Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.61 KB, 19 trang )

Giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh
Hà Nam hiện nay


Lâm Thị Phượng


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS. ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: TS. Đinh Văn Thông
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về lao động nữ và tạo việc
làm cho lao động nữ. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giải quyết việc làm cho
lao động nữ ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005 – 2011. Đề xuất một số giải pháp: về cơ
chế, chính sách; Về tổ chức, quản lý; Khuyến nghị hỗ trợ cải thiện điều kiện làm
việc và thu nhập cho lao động nữ chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động nữ ở tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.

Keywords. Kinh tế lao động; Lao động nữ; Hà Nam


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lao động, việc làm là một trong những vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển với
dân số đông và lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Với đặc điểm đó một mặt là thế mạnh
trong phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta, nhưng mặt khác nó lại tạo ra sức ép về việc làm
cho toàn xã hội. Do đó, giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người lao động nói chung


và lao động nữ nói riêng luôn là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm. Vì vậy, trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 -
2010” đã được thông qua tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX của Đảng, nêu rõ: Giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh
tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ: Phát triển thị trường lao động
trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung cầu lao động, phát huy tính tích cực của người
lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được trong giải quyết việc làm vẫn còn những hạn chế, những vấn đề “ nóng” rất cần được
quan tâm giải quyết như chất lượng việc làm chưa cao, tính ổn định, bền vững trong việc làm
và hiệu quả tạo việc làm còn thấp; tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ đang
diễn biến phức tạp; điều kiện làm việc và thu nhập của một bộ phận lớn lao động thấp
Ở nước ta hiện nay, lực lượng lao động nữ chiếm gần một nửa lực lượng lao động của
cả nước. Năm 2009, dân số nữ chiếm tới 50,57% với lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
chiếm 48%; năm 2010 là 50,54% với lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm 48,6%; năm
2011, lao động nữ chiếm tới 48,4% lực lượng lao động cả nước . Đảng và Nhà nước ta đã
tăng cường quan tâm, tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy khả năng của mình. Tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề giải quyết việc
làm cho lao động nữ, tình trạng bất bình đẳng giới, sự bất bình đẳng trong lao động - việc làm
như cơ hội tìm kiếm và tự tạo việc làm của lao động nữ còn nhiều hạn chế; trình độ học vấn,
chuyên môn, nghề nghiệp còn thấp, thu nhập thực tế của nữ thấp hơn nam giới; vẫn còn sự
phân biệt đối xử nam - nữ trong tuyển dụng lao động ( nhất là khu vực ngoài nhà nước); trong
nhiều doanh nghiệp, trong các khu công nghiệp tập trung, việc làm của lao động nữ thiếu ổn
định, điều kiện lao động, điều kiện sống không được bảo đảm; chính sách tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hộ lao động chưa được thực hiện đầy đủ.
Hơn nữa, lao động nữ thuộc nhóm lao động yếu thế. Điều này không chỉ xuất phát từ
đặc điểm tự nhiên về sức khoẻ, giới tính, mà nó còn xuất phát từ thiên chức, trách nhiệm và
gánh nặng gia đình, con cái Việc làm của phần lớn lao động nữ thiếu ổn định, thu nhập
thấp; phụ nữ dễ bị tổn thương trong công việc và ít nhận được các thỏa thuận việc làm chính
thức; số lao động nữ hoạt động trong khu vực phi chính thức tăng; lượng lao động nữ di cư tự

phát ra thành phố do thiếu việc làm gia tăng nhanh Điều đó chứng minh rõ nét vấn đề việc
làm của lao động nữ luôn là một vấn đề bức xúc và thiếu các yếu tố liên quan đến việc làm
bền vững.
Hà Nam là một tỉnh thuần nông, lực lượng lao động nữ chiếm hơn 51% dân số toàn
tỉnh. Trong khi quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh với tốc độ công nghiệp hoá diễn
ra khá nhanh; các khu, cụm công nghiệp phát triển mạnh, xây dựng tuyến đường cao tốc, khu
đô thị và nhiều dự án khác đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nhanh chóng; lao
động nữ của tỉnh phần lớn là lao động nông nghiệp; tỷ lệ lớn lao động chưa qua đào tạo nên
khó thích ứng và tự tìm kiếm việc làm trong các khu công nghiệp. Số lượng lao động nữ tự
tạo việc làm rất hạn chế, chủ yếu là các công việc tạm thời với thu nhập thấp và điều kiện lao
động không bảo đảm, tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ còn cao và có
xu hướng gia tăng (năm 2010, toàn tỉnh có gần 7.000 lao động nữ thiếu việc làm; tỷ lệ thiếu việc
làm của lao động nữ là 3,81%; tỷ lệ thất nghiệp là 1,33%). Từ đó nhu cầu việc làm và việc
làm bền vững cho lao động nữ dôi dư ngay tại địa phương trở nên hết sức bức thiết. Do vậy,
tỉnh xác định công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ là nhiệm vụ chiến lược trong phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Xuất phát từ nhu cầu bức xúc của công tác giải quyết việc làm cho lực lượng lao động
nữ ở Hà Nam hiện nay, đồng thời mong muốn xây dựng một số giải pháp góp phần tích cực
trong việc tạo việc làm cho lao động nữ ở Hà Nam, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “ Giải
quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Hà Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến việc làm, giải quyết việc làm
cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng đã được công bố dưới nhiều hình thức khác
nhau (sách tham khảo, đề tài, luận văn, luận án, bài tạp chí, báo ). Trong đó có thể kể đến:
- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác giả Trần Đình
Hoan và Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự Thật ,1991.
- Trần Thị Thu “Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ CNH, HĐH” - Nhà xuất
bản Lao động xã hội Hà Nội (2003).
- Trần Thị Minh Đức “Nghiên cứu một vài đặc điểm tâm lý xã hội của lao động nữ

ngoài tỉnh bán hàng rong trên đường phố Hà Nội” - Tạp chí tâm lý học số 6/2002.
- Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra, PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc,
Tạp chí con số và sự kiện, số 8/2003.
- Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho giai đoạn phát
triển 2001 - 2005, Bùi Văn Quán, Tạp chí lao động và xã hội, số chuyên đề 3, 2001.
- Trần Thị Bích Hồng “ Vấn đề dân số, lao động, việc làm đồng bằng Sông Hồng” -
Luận án tiến sĩ (2000).
- Phạm Mạnh Hà “ Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình trong
quá trình CNH, HĐH”- Luận án tiến sĩ (2011).
Nhìn chung các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và người lao động nữ nói riêng.
Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động
nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Nam một cách cơ bản, toàn diện và có
hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ.
Từ đó phân tích thực trạng của công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về lao động nữ và tạo việc làm cho lao
động nữ.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh
Hà Nam giai đoạn 2005 - 2011.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động nữ ở tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh

Hà Nam dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Phạm vi nghiên cứu.
Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm cho lao động nữ trên
địa bàn tỉnh Hà Nam
Về thời gian: luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm cho lao động
nữ ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005 - 2011 và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết
việc làm cho lao động nữ trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng về công tác
giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và so sánh để
phân tích làm sáng tỏ vấn đề.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn.
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nữ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nữ tỉnh
Hà Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước nâng cao hiệu quả giải
quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nữ.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Hà Nam giai
đoạn 2005-2011.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm cho lao
động nữ ở tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.



Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ

1.1. Những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm; lao động nữ và giải quyết việc làm cho
lao động nữ
1.1.1. Lao động, việc làm và giải quyết việc làm
 Lao động:
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm lao động. Nhưng suy đến cùng, lao
động là hoạt động có mục đích và có ý thức của con người tác động vào thế giới tự nhiên
nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống con
người. Từ khái niệm lao động, có thể thấy: lao động là quá trình con người sử dụng sức lực
tiềm tàng trong bản thân mình, kết hợp sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động để biến đổi nó phục vụ cho mục đích của mình.
 Việc làm:
Việc làm là vấn đề được nghiên cứu và đề cập dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Cùng
với sự phát triển của xã hội, quan niệm về việc làm cũng được nhìn nhận một cách khoa học,
đầy đủ và đúng đắn hơn. Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, ILO đưa ra quan niệm:
“Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc
những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu
nhập gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật”[4;tr. 47].
Ở Việt Nam, quan niệm về việc làm cũng được thể hiện rõ nét trong Bộ luật lao động của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2007. Điều 13, Chương II chỉ rõ:
"Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm" [ 18].
Như vậy, việc làm không bao gồm mọi hoạt động lao động, chỉ có những hoạt động
lao động thỏa mãn cả hai điều kiện là: hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm ( tính pháp
lý của việc làm) và hoạt động đó mang lại lợi ích và thu nhập cho người lao động, gia đình
và xã hội ( tính mục đích của việc làm).

 Giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nội dung cơ bản của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội được toàn thế giới cam kết trong tuyên bố về chương trình
hành động toàn cầu tại thủ đô Côpenhaghen ( Đan Mạch) vào tháng 3/1995. Có thể hiểu, giải
quyết việc làm cho người lao động là tạo ra các cơ hội
Quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác giải quyết việc làm, Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định “ Giải quyết việc làm là một trong những chính sách cơ bản của quốc
gia” [13;tr.201]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định:
“ Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc
làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh
các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động” [13; tr.213].
Như vậy có thể khẳng định: giải quyết việc làm cho người lao động là tổng thể các
giải pháp, chính sách kinh tế, xã hội tác động đến người lao động nhằm tạo ra điều kiện và
môi trường bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động có cơ hội làm việc với chất lượng
việc làm và thu nhập ngày càng cao.
1.1.2. Lao động nữ, việc làm của lao động nữ và giải quyết việc làm cho lao động nữ:
 Lao động nữ
Lao động nữ là một bộ phận quan trọng của lực lượng lao động quốc gia, bao gồm
một bộ phận dân cư là nữ trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc, đang có việc làm hoặc
không có việc làm, mong muốn có việc làm. Bộ Luật Lao động Việt Nam quy định: lao động
nữ là những phụ nữ từ 18 - 55 tuổi có khả năng lao động, hiện đang có việc làm hoặc bị thất
nghiệp.
Do đó có thể thấy: lực lượng lao động nữ bao gồm những phụ nữ trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những phụ nữ thất
nghiệp nhưng đang có nhu cầu và mong muốn tìm kiếm việc làm.
 Việc làm của lao động nữ:
Vấn đề việc làm cho lao động nữ đã được đặt ra rất sớm và có nhiều quan điểm khác
nhau:
Các Mác đã đề cập đến việc làm cho lao động nữ trong quá trình nghiên cứu nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa:“ Vì máy móc làm cho lao động sức bắp thịt trở thành thừa, cho nên nó

trở thành một công cụ để sử dụng những người lao động không có sức bắp thịt hoặc cơ thể
chưa phát triển đầy đủ nhưng chân tay lại mềm mại hơn. Vì vậy, khi tư bản sử dụng máy móc
thì tiếng nói đầu tiên của nó là Lao động phụ nữ và trẻ em” [ 6;tr.499].
Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO) đã bàn về việc làm cho lao động nữ trong Điều 8
Công ước xúc tiến việc làm năm 1988: “ Tuỳ theo thực tiễn và pháp luật hoặc quy định quốc
gia mỗi nước thành viên sẽ cố gắng thiết lập chương trình đặc biệt để khuyến khích những cơ
hội có việc làm thêm và sự trợ giúp việc làm và khuyến khích tự do lựa chọn việc làm có hiệu
quả những loại người bị bất lợi đã được xác định có thể bị khó khăn trong việc tìm kiếm việc
làm lâu dài như phụ nữ, thiếu niên, người bị khuyết tật, người thất nghiệp vĩnh viễn, người
lao động di trú hợp pháp tại Nước thành viên và những người lao động dôi ra do thay đổi cơ
cấu” [10].
Bộ Luật Lao động (1994) của nước ta đã dành riêng một chương cho lao động nữ .
Trong Khoản 1, Điều 109 của Bộ Luật Lao động đã chỉ rõ “ Nhà nước bảo đảm quyền làm
việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử
dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng
rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần,
giao việc làm tại nhà” [3].
 Giải quyết việc làm cho lao động nữ:
Giải quyết việc làm cho lao động nữ là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm. Khoản 2, Điều 109 của Bộ Luật Lao động khẳng định “ Có chính sách và biện pháp từng
bước mở mang việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm
sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ”. Từ khái niệm
giải quyết việc làm, chúng ta có thể hiểu: giải quyết việc làm cho lao động nữ là tổng thể
những chính sách, biện pháp, những hoạt động tác động vào tất cả các lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội để tạo ra việc làm phù hợp với lao động nữ
nhằm mang lại thu nhập cho họ mà không bị pháp luật ngăn cấm.
1.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lao động nữ
Cùng với sự phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
sự quan tâm của toàn xã hội trong công tác giải quyết việc làm và sự nỗ lực phấn đấu không
ngừng của phụ nữ Việt Nam đã giúp phụ nữ khẳng định vai trò, vị thế và sự tiến bộ của giới

mình trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, mặc dù tư tưởng “ trọng nam, khinh nữ” đã dần được xóa
bỏ nhưng quan niệm gắn phụ nữ với thiên chức làm vợ, làm mẹ và đảm nhận vai trò người
nội trợ trong gia đình là công việc chính vẫn còn phổ biến. Điều này đã trở thành rào cản đối
với người phụ nữ trong việc tham gia vào các công việc ngoài xã hội. Theo Lênin, vấn đề
việc làm là một trong những vấn đề cơ bản, đảm bảo cho lao động nữ có cơ hội vươn lên để
khẳng định vị trí của họ trong xã hội. Như vậy, vị thế của người phụ nữ chỉ có thể được
khẳng định khi được xã hội quan tâm giải quyết việc làm và tạo điều kiện cho họ tham gia
vào hệ thống phân công lao động xã hội để sử dụng khả năng lao động, tạo ra sự độc lập về
kinh tế và sự bình đẳng so với nam giới.
Việt Nam đang tiến hành quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) đất nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động. Trong quá trình CNH, HĐH, các khu công nghiệp lớn sẽ hình thành và phát
triển, thu hút lao động có chất lượng cao. Người lao động nữ muốn có việc làm ổn định cần
phải đáp ứng đòi hỏi về mặt trình độ, nắm bắt nhanh công nghệ mới được ứng dụng trong sản
xuất. Đây vừa là thách thức, yêu cầu mới; vừa là cơ hội để lao động nữ tiếp cận với đào tạo
và phát triển nâng cao trình độ của mình.
Lao động nữ có việc làm, có thu nhập, một mặt góp phần xây dựng kinh tế gia đình,
một mặt tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Lao động nữ có việc
làm ổn định sẽ tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống của gia đình, tạo điều kiện phát huy tốt
vai trò của họ trong việc quản lý gia đình và nuôi dạy con cái, tránh được các yếu tố rủi ro
xảy ra trong quá trình tìm kiếm việc làm. Tạo việc làm cho lao động nữ sẽ giúp cho lao động
nữ được tiếp cận với cơ hội đào tạo, phát triển, nâng cao trình độ, từ đó, trang bị thêm cho lao
động nữ sự tự tin, bản lĩnh vững vàng trong cuộc sống, giúp cho lao động nữ hiểu rõ hơn
quyền lợi và trách nhiệm của mình trong xã hội để họ tự hoàn thiện mình.
Giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động nữ là vấn đề cấp thiết, nó tạo cho lao
động nữ cơ hội được độc lập về kinh tế và phát triển các mối quan hệ xã hội, đáp ứng được
các yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ ở nước
ta hiện nay.
1.3. Đặc điểm việc làm của lao động nữ và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao
động nữ

