàng năm, nhà nước phải chi ra một lượng
ngoại tệ khá lớn để nhập khẩu đường (năm 2005 là 100.000 tấn, năm 2006 là 250.000 tấn).
(Chưa kể đến lượng đường nhập lậu ước tính vài trăm ngàn tấn /năm). Sự sa sút của công nghiệp
đường mía đã tác động xấu đến sự phát triển các vùng nông thôn.
Là một nước có tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên, khí hậu phù hợp với sự phát triển
cây mía - cây mía đã được chọn là một trong những cây công nghiệp có vị trí quan trọng trong
chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở nhiều địa phương- Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển
ngành công nghiệp đường mía. Việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công

nghiệp đường mía được coi là một trong những mũi nhọn chiến lược nhằm khai thác tiềm năng
đất đai, giải quyết công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu người lao động và những người
ăn theo, góp phần xoá đói giảm nghèo nhiều vùng ở nông thôn Việt Nam; đồng thời có sản phẩm
đường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Thực tiễn đó là đang vấn đề cấp bách không chỉ trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài để
phát triển ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ tình hình ấy, chủ đề "Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công
nghiệp đường mía Việt Nam" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn này. Thông qua
nghiên cứu này, luận văn hy vọng đưa ra được những giải pháp nâng thiết thực nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của Việt
Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp quan trọng này.
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
* Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.
- Adam Leetham, Trade Review of Sugar Trade, presetation at Asia International Sugar
Conference, 24-25 Sep.2003
- Andy Duff, Finace Avaiability for Sugar, a presetation at Asia International Sugar
Conference, 24-25 Sep.2003
- Bryce Wenham, Competitiveness in today
,
s sugar Markets, presetation at Asia
International Sugar Conference, 24-25 Sep.2003.
* Những nghiên cứu trong nước:.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Cơ hội và thách thức
của ngành Mía Đường trong quá trình hội nhập quốc tế”. Hà Nội 8/2005.
- Cục Chế biến Nông sản và Ngành nghề Nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn: Báo cáo thị trường Đường. Hà Nội 2002/2003
- Cục Chế biến nông sản và Ngành nghề nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn: Khả năng cạnh tranh ngành Mía Đường Việt Nam. Hà Nội 8/2005.
- Cục Chế biến nông sản và Ngành nghề nông thôn – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn: Các báo cáo tổng kết về các niên vụ sản xuất đường mía từ năm 1994 đến nay.

- Cục Quản lý giá - Bộ Tài Chính “Báo cáo kết quả điều tra chi phí sản xuất và giá thành
mía, đường”. Năm 2005.
Những nghiên cứu trên đây hướng vào việc phân tích, đánh giá một số khía cạnh trong
năng lực cạnh tranh của sản phẩm Mía Đường Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, hoặc
là những báo cáo đánh giá tình hình sản xuất và thị trường mía đường nhằm phục vụ công tác
quản lý ngành. Bên cạnh đó, trên các trang báo và tạp chí cũng không ít các bài báo phản ánh
tình hình sản xuất kinh doanh của các nhà máy đường trong nước.
Luận văn này kế thừa kết quả phân tích của các nghiên cứu và tài liệu trên đây, kết hợp
với việc phân tích tình hình hiện nay, đưa ra những đánh giá mới mang tính tổng thể về thực
trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía, đồng thời đề xuất các quan điểm và
giải pháp cho sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía
phù hợp với yêu cầu mới của hội nhập kinh tế quốc tế.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về cạnh tranh, phân tích thực trạng sản xuất kinh
doanh và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam, đưa ra quan điểm và
những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Một số lý luận chung về cạnh tranh để nhằm làm rõ một số vấn đề cơ bản của cạnh tranh
và năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh
của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam.
- Khảo sát ngành công nghiệp đường mía ở một số quốc gia và rút ra bài học kinh nghiệm
về nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp đường mía cho Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía Việt Nam, chỉ ra
những điểm yếu và hạn chế vê năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng cao
sức cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trên thị trường khu vực và
thế giới.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công nghiệp đường mía Việt Nam dưới
góc độ Kinh tế chính trị. Do đó, luận văn đặc biệt quan tâm phân tích năng lực cạnh tranh của
công nghiệp đường mía dưới sự tác động của môi trường thể chế, các chính sách của nhà
nước…
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu công nghiệp đường mía Việt Nam lấy thời điểm từ năm 1994 (thời
điểm này Chương trình phát triển mía đường ở Việt Nam ra đời và được Chính phủ Việt Nam đã
phê duyệt vào tháng 10-1994 với mục tiêu “đến năm 2000 sản xuất 1 triệu tấn đường”) đến nay.
5- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, Tác giả sử dụng những phương pháp luận
trong nghiên cứu kinh tế chính trị là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nhưng phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phương pháp lôgic kết hợp với
lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, kết hợp phân tích với tổng hợp…
Đặc biệt luận văn có tham khảo và kế thừa những công trình khoa học có liên quan, các
báo cáo tổng kết của các bộ liên quan như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài
chính, Hiệp Hội Mía đường Việt Nam
6- Đóng góp mới của Luận văn
Thứ nhất: Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành đường mía Việt Nam, trên cơ
sở đó chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại và hạn chế, những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam.
Thứ hai: Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phần Phụ lục, luận văn cấu
trúc thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công
nghiệp đường mía Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp đường mía Việt Nam
hiện nay.

