Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Đầu tư phát triển ngành thương mại Hà Nội. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.12 KB, 113 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn đổi
mới thì cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển biến, giảm tỷ trọng của các ngành
nông lâm nghiệp, tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy
có thể thấy rằng thương mại dịch vụ đóng góp một phần rất lớn đối với sự
phát triển của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Vì thế tình hình đầu tư
vào ngành thương mại là một trong những vấn đề đang rất được quan tâm
hiện nay. Do đó tôi chọn đề tài “Đầu tư phát triển ngành thương mại Hà
Nội. Thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề thực tập của mình.
Trong phạm vi chuyên đề thực tập này tôi xin nêu lên thực trạng đầu tư
vào ngành thương mại đồng thời cũng xin trình bày những ý kiến của mình về
một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả đầu tư trong
lĩnh vực thương mại tại Hà Nội.
Kết cấu chuyên đề thực tập gồm hai chương:
Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển ngành thương mại Hà Nội giai
đoạn 2005- 2008
Chương 2: Giải pháp phát triển ngành thương mại Hà Nội đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐẨU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH
THƯƠNG MẠI HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2005-2008
1.1. Các điều kiện, yếu tố tác động đến phát triển ngành thương mại Hà Nội
1.1.1. Các nhân tố tác động trực tiếp đến phát triển ngành thương mại
Hà Nội
1.1.1.1. Vị trí địa lý
Hà Nội có vị trí địa lý- chính trị quan trọng, có lợi thế đặc biệt để phát
triển thương mại so với các địa phương khác trong cả nước. Nghị quyết
15NQ/TW của Bộ chính trị ngày 15/12/2000 đã xác định Hà Nội “ là trái tim


của cả nước, đầu não chính trị- hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn
hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế ”.
Là trung tâm đầu não chính trị- hành chính quốc gia; là trung tâm lớn
về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế nên tập trung các cơ quan sứ quán nước
ngoài và các tổ chức quốc tế; có nhiều đầu mối giao thông đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ và hàng không, thuận lợi cho giao thông với bên ngoài. Cơ sở
vật chất kỹ thuật đã tạo dựng vào loại khá trong cả nước. Đó là các yếu tố
đảm bảo không chỉ cho liên kết của thị trường Hà Nội với thị trường cả nước
và thế giới, mà còn cho phép Hà Nội tiếp cận nhanh với những cơ hội thương
mại, phát huy được sức mạnh trong thu hút, điều phối và phân phối các dòng
hàng hoá và dịch vụ để phát triển thương mại ở cả thị trường trong nước và
nước ngoài, phục vụ và thúc đẩy quá trình tham gia
phân công lao động quốc tế, khu vực và hội nhập vào thị trường thế giới của
Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Là trung tâm lớn nhất ở Bắc Bộ, Hà Nội có sức hút và khả năng thúc
đẩy, lôi kéo sự phát triển thương mại của vùng đồng bằng sông Hồng và trung
du miền núi Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nhờ thị trường tiêu thụ
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lớn về hàng hoá, các ngành dịch vụ phát triển thuận lợi, mạng lưới phân phối
có khả năng liên kết chặt chẽ với các nguồn cung ứng hàng hoá trong vùng.
Trong vùng Thủ đô, Hà Nội cũng có vị trí hạt nhân là thành phố trung
tâm của vùng, đầu mối giao thông chính, trung tâm của các ngành dịch vụ nên
có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thương mại mang tầm khu vực
Đông Nam Á.
Hà Nội là trung tâm hàng đầu về khoa học- công nghệ, có điều kiện
thuận lợi thu hút đội ngũ khoa học trong và ngoài nước, trong điều kiện đó,
ngành thương mại Hà Nội cũng có nhiều thuận lợi để tăng cường trình độ
công nghệ hiện đại, đáp ứng các mục tiêu phát triển.