1.3.1. Đặc điểm lao động nữ và việc làm của lao động nữ
 Đặc điểm của lao động nữ:
- Tính đặc trưng về sức khỏe, tính cách, tâm lý xã hội và chức năng sinh học của lao
động nữ:
Lao động nữ được xếp vào nhóm lao động đặc thù bởi những đặc điểm riêng biệt về
thể chất, tinh thần, chức năng sinh học Lao động nữ là người lao động có giới tính là nữ,
ngoài việc thực hiện nghĩa vụ lao động như nam giới, họ còn đảm nhận thiên chức làm vợ,
làm mẹ và chăm sóc gia đình. Chức năng thiên bẩm của phụ nữ là mang thai, sinh con và
nuôi con bằng sữa mẹ. Từ thiên chức này của lao động nữ nên đối với từng quốc gia đã có
chính sách riêng phù hợp với lao động nữ.
Lao động nữ có những đặc trưng riêng về sức khỏe, tính cách, tâm lý và đặc điểm xã
hội, từ đó tác động đến việc làm của họ. Do tạo hoá, phụ nữ nhìn chung có thể hình nhỏ bé
hơn, sức mạnh và độ dẻo dai kém hơn lao động nam nên thường chọn những công việc nhẹ
nhàng, ít nặng nhọc, ít độc hại và nguy hiểm. Phụ nữ thường chăm chỉ, chịu khó, kiên nhẫn,
khéo léo, thận trọng, họ rất cần cù, chịu đựng, bền bỉ, kiên trì, miệt mài với công việc nên
có những việc làm do lao động nữ đảm nhận thường hiệu quả hơn so với nam giới.
- Bất bình đẳng giới và bất bình đẳng thu nhập còn tồn tại phổ biến:
Lao động nữ thuộc nhóm lao động yếu thế, phải chịu nhiều thiệt thòi vì định kiến
giới, đặc biệt là trong lĩnh vực lao động. Họ dễ rơi vào tình trạng bị bóc lột sức lao động,
dễ bị tổn thương và bất bình đẳng trong việc làm so với nam giới do thị trường lao động
vẫn đang được phân loại theo giới tính.
Thực tế cho thấy, lao động nữ không chỉ bất bình đẳng với nam giới trên phương diện
cơ hội việc làm mà họ còn phải chịu sự bất bình đẳng so với lao động nam cả về phương diện
thu nhập. Theo Bộ LĐ,TB&XH, thu nhập thực tế của lao động nữ chỉ bằng 74,5% thu nhập
của lao động nam cùng ngành nghề; bằng 81,5% thu nhập của lao động nam ở cùng trình độ
chuyên môn kỹ thuật bậc trung; bằng 90,1% ở cùng trình độ cao đẳng và chỉ bằng 86% ở
cùng trình độ từ đại học trở lên.
- Sự chênh lệch về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và vị trí việc làm
còn lớn:
Có thể dễ dàng nhận thấy lao động nữ có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ

thuật thấp hơn hẳn so với nam giới “ Trình độ học vấn, nghề nghiệp của phụ nữ nhìn chung
còn thấp so với nam giới và so với yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH; hơn thế nữa sự chênh
lệch về trình độ học vấn của phụ nữ so với nam giới ở các bậc học ngày càng cao. Gánh nặng
công việc gia đình làm cản trở phụ nữ tiến bộ ”[6]. Tỷ lệ lao động nữ ở Việt Nam chưa qua
đào tạo chiếm tới hơn 80%. Năm 2010, phân bổ lực lượng lao động chia theo trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao nhất đạt được đã cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ
còn rất thấp. Tỷ lệ lao động nữ không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 85,7%; sơ cấp
nghề 1%; trung cấp nghề 0,8%; trung cấp chuyên nghiệp 4,1%; cao đẳng nghề 0,2%; cao
đẳng 2,3%; đại học trở lên 5,6% và không xác định 0,3% [12].
 Đặc điểm việc làm của lao động nữ:
Các đặc điểm cơ bản của lao động nữ đã tạo nên tính quy định đặc điểm việc làm của
họ.
- Việc làm của lao động nữ tập trung ở các lĩnh vực hành chính sự nghiệp, các ngành
công nghiệp nhẹ, các lĩnh vực thương mại và dịch vụ:
Nhìn chung, việc làm của lao động nữ thường là những công việc nhẹ nhàng, ít nặng
nhọc, ít độc hại và nguy hiểm. Phần lớn lao động nữ làm việc trong lĩnh vực hành chính, sự
nghiệp, lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ nhiều hơn. Nhóm các ngành nghề
như may mặc, giày da hay lắp ráp linh kiện điện tử thì gần như toàn bộ các lao động là nữ.
Trong nhóm các ngành công nghiệp nặng thì tỷ lệ lao động nữ có thấp hơn. Lao động nữ
thường lựa chọn những công việc đòi hỏi sự cần cù, tỉ mỉ, khéo léo và sự linh hoạt trong lao
động.
- Việc làm của lao động nữ chủ yếu trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ thấp và tính ổn
định của thu nhập không cao:
Phụ nữ có xu hướng làm việc tập trung trong những hoạt động có năng suất lao
động thấp hơn, làm các công việc tự do và tập trung trong khu vực tiền lương không
chính thức. Qua khảo sát cho thấy, các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao thì có đến 50% số
quảng cáo yêu cầu ứng viên phải là nam giới, chỉ có 17% yêu cầu ứng viên là nữ. Lao
động nữ hiện chiếm số đông trong những ngành nghề không đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật
cao, có thu nhập thấp, điều kiện lao động nghèo nàn, thời gian lao động kéo dài và việc
làm bấp bênh, rủi ro cao. Theo số liệu thống kê của Tổng Liên Đoàn Lao Động VN cho

thấy có khoảng 56,2% lao động nữ làm việc trong môi trường tiếng ồn, rung; 55% nóng,
bụi; 24,6% có chất độc; 12,9% công việc nặng nhọc.
- Việc làm của lao động nữ có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực:
Vị thế việc làm của lao động nữ cũng có sự thay đổi tích cực theo chiều hướng tỷ
lệ việc làm của lao động nữ thuộc nhóm lao động làm công tăng đột biến, thay thế vị trí
của nhóm lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương Trong 10 năm từ
1997 đến 2007, nhóm lao động làm công ăn lương tăng rất mạnh trong cơ cấu phân bố lao
động, từ 18,6% (1997) lên tới 30% (2007), trong đó lao động nam chiếm 59,8% và lao
động nữ chiếm 40,2% (2007). Nếu so sánh với năm 2005 thì có sự thay đổi rõ rệt. Năm
2005, tỷ trọng lao động làm công ăn lương chiếm 25,6%, trong đó lao động nam chiếm
78,7% và lao động nữ chiếm 21,3%. Tỷ trọng lao động nữ trong số người làm công ăn
lương tăng mạnh (19%), thể hiện sự thay đổi theo hướng giảm sự bất bình đẳng giới về
việc làm có thu nhập ổn định giữa nam và nữ [22].
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động nữ
- Những nhân tố về điều kiện tự nhiên
- Tâm lý xã hội, phong tục tập quán và vị thế của người phụ nữ trong xã hội:
- Năng lực của bản thân lao động nữ và tính tích cực trong tự tạo việc làm:
- Tác động của cơ chế, chính sách xã hội:
1.4. Một số phương thức giải quyết việc làm cho lao động nữ
1.4.1. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển mạng lưới doanh nghiệp vừa và
nhỏ, đa dạng hóa các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nữ
1.4.2. Giải quyết việc làm cho lao động nữ thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia
1.4.3. Mở rộng, phát triển và nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề, các trung
tâm giới thiệu việc làm tại địa phương.
1.4.4. Giải quyết việc làm cho lao động nữ thông qua xuất khẩu lao động
1.5. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nữ ở một số địa phương
1.5.1. Kinh nghiệm của Hưng Yên
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương
 Bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Hà Nam.ố bài học kinh nghiệm



Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ Ở TỈNH
HÀ NAM GIAI ĐOẠN 2005-2011.