Chương 3: Quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành công nghiệp đường mía Việt Nam.


References
TÀI LIỆU TRONG NƯỚC

1- Thanh Bình (2005), “Gánh nặng đầu vào- nỗi lo của các doanh nghiệp”, Tạp chí Thông
tin Tài chính, (số 12), trang 4-5.
2- Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư, Trung tâm Thông tin Kinh tế Xã hội Quốc Gia (2004),
“Doanh nghiệp Việt Nam với vấn đề thương hiệu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế”, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
3- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế- một số sản phẩm và dịch
vụ có khả năng cạnh tranh”- Báo cáo tháng 4-2002.
4- Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn: “Báo cáo tình hình thực hiện các giải pháp tháo gỡ
khó khăn “Chương trình mía đường” – Tháng 8/2003.
5- Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn: Dự thảo Quy chế phối hợp sản xuất, tiêu thụ mía
đường”. Hà Nội 2005.
6- Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn và Cơ quan Phát triển Pháp: Nghiên cứu ngành mía
đường Việt Nam đến 2010-2020. Hà Nội 1999.
7- Bộ Tài Chính (2005), “Yêu cầu khắt khe của chất lượng tăng trưởng”, trang tin điệntử
.
8- Bộ Tài chính: “Những điều cần biết về năng lực cạnh tranh của một số hàng hóa dịch vụ
khi Hiệp định Thương mại Việt Mỹ có hiệu lực”- NXB Tài Chính, tháng 7-2002.
9- Chu Văn Cấp (2003): “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế”. NXB Chính Trị Quốc Gia.
10- Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, nhà xuất bản Thông Tấn, Hà Nội.
11- Chính phủ: quyết định 28/QĐ-TTg ngày 04/03/2004 về “Tổ chức lại sản xuất và
thực hiện một số giải pháp xử lý khó khăn đối với các nhà máy và công ty đường”.
Hà Nội 2004.

12- Công ty Tư vấn Phát triển bền vững (SDC): “Nghiên cứu khả năng cạnh tranh và tác
động xã hội của ngành công nghiệp đường mía trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Hà Nội
2004.
13- Lê Đăng Doanh (2005), bài dịch “Đánh giá của diễn đần kinh tế thế giớivề
năng lực cạnh tranh của Việt nam”, Vietnam Economic Review, (số 72),
trang 43-44
14- Nguyễn Quốc Dũng (2000), “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15- Trang Đan (2003), “Yếu tố nào hạn chế khả năng cạnh tranh khi hội nhập”, tạp chí Đầu
tư chứng khoán, (số 186), trang 19.
16- Bùi Hữu Đạo (2003), “Hệ thống Quản lý Chất Lượng- Công cụ để nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp”,tạp chí Thương Mại, (số 17), trang 6-7.
17- PGS.TS. Võ Văn Đức: “Phát huy lợi thế so sánh để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam trong điều kiện hiện nay”- NXBCTQG- 2004.
18- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (Khoa Kinh tế Chính trị): “Nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập của khu vực và quốc tế”. Đề tài
KH cấp Bộ- QĐ số 11/QĐ-QLKH tháng 6-2000-6-2001. Chủ nhiệm- GS.TS Chu Văn
Cấp.
19- Hoàng Nguyên Học (2004), “Cơ chế và giải pháp tài chính nâng cao hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp”, tạp chí Tài Chính, (số 1), trang 48-50.
20- Hội đồng Liên minh Châu Âu: “Báo cáo phân tích tác động chuyên sâu nhằm tiến
tới cải tổ chính sách về mía đường của Liên minh Châu Âu”. 2002.
21- Nguyễn Thị Hường (2004), “Phân biệt sức cạnh tranh của hàng hóa, của doanh nghiệp
và của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, tạp chí kinh tế và phát triển,
(số 83),trang 41-43.
22- Đoàn Khải (2005), “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam trước khi gia nhập WTO”, Tạp chí Giáo Dục Lý Luận,
23- Đặng Thành Lê (2003), “Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Kinh tế,(số
9), trang 32-48.