Với vị trí Thủ đô của đất nước, Hà Nội có đủ các điều kiện và yếu tố
thuận lợi để phát triển ngành thương mại, phát huy vai trò trung tâm giao lưu
và phân phối hàng hoá, trung tâm kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
1.1.1.2. Các yếu tố về điều kiện tự nhiên và tài nguyên
- Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù
phú. Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, dân cư đông đúc từ lâu đời, đó là
những yếu tố thuận lợi cho phát triển thương mại.
- Khí hậu Hà Nội mang đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa,
với 2 mùa chủ yếu trong năm, mùa nóng và mùa lạnh. Hàng năm Hà Nội chịu
ảnh hưởng trực tiếp của 4-5 cơn bão, bão thường trùng với mùa nước sông
Hồng lên cao có ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân và trở
ngại cho hoạt động thương mại của thành phố.
- Hiện nay diện tích đất ngoại thành chiếm 80,6%, nội thành chỉ có
19,4%. Các vùng như huyện Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm…là vùng đất có
tiềm năng lớn để phát triển kết cấu hạ tầng của ngành thương mại. Nội thành
Hà Nội, phần lớn diện tích đất đai được đánh giá là không thuận lợi cho xây
dựng do có hiện tượng tích nước ngầm, nước mặt, sụn lút, nứt đất, sạt lở, cấu
tạo nền đất yếu…Một số diện tích nội thành là vùng đất trũng lầy thụt do quá
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình đầm lầy hoá. Đó là những yếu tố hạn chế cho phát triển của ngành
thương mại, bởi làm tăng chi phí đầu tư phát triển của ngành, làm giảm hiệu
quả sử dụng quỹ đất của ngành.
- Hà Nội có đa dạng tài nguyên sinh vật, sinh thái và du lịch
Hà Nội còn có nhiều ao, hồ, đầm là vết tích của con sông Hồng trước
đây đã đi qua. Ở huyện Thanh Trì và Hoàng Mai có nhiều hồ lớn và nông,
trong đó có hồ Linh Đàm và hồ Yên Sở. Do có nhiều ao hồ, nên có tên Thanh
Trì (ao xanh). Trước khi đắp đê, sông Hồng hay đổi dòng chảy, khiến cho một
số đoạn sông bị cắt riêng ra thành hồ lớn và sâu. Tiêu biểu cho loại hồ này là

Hồ Tây. Hồ Hoàn Kiếm từng là một hồ rất rộng, nhưng thời thuộc Pháp đã bị
lấp tới hơn một nửa. Các hồ Giảng Võ, hồ Ngọc Khánh, hồ Thủ Lệ trước kia
thông nhau, nay bị lấp nhiều chỗ và bị chia cắt thành các hồ riêng biệt.
Ngoài các sông lớn như sông Hồng (đoạn đi qua Hà Nội gọi là Nhĩ Hà),
sông Đà, sông Tích, sông Đáy còn có các sông nhỏ như sông Tô Lịch, sông
Lừ, sông Sét, sông Nhuệ, v.v... Các sông này bị tình trạng lấn chiếm, đổ phế
thải hai bên bờ, cũng như bùn đất theo nước thải chảy xuống làm cho hẹp lại
và nông. Hiện Hà Nội đang thực hiện các dự án "xanh hóa" các con sông của
mình với các biện pháp như kè bờ, nạo vét, xây dựng hệ thống lọc nước thải
trước khi đổ xuống sông. Có con sông đã mất hẳn, như sông Ngọc Hà từng
chảy qua Hoàng thành.
Hà Nội có tài nguyên du lịch phong phú, đặc sắc, có nhiều thuận lợi để
phát triển ngành du lịch, nhờ vậy cũng hỗ trợ cho sự phát triển của ngành
thương mại.
1.1.1.3. Các yếu tố về con người và nguồn nhân lực
Đến năm 2008, dân số trung bình của Hà Nội là 6,1 triệu người, mật độ
dân số trung bình của Hà Nội là 2.881 người/km
2
, tỷ lệ đô thị hoá 61,3%. Đó
là những yếu tố tạo nên nhu cầu sử dụng dịch vụ để phát triển ngành thương
mại. Tuy nhiên, dân cư Hà Nội phân bố không đều giữa các lãnh thổ hành
chính và giữa các vùng sinh thái. Phân bố dân cư giữa nội và ngoại thành
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chênh lệch lớn, mật độ trung bình ở nội thành 19.163 người/km
2
, riêng quận
Hoàn Kiếm- trung tâm thương mại của thành phố có mật độ dân số là 37.265
người/km