2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Hà Nam ảnh
hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nữ
2.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Hà Nam
2.2.1.Thực trạng việc làm của lao động nữ tỉnh Hà Nam
2.2.1.1. Lao động nữ ở tỉnh Hà Nam
Dân số nữ trung bình của Hà Nam năm 2005 là 405.891 người với tỷ số giới tính là
94,5nam/100nữ và cơ cấu 48,6nam/51,4nữ; năm 2010 con số này là 402.340 người với tỷ số giới
tính là 95,5nam/100nữ và cơ cấu là 48,8nam/51,2nữ. Dân số là nữ chiếm tới gần 51,2% dân số toàn
tỉnh. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 55,2%; trong đó lao động nữ chiếm 50,96%.
Bảng 2.1. Dân số trung bình phân theo giới tính

Năm

Tổng số
Phân theo giới tính
(người)

Tốc độ tăng(%)

Cơ cấu(%)
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ

2005
790 092
384 201
405 891
100,4
99,8
48,6
51,4
2006
792 082
384 630
407 452
100,1
100,4
48,6
51,4
2007
787 646
383 721
403 925
99,8
99,1
48,7
51,3
2008
786 786
383 522
403 264
99,9
99,8

48,7
51,3
2009
786 168
383 918
402 250
100,1
99,7
49,0
51,0
2010
786 310
383 970
402 340
100,0
100,0
48,8
51,2
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hà Nam(2010), Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam)

Mặc dù tỉnh luôn quan tâm đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo để nâng cao trình độ
học vấn nhưng không thể phủ nhận chất lượng nguồn nhân lực nữ còn thấp so với mặt bằng
chung của tỉnh.
Bảng 2.2.Cơ cấu lao động nữ theo trình độ học vấn giai đoạn 2005-2010
Đơn vị: %
Trình độ học vấn
Lao động
2005
2008
2010

Chung
Nam
Nữ
Chung
Nam
Nữ
Chung
Nam
Nữ
- Chưa biết chữ
3,33
2,9
3.75
2,66
2,2
3,12
2,5
1,9
3,03
- Chưa tốt nghiệp tiểu
học
13,3
12,9
13,6
12,0
11,4
12,6
10,7
10,1
11,3

- Tốt nghiệp tiểu học
20,3
19,3
21,2
19,4
18,7
20,1
20,2
19,2
21,1
- Tốt nghiệp trung học
cơ sở
39,5
38,7
40,2
36,6
36,2
36,9
37,6
37,3
37,9
- Tốt nghiệp trung học
phổ thông
19,8
20,5
19,1
25,0
25,3
24,6
26,0

26,1
25,8
(Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện đề án đào tạo
nghề và đề án giải quyết việc làm tỉnh Hà Nam giai đoạn 2006-2010 )
Căn cứ vào bảng số liệu trên ta thấy, trình độ học vấn của lao động nữ có sự biến
chuyển theo chiều hướng tiến bộ, tỷ lệ lao động nữ chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học
giảm từ 3,75% và 13,6% (2005) xuống còn 3,03% và 11,3% (2010); tỷ lệ lao động nữ tốt
nghiệp ở bậc tiểu học và trung học cơ sở có giảm nhẹ nhưng tỷ lệ lao động nữ tốt nghiệp ở
bậc trung học phổ thông lại tăng lên đáng kể từ 19,1% (2005) lên 25,8% (2010).
Bên cạnh trình độ học vấn còn thấp, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ
còn rất hạn chế. Phần lớn là lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động thủ
công chiếm tỷ lệ lớn. Lực lượng lao động nữ không có trình độ chuyên môn kỹ thuật tuy có
giảm qua các năm nhưng nhìn chung vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn với 79,2% (2005) và 71,5%
(2010); lao động nữ có trình độ sơ cấp, học nghề, chuyên môn kỹ thuật không bằng tuy có tăng
từ 14,6% (2005) lên 18,7% (2010) nhưng còn chiếm tỷ lệ thấp; lao động nữ có trình độ chuyên môn
kỹ thuật có bằng chiếm tỷ lệ thấp nhất và tăng chậm qua các năm từ 6,2% (2005) lên 9,8% (2010).

Bảng 2.3. Cơ cấu lao động nữ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đơn vị: %
Năm

Trình độ
CMKT
2005
2008
2010

Tổng số

Nam


Nữ

Tổng số

Nam

Nữ

Tổng số

Nam

Nữ
- Không có trình độ chuyên
môn kỹ thuật
77,1
74,9
79,2
73,0
70,1
75,9
69,0
66,4
71,5
- Sơ cấp, học nghề,
chuyên môn kỹ thuật
không bằng.

15,4



16,2

14,6
17,4
19,3
15,4
20,6
22,5
18,7
- Chuyên môn kỹ thuật có
bằng trở lên.
7,5
8,9
6,2
9,6
10,6
8,7
10,4
11,1
9,8
Chung
100
100
100
100
100
100
100

100
100
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Hà Nam(2010), Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam)

2.2.1.2. Cơ cấu việc làm
Cơ cấu việc làm của lao động nữ có sự chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ. Năm
2010, lao động nữ trong công nghiệp, xây dựng chiếm 16,7% ( tăng 2,85% so với năm 2005).
Trong nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, tỷ trọng việc làm của lao động nữ có chiều hướng giảm
nhẹ từ 71,8% (2005) xuống còn 56,2% (2010); trong đó lao động nữ chiếm ưu thế trong lĩnh
vực trồng trọt ( chiếm trên 70%). Trong dịch vụ, việc làm của lao động nữ có xu hướng tăng
lên, chủ yếu tập trung trong một số lĩnh vực như buôn bán nhỏ, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải
trí Tỷ trọng việc làm tăng từ 15,1% (2005) lên 29,2% (2010) [12].
Xét theo khía cạnh vị thế việc làm, lao động nữ tự làm và làm công ăn lương chiếm
chủ yếu. Năm 2010, lao động tự làm chiếm khoảng 42% ( trong đó thành thị là 28,1% và
nông thôn là 47,1%); lao động nữ làm công ăn lương chiếm 34,4% ( trong đó thành thị là
56,8% và nông thôn là 26,1%). Lao động gia đình cũng chiếm một bộ phận của lao động nữ,
chiếm 21,6% ( thành thị là 10,8% và nông thôn là 25,5%).
Xét theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động nữ không có trình độ chuyên môn kỹ thuật
chiếm tỷ trọng lớn với 80,7%; còn lại một bộ phận nhỏ có trình độ trung cấp chuyên nghiệp ( 4,9%)
và đại học trở lên (8,2%) [12].
2.2.1.3. Tình trạng thiếu việc làm
Hà Nam là tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng nên tình trạng thiếu việc làm
của lao động nói chung và lao động nữ nói riêng nằm trong tình trạng chung của vùng. Năm
2010, tỷ lệ thiếu việc làm chung của tỉnh là 3,15% ( khu vực đồng bằng sông Hồng là 3,50%)
và của lao động nữ là 3,81% ( khu vực ĐBSH là 3,61%); khu vực thành thị là 1,46% và khu
vực nông thôn là 4,06% [21]. Thực tế cho thấy lao động nữ nông thôn thiếu việc làm chiếm tỷ
lệ khá lớn trong tổng số lao động nữ thiếu việc làm của tỉnh ( khoảng 83% trong giai đoạn
2005 - 2010). Năm 2010, toàn tỉnh có gần 7.000 lao động nữ thiếu việc làm, riêng lao động
nữ nông thôn là 5.810 người.
2.2.1.4. Tình trạng thất nghiệp

Bên cạnh thực trạng thiếu việc làm cho lao động nữ của tỉnh thì tình trạng thất nghiệp
cũng nằm trong tình trạng chung của vùng. Hiện nay, tình trạng lao động nữ thất nghiệp của
tỉnh còn khá cao. Tính đến tháng 4/2009, theo số liệu thống kê điều tra các kết quả suy rộng
mẫu của Ban chỉ đạo điều tra dân số Trung ương, tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp của Hà Nam
chiếm 33,4%. Nhờ đẩy mạnh thực hiện thực hiện công tác giải quyết việc làm cho người lao
động, đến năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp của lao động nói chung và lao động nữ nói riêng đã có
chuyển biến tích cực. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động của tỉnh là
1,33%, trong đó thành thị là 1,75% và nông thôn là 1,28% [21].
2.2.2. Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005 -
2011
2.2.2.1. Giải quyết việc làm cho lao động nữ theo ngành kinh tế
 Trong phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản nhằm giải quyết việc làm cho lao động
nữ:
Hà Nam tập trung đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành
theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi gia súc, gia cầm; nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất nông
nghiệp theo hướng hàng hoá và nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa. Tính đến năm
2008 trên địa bàn tỉnh đã có 572 trang trại, giải quyết việc làm cho 1.250 lao động, trong
đó nữ chiếm 62%; 167 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, giải
quyết việc làm cho 886 lao động nữ; có 165.837/220.789 hộ kinh tế gia đình trực tiếp
tham gia sản xuất nông nghiệp, trong đó có 25% hộ gia đình do nữ làm chủ. Năm 2010, số
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng lên 174 doanh
nghiệp, nhờ đó số lao động nữ được giải quyết việc làm đã tăng lên 967 người [12]. Năm
2010, trong tổng số lao động làm việc trong khu vực kinh tế nông thôn, tỷ lệ lao động nữ
làm việc trong nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tới 60,1% [12].
Tuy nhiên, những mô hình sản xuất có hiệu quả của lao động nữ của tỉnh còn rất
hạn chế, mới chỉ dừng lại ở một số gương điển hình tiêu biểu. Lao động nữ sản xuất nông
nghiệp phần lớn vẫn tự tạo việc làm là chính, lao động mang tính chất mùa vụ và chưa đa
dạng hóa các ngành nghề vào thời điểm nông nhàn nên lực lượng lao động nữ thiếu việc
làm ở nông thôn và tình trạng dư thừa lao động ở khu vực này ngày càng tăng đã tạo ra
những rào cản đối với vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện chất