24- Vũ Tiến Lộc (2003), “Về chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản , (số 12),trang 24-28.
25- TS. Nguyễn Đình Long “Phân tích sơ bộ khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp
Việt Nam trong bối cảnh ASEAN và AFTA”- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Hà Nội 2000.
26- Michael-Eporter: “Chiến lược cạnh tranh”- NXB KHKT Hà Nội 1996.
27- C. Mac (2004), “Mac – Angghen tuyển tập”, tập 2, Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội.
28- Nguyễn Thị Hoa Nhài (2003), “Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà Nước
Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA”, Tạp chí Kinh tế –Châu á - Thái Bình Dương,
(số3), trang 1-11.
29- An Thị Thanh Nhàn (2004),” Giảm chi phí đầu vào và nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp”, Tạp chí Thuế Nhà Nước, (số 6), trang 43-45.
30- Nguyễn Hồng Thái (2005), “Nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp”, tạp chí Giao Thông Vận Tải, (số 6), trang 23, 26-28.
31- Nguyễn Vĩnh Thanh (2006), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay”, tạp chí Giáo Dục Lý Luận, (số 2), trang 30-34. (số
150),trang 15,16.
32. Lê Anh Tuấn (2005), “Một số quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh theo luật
cạnh tranh Việt Nam”, tạp chí Nhà Nước và Pháp Luật, số 10, trang 30-34.
33- Trần Văn Tùng (2004), Cạnh tranh kinh tế – Lợi thế cạnh tranh quốc gia
và chiến lược cạnh tranh của công ty, NXB Thế giới.
34- Lương Văn Tự: “Cơ hội và thách thức với Việt Nam trong tiến trình gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)- Tạp chí Cộng sản số 27- tháng 9-2003.
35- Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế (CIES): “ Chương trình Mía Đường Việt Nam –
Tương lai đi về đâu”. Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn. 2001.
36- Trung tâm Thông tin Thương mại – Bộ thương mại: “Thị trường đường thế giới và khả
năng cạnh tranh của mía đường Việt Nam”. Hà Nội 2005
37- Lê Danh Vĩnh (2003), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam

trong quá trình hội nhập”, Tạp chí Thương mại, (số 16)
38- Viện Nghiên cứu Mía Đường: “ Báo cáo kết quả nghiên cứu năm 2000”. Bình Dương –
2001.
39- Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
“Báo cáo rà soát quy hoạch vùng mía nguyên liệu của 43 NMĐ trên toàn quốc”. Hà Nội
2005.
40- Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn:
“Tổng quan Mía Đường Việt Nam”. Hà Nội 2004.

TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI

1- Adam Leetham, Trade Review of Sugar Trade, presetation at Asia International Sugar
Conference, 24-25 Sep.2003
2- Andy Duff, Finace Avaiability for Sugar, a presetation at Asia International Sugar
Conference, 24-25 Sep.2003
3- Bryce Wenham, Competitiveness in today
,
s sugar Markets, presetation at Asia
International Sugar Conference, 24-25 Sep.2003
4- Watanabe Sadanori (2003), “Các doanh nghiệp Việt Nam đối phó như thế
nào với cơn lốc cạnh tranh toàn cầu”, Thông tin khoa học – Xã hội, (số 9), trang29-34.

Các trang WEB:
.
.

.
.






×