lượng cuộc sống.
 Trong phát triển công nghiệp:
Hà Nam đã tập trung thực hiện có hiệu quả các Chương trình, Đề án phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nhờ đó, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh
giai đoạn 2006-2011 đã tăng bình quân 23,4%/năm. Tỉnh đã tập trung quy hoạch, đầu tư phát
triển 8 khu công nghiệp, trong đó 03 khu công nghiệp được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đã
thu hút gần 100 dự án đầu tư, có 30 dự án đầu tư nước ngoài thu hút gần 14.000 lao động,
trong đó lao động nữ chiếm 42,7%. Theo số liệu thống kê của tỉnh năm 2008, tổng số lao
động nữ được giải quyết việc làm mới trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng là 18.627 người,
chiếm 43,04% [11].
Công nghiệp chế biến đã hình thành và phát triển mạnh mẽ với đa dạng các loại hình
sản xuất, giải quyết được nhiều việc làm cho lao động nữ. Tổng số lao động nữ được giải
quyết việc làm trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến có khoảng 16.704 người, chiếm
khoảng 74,2% tổng số lao động nữ trong các doanh nghiệp (2010). Trong đó lao động nữ tập
trung chủ yếu trong các ngành sản xuất trang phục với khoảng 42,8%; công nghiệp dệt
17,6%; công nghiệp sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại 10,5%; công nghiệp
sản xuất thực phẩm và đồ uống 10,3%. Các ngành này tập trung đến trên 80% là lao động nữ.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 23 doanh nghiệp may mặc đã giải quyết việc làm cho 6.444 lao
động nữ, chiếm 85,24% [12].
Đối với các làng nghề truyền thống, tỉnh đã tập trung đầu tư khôi phục và đẩy mạnh
phát triển với nhiều ngành nghề phong phú, đa dạng. Tính đến thời điểm năm 2008, toàn tỉnh
có 30 làng nghề được khôi phục, phát triển. Do tính chất việc làm của các làng nghề truyền
thống phù hợp với lao động nữ ở khu vực nông thôn nên đã giải quyết được nhiều việc làm cho
phụ nữ lúc nông nhàn. Tính bình quân hàng năm đã thu hút khoảng 3.500 lao động nữ nông thôn
tham gia làm việc trong các làng nghề với thu nhập bình quân từ 800.000 - 1.200.000 đồng [20].
 Trong phát triển dịch vụ, thương mại:
Trong phát triển dịch vụ, thương mại, những năm gần đây tỉnh đã coi trọng dịch
chuyển cơ cấu kinh tế nên hoạt động dịch vụ thương mại có sự phát triển cả về quy mô, ngành
nghề, thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Số lao động nữ làm việc trong
lĩnh vực này tăng lên hàng năm nhiều hơn so với nam giới, nhưng chủ yếu là các đơn vị ngoài

quốc doanh và tư thương. Chỉ tính riêng số lao động nữ làm việc tại các doanh nghiệp trong
lĩnh vực dịch vụ giai đoạn 2005-2008 là 8.342 người, chiếm 34% tổng số lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp. Trong 3 năm, số lao động nữ được tạo việc làm mới là
7.134/13.837 người, chiếm 51,55% so với tổng số lao động được giải quyết việc làm trong
lĩnh vực này [20]. Tính tại thời điểm năm 2010, số lao động nữ hoạt động trong lĩnh vực
thương nghiệp của tỉnh có khoảng 1.598 người.
2.2.2.2. Giải quyết việc làm cho lao động nữ theo thành phần kinh tế
 Giải quyết việc làm cho lao động nữ trong kinh tế nhà nước
Số lao động nữ được giải quyết việc làm trong thành phần kinh tế nhà nước có xu
hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2005-2010. Tổng số lao động nữ trong các doanh nghiệp nhà
nước giảm từ 1.318 người, chiếm 13,2% (2005) xuống còn 1.122 người, chiếm 5,0% (2010);
trong đó lao động nữ trong các doanh nghiệp trung ương giảm từ 358 người xuống còn 344
người và trong các doanh nghiệp địa phương giảm từ 960 người xuống còn 778 người [12].
 Giải quyết việc làm cho lao động nữ trong kinh tế ngoài nhà nước
Với chủ trương đa dạng các thành phần kinh tế và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
đã làm cho thành phần kinh tế ngoài nhà nước không ngừng mở rộng cả về phạm vi và quy
mô. Năm 2010, số doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh là 1.621 doanh nghiệp,
chiếm tới 97,8% số doanh nghiệp của tỉnh. Số lao động nữ trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước tăng mạnh từ 7.034 người, chiếm 70,5% (2005) lên 17.096 người, chiếm 75,9% (2010),
tức là tăng gấp gần 2,5 lần. Trong đó, lao động nữ được giải quyết việc làm tập trung chủ yếu
trong các công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân với 4.252 người, chiếm 42,6% (2005) và 9.326
người, chiếm 41,4% (2010), tăng gấp hơn 2 lần [12].
 Giải quyết việc làm cho lao động nữ trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Với chủ trương mở rộng mối quan hệ hợp tác và tạo môi trường thuận lợi, thông
thoáng để thu hút đầu tư của các quốc gia trên thế giới của tỉnh đã làm gia tăng số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc tạo thêm việc làm cho lao động nữ. Số lao động nữ
được giải quyết việc làm trong khu vực này tăng từ 1.632 người, chiếm 16,3% (2005) lên
4.303 người, chiếm 19,1% (2010); trong đó số lao động nữ tăng nhanh trong khu vực doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài từ 901 người ( 2005) lên 4.001 người (2010) [12].

Bảng 2.4: Lao động nữ đang làm việc trong các doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp
giai đoạn 2005 - 2010
Đơn vị: người


Loại
hình doanh nghiệp
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tổng số
9.984
13.965
17.035
18.418
22.331
22.521
Doanh nghiệp nhà nước
1.318
1.355
1.241
1.380
1.105
1.122
Đạt (%)
13,2
9,7

7,3
7,5
4,9
5,0
Doanh nghiệp ngoài nhà nước
7.034
9.682
12.446
13.185
17.026
17.096
Đạt (%)
70,5
69,3
73,0
71,6
76,3
75,9
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài
1.632
2.928
3.348
3.853
4.200
4.303
Đạt (%)
16,3
21,0
19,7

20,9
18,8
19,1
( Nguồn:Cục Thống kê tỉnh Hà Nam(2010), Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam)

2.2.2.3. Giải quyết việc làm cho lao động nữ thông qua các chương trình mục tiêu Quốc
gia
 Các Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm
Tính từ năm 2005 đến nay, tỉnh đã tập trung huy động được 76.985 tỷ đồng, trong đó
nguồn vốn Trung ương giao cho tỉnh quản lý là 43.868 tỷ đồng, nguồn vốn do các Hội, đoàn
thể tỉnh quản lý là 10.666 tỷ đồng, nguồn vốn của quỹ địa phương là 22.451 tỷ đồng. Giai
đoạn 2006-2011, có khoảng 993 lượt phụ nữ được vay vốn với tổng số vốn là 18.810 triệu
đồng từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm; 29.427 lượt phụ nữ được vay vốn với tổng số vốn là
404.028 triệu đồng từ nguồn vốn vay của Ngân hàng chính sách xã hội; 513 lượt phụ nữ được
vay vốn với sosos tiền 2.983 triệu đống từ dự án quốc tế [2].
 Các trung tâm dạy nghề và dịch vụ giới thiệu việc làm
Phần lớn các cơ sở dạy nghề được tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị hiện đại, trong đó có 10 trung tâm với trên 50% học viên là lao động nữ tham gia học
nghề. Đến năm 2010, số lượng cơ sở dạy nghề của tỉnh đã tăng lên 21 cơ sở dạy nghề, trong
đó có 16 cơ sở dạy nghề của tỉnh và 5 cơ sở dạy nghề của Trung ương. Giai đoạn 2006-2011,
số lao động nữ được đào tạo nghề là 39.000 người ( riêng tại các trung tâm đào tạo nghề và
giới thiệu việc là của Hội LHPN tỉnh là 5.416 người) [2].
Công tác dạy nghề tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề của tỉnh đã tập trung đào tạo nghề
cho người lao động gắn với việc làm, tổ chức đào tạo nghề theo địa chỉ thông qua việc liên
kết với các doanh nghiệp. Trong 5 năm 2006 -2011, Hội đã tổ chức dạy nghề cho trên 5.000
lao động nữ có chứng chỉ, trong đó giới thiệu được 4.800 lượt lao động vào làm việc trong
các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh. Hội LHPN tỉnh còn tăng cướng hoạt động hỗ
trợ doanh nghiệp do nữ làm chủ.
2.2.2.4. Giải quyết việc làm cho lao động nữ thông qua xuất khẩu lao động
Năm

Trong 5 năm 2005 - 2009, tỉnh đã tập trung làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền
thông qua các hội nghị, tuyên truyền trên các kênh thông tin đại chúng về công tác xuất
khẩu lao động đến mọi tầng lớp nhân dân; tổ chức các hoạt động hướng nghiệp, dạy ngoại
ngữ và hướng dẫn làm thủ tục, hồ sơ, vay vốn (trên 12 tỷ đồng) cho lao động xuất khẩu
lao động; làm hộ chiếu cho 5.187 hồ sơ đi các nước Malaixia, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc, Liên bang Nga, trong đó lao động nữ chiếm 47,5%… [19]. Năm 2010, tổng số lao
động xuất khẩu của tỉnh là 1.152 người, trong đó lực lượng lao động nữ chiếm khoảng
15%.
2.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Hà
Nam
2.3.1. Trình độ của lao động nữ còn hạn chế, chưa thích ứng với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
2.3.2. Chất lượng của các cơ sở dạy nghề và các trung tâm giới thiệu việc làm còn nhiều
bất cập
2.3.3. Điều kiện làm việc và thu nhập của phần lớn lao động nữ không bảo đảm; việc tổ
chức thực hiện các chính sách và việc giám sát đảm bảo quyền bình đẳng của lao động nữ
chưa được quan tâm đầy đủ.


Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NỮ
Ở TỈNH HÀ NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
3.1.1. Phải coi vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nữ là một bộ phận quan trọng trong
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Công tác giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng
được xác định là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đối với tỉnh Hà Nam trên cơ sở
cụ thể hoá Nghị quyết X của Đảng, Đảng bộ tỉnh đã xác định: Đảm bảo có việc làm cho
người lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vừa là nhiệm vụ quan trọng trước mắt,

vừa là chiến lược lâu dài và được cụ thể hoá trong định hướng phát triển kinh tế đến năm
2020 và quy hoạch khu đô thị dân cư nông thôn với các định hướng cơ bản: Xây dựng Hà
Nam thành một địa bàn kinh tế mở. Bảo đảm hài hòa giữa phát triển nhanh, hiệu quả, bền
vững; Kết hợp tốt Công nghiệp hoá nông nghiệp - nông thôn với mở rộng và xây dựng mới
các khu đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm. Trên cơ sở những đinh hướng lớn, tỉnh đã đề ra
mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 với các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội là: Phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, hiệu quả, bền vững trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt mức sống của nhân dân, phấn đấu đến năm
2020 trở thành tỉnh công nghiệp, có mức GDP bình quân đầu người vượt mức trung bình
của vùng Đồng bằng Sông Hồng. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tăng trưởng bình
quân 14,2%/năm cho giai đoạn 2011 - 2020, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 đạt 13,5%,
giai đoạn 2016 - 2020 đạt 15%.
Để thực hiện được mục tiêu trên, trong những năm tới Hà Nam cần phải tập trung
nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết việc làm cho người lao
động nói chung, lao động nữ nói riêng. Khi tăng trưởng kinh tế sẽ gia tăng cơ hội cho các
ngành sử dụng nhiều vốn do áp dụng công nghệ cao và sử dụng nhiều lao động do công nghệ
vừa phải. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường lao động kém phát triển như ở Hà Nam nếu
không điều chỉnh linh hoạt, kinh tế phát triển nhanh dẫn đến cơ cấu ngành sản xuất thay đổi
theo hướng tăng nhu cầu sử dụng lao động có kỹ năng sẽ làm mất cân đối cơ cấu lao động,
tăng mức độ bất bình đẳng trong lao động, việc làm. Như vậy định hướng phát triển kinh tế
phải gắn chặt với giải quyết việc làm một cách hiệu quả, đặc biệt quan tâm đến chất lượng
nguồn nhân lực và cân đối phù hợp, đồng bộ các nguồn lực khác trực tiếp có tác động đến sự
tăng trưởng kinh tế.
3.1.2. Giải quyết việc làm cho lao động nữ gắn với công tác đào tạo nghề nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của tỉnh.
Hà Nam là tỉnh có quy mô dân số trung bình với chất lượng nguồn nhân lực thấp,
mạng lưới các cơ sở dạy nghề còn mỏng, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2010 mới chỉ
đạt 30% nên chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp. Do đó, để
giải quyết tốt công tác tạo việc làm cho lao động nữ cần phải gắn với công tác đào tạo nghề
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI của Đảng ta chỉ rõ: Trên cơ sở đầu tư phát triển kinh tế, cần phải hết sức quan tâm tới
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động, tạo điều kiện
giải quyết ngày càng nhiều việc làm.
Nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà
Nam đã xác định: Đảm bảo có việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, vừa là nhiệm vụ quan trọng trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài và được cụ thể hóa trong
định hướng phát triển kinh tế đến năm 2020. Do đó, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề bằng
nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ.
Công tác xã hội hóa dạy nghề được đẩy mạnh, tăng cường việc huy động các tổ chức, cá nhân
và các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nghề. Các cơ sở dạy nghề tiếp tục nâng
cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển quy mô đào tạo, mở rộng các ngành nghề phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và tình hình thị trường lao động trong giai đoạn hiện
nay. Mặt khác đẩy mạnh phát triển đào tạo nghề trình độ cao, theo định hướng phát triển thị
trường lao động để đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật cao trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời duy trì đào tạo nguồn nhân lực giải quyết việc làm tại
chỗ, phát triển nghề thủ công để phù hợp với trình độ của một bộ phận không nhỏ lao động nữ
như hiện nay.
3.1.3. Giải quyết việc làm cho lao động nữ gắn với thực hiện chính sách bình đẳng giới,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của lao động nữ.
Công tác phụ nữ và bình đẳng giới là một trong những chủ trương thể hiện xuyên suốt
trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng, nghị quyết và chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ.
Đối với tỉnh Hà Nam, mục tiêu bình đẳng giới trong giải quyết việc làm đã được Đảng bộ, Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh cụ thể hoá bằng các chủ trương, chính sách. Vấn đề
bình đẳng giới được lồng ghép vào định hướng phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội của
tỉnh. Tỉnh uỷ đã ban hành Chỉ thị số 05 về Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng thực
hiện chiến lược hành động vì sự tiến bộ phụ nữ và được Uỷ ban nhân dân tỉnh thể chế trong kế
hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Hà Nam.
Bên cạnh các chính sách đảm bảo quyền bình đẳng cho lao động nữ thì việc bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng cho lao động nữ theo đúng quy định của pháp luật cũng được tỉnh

quan tâm. Lao động nữ trong các doanh nghiệp được tuyển dụng và làm việc theo hợp đồng lao
động, được đóng bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, được hưởng các chế độ đối với lao động
đặc thù Tuy nhiên, vấn đề thực thi quyền lợi của lao động nữ trong khu vực ngoài nhà nước
vẫn chưa được đảm bảo một cách đầy đủ, không ít doanh nghiệp vẫn tìm cách để ”lách” luật
nhằm thu hẹp quyền lợi chính đáng của lao động nữ. Do đó, tỉnh cần phải tiếp tục kiểm tra chặt
chẽ việc thực hiện quyền của người lao động và nghiên cứu để xây dựng các chính sách phù
hợp với tính chất đặc thù của lao động nữ nhằm tạo điều kiện hỗ trợ họ tái sản xuất nâng cao
chất lượng sức lao động và nâng cao chất lượng cuộc sống.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh
Hà Nam trong thời gian tới.
3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
3.2.1.1. Tăng cường thực hiện các chính sách kinh tế gắn với giải quyết việc làm cho lao
động nữ
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đa dạng hoá các thành
phần kinh tế là tiền đề quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động, trong đó có lao
động nữ.
Để tiếp tục duy trì ổn định và giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sớm đạt được
mức bình quân của cả nước và Đồng bằng Sông Hồng; giai đoạn 2010 - 2015 và những năm
tiếp theo, tỉnh Hà Nam cần tập trung đẩy mạnh các giải pháp: Tiếp tục nghiên cứu các chính
sách kinh tế vĩ mô như chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai nhất là hệ
thống luật pháp kinh tế nhằm cụ thể hoá, tổ chức, triển khai, thực hiện có hiệu quả, phát triển
mạnh mẽ các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Một trong các giải pháp hỗ trợ tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo việc làm cho
người lao động đó là các chính sách của quốc gia trong công tác giải quyết việc làm của tỉnh
cũng phải được thực hiện và khai thác một cách triệt để, hiệu quả vì thực tế hiện nay, nên
kinh tế của tỉnh Hà Nam còn nghèo, ngân sách phụ thuộc nhiều vào nguồn ngân sách trung
ương, tiềm năng về kinh tế có hạn, do vậy việc thực hiện tốt các chính sách quốc gia trong
giải quyết việc làm có vai trò hết sức quan trọng, góp phần tích cực trong công tác giải quyết
việc làm cho lao động nói chung, lao động nữ nói riêng.
3.2.1.2. Tăng cường chính sách quan tâm chăm sóc sức khoẻ và đảm bảo thực hiện pháp

luật về quyền của lao động nữ
Tỉnh cần tiếp tục rà soát và sửa đổi những vấn đề bất cập trong việc giải quyết các chế
độ về bảo hiểm y tế với lao động nữ để cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhất là sức
khỏe sinh sản của lao động nữ và phải đưa các dịch vụ này vào danh mục bảo hiểm y tế. Thực
hiện các chương trình hỗ trợ để phụ nữ có cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các
dịch vụ chất lượng cao về y tế, giáo dục Hội LHPN cần tích cực phát huy vai trò của mình
trong việc phối hợp với các tổ chức, ban ngành để tổ chức các lớp tập huấn, truyền thông về
kiến thức chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ; quan tâm giáo dục kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ;
tổ chức khám chữa bệnh định kỳ và theo chiến dịch tại các địa bàn cơ sở
Cần đẩy mạnh tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn và trợ giúp pháp lý cho phụ
nữ; thành lập và duy trì hoạt động câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật; câu lạc bộ Trợ giúp pháp
lý nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cho lao động nữ để nhân thức đầy đủ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ về thu nhập cho gia đình của lao động nữ
cũng cần được quan tâm. Có các chính sách hỗ trợ lao động nữ khi họ không thể tham gia vào
thị trường lao động hoặc khi họ bị thất nghiệp; mở rộng đối tượng thụ hưởng, nhất là đối với
lao động nữ trong khu vực doanh nghiệp phi chính thức, hộ gia đình, phụ nữ nghèo ở nông
thôn
3.2.1.3. Thực thi mạnh mẽ chính sách bình đẳng giới trong lao động và việc làm
Những năm tới tỉnh Hà Nam cần quan tâm đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu Bình
đẳng giới trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020. Tích cực chỉ đạo
các ngành chức năng cần tách biệt chỉ số về giới trong xây dựng mục tiêu, đánh giá kết quả
thực hiện trong giải quyết việc làm cho người lao động. Có các giải pháp cụ thể để tăng nhanh
tỷ lệ phụ nữ được đào tạo trung cấp nghề, cao đẳng nghề, đại học, sau đại học. Tăng cường
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới; nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về vấn đề giới và bình đẳng giới. Hình thành và kiện toàn hệ thống tổ chức, cán bộ quản
lý Nhà nước về bình đẳng giới từ tỉnh đến địa phương, cơ sở. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội
ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực, cán bộ chuyên trách, các cộng tác viên chuyên nghiệp thực hiện
công tác bình đẳng giới. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức, quản lý

3.2.2.1. Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề cho lao động nữ
Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề cần được triển khai nhằm mở
rộng quy mô và nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu học nghề của
lao động nữ. Đối với các khóa học đào tạo nghề cho lao động nữ được thực hiện bằng nguồn
kinh phí từ các chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện công tác đào tạo nghề gắn với giải
quyết việc làm, liên kết với cấc doanh nghiệp để đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực nữ cho
các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần bố trí nguồn kinh phí kịp thời theo chính sách ưu đãi đầu
tư của tỉnh để hỗ trợ các doanh nghiệp có thu hút nhiều lao động vào làm việc trong công tác
đào tạo nghề, tự đào tạo nghề cho lao động nữ.
3.2.2.2. Kiện toàn và đổi mới tổ chức hoạt động của các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm
cho lao động nữ
Hoạt động của các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm đã và đang có những đóng góp
quan trọng trong việc giới thiệu việc làm cho lao động nữ. Do đó cần đẩy mạnh hoạt động của
hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, kiện toàn cơ sở vật chất và bổ sung thêm cán bộ quản
lý, theo dõi và phát huy vai trò, hiệu quả của các sàn giao dịch việc làm trung tâm và các sàn
giao dịch việc làm vệ tinh được mở tại trung tâm các huyện, định kỳ tổ chức các phiên giao
dịch việc làm. Phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để khảo sát, nắm bắt kịp thời nhu cầu
sử dụng lao động nữ của các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các trung
tâm trong lĩnh vực thông tin thị trường lao động, tư vấn pháp luật lao động và giới thiệu việc
làm.
3.2.2.3. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngoài
Trên cơ sở kết quả thực hiện công tác xuất khẩu lao động nói chung và lao động nữ
nói riêng giai đoạn 2005-2010, có thể khẳng định tỷ lệ lao động nữ xuất khẩu của tỉnh còn ở
mức hạn chế. Do vậy trong những năm tới, Hà Nam cần xác định phải tăng cường hoạt động
xuất khẩu lao động, coi đây là một giải pháp thiết thực nhằm tạo việc làm cho người lao động
nói chung trong đó có lao động nữ. Bên cạnh đó cần có các giải pháp cụ thể nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và khả năng thích nghi với công việc của nguồn lao động xuất khẩu.
Để làm được điều này cần có sự tập trung chỉ đạo thực hiện của các cấp, các ngành với những
giải pháp cụ thể như đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động cho xuất
khẩu; sắp xếp, cải tổ lại doanh nghiệp làm công tác xuât khẩu lao động và làm tốt công tác

tuyển chọn; cải tiến công tác tài chính và thông tin về xuất khẩu lao động
3.2.2.4. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng nhiều lao động nữ
Ở Hà Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công
nghiệp chế biến, trong các làng nghề truyền thống, trong lĩnh vực chế biến nông sản, trong
tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp phải một số khó khăn
nhất định về vốn và cơ sở hạ tầng, năng lực cạnh tranh trên thị trường kém do sản phẩm làm
ra còn đơn điệu, chất lượng sản phẩm không đảm bảo. Mặt khác, nguồn lao động bị khủng
hoảng do các lao động chuyển sang các doanh nghiệp lớn có vốn đầu tư nước ngoài. Một số
doanh nghiệp đòi hỏi phải có lao động kỹ thuật công nghiệp cao nên gặp nhiều khó khăn
trong tuyển dụng lao động.
Để tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới doanh nghiệp
vừa và nhỏ, thúc đẩy phát triển việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động nói chung và
lao động nữ nói riêng; tỉnh Hà Nam cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể như hỗ trợ nâng
cao khả cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng thương hiệu và đăng ký bản
quyền sản phẩm; tăng cường quản lý đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ; quan tâm thực hiện
các chính sách đối với người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng
3.2.3. Khuyến nghị hỗ trợ cải thiện điều kiện làm việc và thu nhập cho lao động nữ
3.2.3.1. Đối với các cấp bộ Đảng và Chính quyền
Cần có sự nghiên cứu, rà soát lại các văn bản luật pháp, chính sách liên quan đến lao động
nói chung và đến lao động nữ nói riêng Đồng thời cũng cần có cơ chế để tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản luật pháp, chính sách có tác động đến đời sống
của lao động nữ để những quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ được đảm bảo
thực thi trong thực tiễn.
Tăng cường các chính sách giáo dục và y tế, chính sách nhà ở khu vực nông thôn; quan tâm
xây dựng các điểm trường cấp III, các lớp nhà trẻ, tạo điều kiện thuận lợi để trẻ em có thể đến
trường một cách thuận tiện.
3.2.3.2. Đối với các ngành chức năng và Hội Phụ nữ các cấp
Cần quan tâm hơn đến đời sống tinh thần của phụ nữ, tăng cường tổ chức các chương
trình văn hoá văn nghệ để phụ nữ có điều kiện tham gia, thưởng thức.
Hội Phụ nữ các cấp tăng cường tuyên truyền, động viên lao động nữ chủ động, tích

cực tham gia hơn nữa trong các hoạt động phát triển kinh tế Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao kiến thức và năng lực của phụ nữ; tập trung tuyên
truyền, hướng dẫn hội viên tham gia thực hiện đề án xây dựng nông thôn mới của địa phương,
tham gia thực hiện thắng lơi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tăng cường hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Tăng cường phối hợp triển
khai các hoạt động chăm sóc sức khoẻ của lao động nữ, nhất là đối tượng phụ nữ trong độ
tuổi sinh sản.
3.2.3.3. Đối với các cơ sở sử dụng lao động nữ
Các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động nữ cần thực hiện nghiêm túc các chính sách đối
với lao động nữ trong Bộ Luật lao động. Trang bị đủ các dụng cụ chuyên dùng và bảo hộ lao
động đầy đủ cho lao động nữ làm việc trong môi trường độc hại.
Cần phải thành lập và tăng cường hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp
để đại diện cho người lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của lao động nữ, giúp họ
nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật để tự bảo vệ mình, góp phần ổn định và phát triển các
doanh nghiệp.


KẾT LUẬN

Giải quyết việc làm, hạn chế tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp đối với lao động
nói chung và lao động nữ nói riêng là nhiệm vụ quan trọng vừa có tính cấp bách, vừa mang
tầm chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt đối với lao động nữ, giải quyết việc
làm vừa phát huy tối đa tiềm năng lao động, giảm sự lãng phí về nguồn nhân lực, vừa là
nguồn gốc hướng tới sự bình đẳng giới. Tạo việc làm cho lao động nữ không chỉ mang lại lợi
ích kinh tế mà còn mang lại lợi ích xã hội, làm cho xã hội ngày càng công bằng và văn minh
hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm
cho lao động nữ, luận văn tập trung đi sâu phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho lao
động nữ trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Trong đó đã phân tích kĩ những đặc điểm về cơ cấu và
chất lượng của lực lượng lao động nữ; tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp để chỉ ra những

ưu điểm và hạn chế của lao động nữ Hà Nam. Từ đó, luận văn tập trung đánh giá kết quả của
quá trình giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh trong các ngành kinh tế; các
thành phần kinh tế; các chương trình mục tiêu quốc gia và thông qua xuất khẩu lao động. Có
thể khẳng định, công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ ở tỉnh đã được quan tâm đặc
biệt, nhờ đó lực lượng lao động nữ Hà Nam ngày càng tham gia đông đảo và có hiệu quả
trong các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, quá trình giải quyết việc làm cho lao động nữ của tỉnh
vẫn còn tồn tại những bất cập cần được tiếp tục khắc phục trong thời gian tới đã được luận
văn chỉ ra như cần tiếp tục tuyên truyền tăng cường nhận thức của lao động nữ về vấn đề việc
làm; nâng cao trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật; nâng cao chất lượng của các
cơ sở dạy nghề; tăng cường công tác tư vấn, dự báo về thị trường lao động; tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của lao động
nữ Từ những thành công và hạn chế trong quá trình giải quyết việc làm cho lao động nữ,
luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giải
quyết việc làm cho lao động nữ, trong đó có nhấn mạnh vào các nhóm giải pháp mang tính
tổng thể như nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; nhóm giải pháp về tổ chức, quản lý và đề
xuất các khuyến nghị đối với các cấp bộ Đảng và chính quyền; với cơ quan đại diện cho tiếng
nói của phụ nữ - Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh và trực tiếp là các cơ sở sử dụng lao động nữ
nhằm tạo điều kiện cho lao động nữ ở tỉnh Hà Nam được bình đẳng hơn trên phương diện tìm
kiếm, lựa chọn và tiếp cận dễ dàng hơn với các cơ hội việc làm, được thực hiện quyền và nghĩa
vụ lao động của mình theo đúng các quy định và các chính sách ưu tiên đối với đối tượng lao
động đặc thù giúp phụ nữ Hà Nam đóng góp nhiều hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới



References
1. Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam (2010), Báo cáo kết quả thực hiện công
tác đào tạo nghề cho lao động nữ.
2. Ban chấp hành Hội LHPN tỉnh Hà Nam (2011), Báo cáo của Ban Chấp hành Hội LHPN
tỉnh Hà Nam tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2011-2016).

3. Bộ Luật Lao động (1994).
4. Bộ Lao động, thương binh và xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông tin thị trường lao động
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. C. Mác (1984), Tư bản, tập thứ nhất, Quyển I, phần 1, Nhà xuất bản Sự thất, Hà Nội.
6. C. Mác (1995), Tư bản, Quyển I, Tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
7. Chính phủ (2001), Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc
gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005.
8. Chính phủ (2007), Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm đến năm 2010.
9. Chính phủ (2010), Quyết định số 295/QĐ-TTg phê duyệt đề án Hỗ trợ phụ nữ học nghề,
tạo việc làm giai đoạn 2010-2015.
10. Công ước xúc tiến việc làm (1988).
11. Cục Thống kê tỉnh Hà Nam (2008), Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam.
12. Cục Thống kê tỉnh Hà Nam (2010), Niên giám thống kê tỉnh Hà Nam.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương (2009), Báo cáo 5 năm giải
quyết việc làm của giai đoạn 2005-2009.
15. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hải Dương, Mục tiêu kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ
nữ Hải Dương đến năm 2010.
16. Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2006-2010 ( Ủy ban
quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam).
17. Lịch sử các học thuyết kinh tế (1996), Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
18. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Bộ Luật Lao động.
19. Sở Lao động, thương binh và xã hội tỉnh Hà Nam (2008), Báo cáo hoạt động xuất khẩu
lao động giai đoạn 2005-2008.
20. Sở Lao động, thương binh và xã hội tỉnh Hà Nam (2005), Báo cáo thực hiện đề án giải
quyết việc làm giai đoạn 2005-2010.
21. Tổng cục thống kê (2010), Niên giám thống kê 2010.
22. Trường cán bộ phụ nữ Trung ương - Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2008), Báo cáo kết quả

điều tra số liệu cơ bản về lao động nữ, tháng 9/2008.
23. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2005-2010.
24. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2005), Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005-2010.
25. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam, Mục tiêu kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ đến
năm 2010.
26. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2007), Quyết định số 359/QĐ-UBND ngày 30/3/2007 phê
duyệt đề án giải quyết việc làm cho người lao động giai đoạn 2006-2010.
27. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện đề án đào tạo nghề và
đề án giải quyết việc làm tỉnh Hà Nam giai đoạn 2006-2010 và phương hướng trong
thời gian tới.
28. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam, Quy hoạch tổng thể phát triển khu đô thị và dân cư nông
thôn của tỉnh Hà Nam đến năm 2020.

Website:
29.
30.







×