2
, còn ở ngoại thành mật độ dân số là 1.721 người/km
2
. Điều đó gây
khó khăn cho việc phân bố cơ cấu của ngành thương mại.
Di dân cơ học không ngừng gia tăng, di dân đến Hà Nội chủ yếu là
những người ở các tỉnh lân cận, lao động phổ thông, trong đó độ tuổi lao động
hàng năm khoảng 112.000 người. Bên cạnh yếu tố tích cực bổ sung thêm lực
lượng lao động vào ngành thương mại, thì sức ép về việc bố trí địa điểm, diện
tích kinh doanh cho họ ở các chợ cũng tăng thêm.
Lao động trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 54,2% dân số. Tỷ lệ lực
lượng lao động có kỹ thuật chiếm 50,75% tổng số lao động. Chất lượng lao
động khá nhất trong cả nước. Những yếu tố đó vừa thuận lợi cho việc thu hút
lao động vào ngành thương mại, vừa tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện
chuyên nghiệp hoá và hiện đại hoá của ngành thương mại. Tuy nhiên, tỷ trọng
lao động chưa qua đào tạo còn cao, chiếm khoảng 52% số lao động, đặc biệt ở
khu vực nông thôn, số lao động không có chuyên môn kỹ thuật còn chiếm gần
82%; Hiện tượng thiếu chuyên gia đầu đàn, các nhà quản lý cấp cao…. đang
là những yếu tố gây trở ngại cho phát triển của ngành thương mại.
1.1.2. Các yếu tố trong nước và quốc tế tác động đến phát triển ngành
thương mại Hà Nội
1.1.2.1. Các yếu tố trong nước
a) Các phương hướng phát triển thành phố Hà Nội
* Quyết định số 1749/QĐ-UBND của thành phố Hà Nội ngày
31/10/2008
Quyết định đã chỉ rõ tầm nhìn Thủ đô năm 2020, những mục tiêu, quan
điểm và phương hướng phát triển đến năm 2010. Đây là yếu tố có ảnh hưởng
rất quan trọng đến sự phát triển của Ngành Thương mại Hà Nội trong thời kỳ
từ nay đến năm 2020.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tầm nhìn Thủ đô đến năm 2020: Hà Nội trở thành đô thị văn minh,
hiện đại, thành phố du lịch hấp dẫn của khu vực: phát huy tốt vai trò là trung
tâm lớn về văn hoá, khoa học- công nghệ, giáo dục, đào tạo, kinh tế và giao
dịch quốc tế của cả nước. Cùng với việc hình thành và phát triển các hành
lang kinh tế phía Bắc và Tây Bắc, Đông và Đông Bắc với các tỉnh phía nam
Trung Quốc, không gian kinh tế- xã hội của Hà Nội được mở rộng hợp lý và
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu; các vùng ven nội, vùng ngoại thành
được khai thác, khu vực đô thị Bắc sông Hồng phát triển mạnh. Dịch vụ chất
lượng cao trình độ cao đóng vai trò trọng yếu trong nền kinh tế Thủ đô. GDP
bình quân đầu người dự kiến trên 6.000USD, mức thu nhập của người dân
tăng lên khoảng 3 lần so với hiện nay. Hà Nội phấn đấu đi trước 5 năm, góp
phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp.
- Mục tiêu phát triển đến năm 2010: Thành phố đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; phát
triển kinh tế- văn hoá- xã hội toàn diện, bền vững; đẩy nhanh tiến độ xây
dựng nền tảng vật chất- kỹ thuật và văn hoá của Thủ đô XHCN giàu đẹp, văn
minh, hiện đại; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện vai trò
“đầu não chính trị- hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học,
giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế lớn của cả nước”.
- Phương hướng phát triển: Coi trọng chất lượng phát triển, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
kinh tế Thủ đô, giữ vững và mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tập
trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển
đồng bộ các loại thị trường và các định chế hỗ trợ thị trường, tăng cường tính
minh bạch, bình đẳng, dân chủ và độ mở của kinh tế Thủ đô phù hợp với các
cam kết quốc tế. Thúc đẩy xã hội hoá, tăng cường sự hợp tác, gắn kết giữa các

doanh nghiệp, các ngành, các thành phần kinh tế, tạo làn sóng đầu tư phát
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
triển mới. Đầu tư phát triển vùng ngoại thành; chủ động mở rộng và củng cố
quan hệ hợp tác giữa Hà Nội với các Tỉnh, Thành phố; phát huy vai trò trung
tâm kinh tế trình độ cao tạo động lực phát triển kinh tế- xã hội của vùng Thủ
đô, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
* Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng
bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Nghị quyết đã xác lập những nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội chủ
yếu của vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 như sau:
- Mục tiêu đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 là: Tập trung
đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội hiện đại, đáp ứng yêu cầu
phát triển thời kỳ CNH- HĐH. Phấn đấu đạt mục tiêu cơ bản trở thành vùng
công nghiệp trước năm 2020.
- Nhiệm vụ chủ yếu: Về kinh tế, đưa nhịp độ tăng GDP bình quân năm
đạt 10-11%( trong đó công nghiệp- xây dựng tăng 14,3- 15,3%, dịch vụ 10-
11%, nông- lâm- ngư nghiệp tăng 3,5- 4,0%).
Phát triển mạnh công nghiệp theo hướng công nghiệp phần mềm, thiết
bị tin học, tự động hoá ngành công nghiệp mũi nhọn; Phát triển mạnh một số
ngành công nghiệp chủ lực như: công nghiệp chế tạo máy, thép, điện tử, đóng
tàu, khai thác than, sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng cao cấp, dược phẩm,
chế biến nông- lâm- hải sản, dệt, da, may mặc, công nghiệp phụ trợ.
Tập trung phát triển các ngành thương mại. dịch vụ, du lịch để nhanh
chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hình thành các trung tâm thương
mại, khu du lịch….hiện đại, chất lượng cao, ngang tầm khu vực và quốc tế mà
hạt nhân là thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long- Quảng Ninh.
Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá nông nghiệp sinh thái sạch,

công nghệ cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; Phát triển mạnh
các làng nghề.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phát triển các tiểu vùng:
+ Tiểu vùng Bắc sông Hồng- Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hình
thành các trung tâm kinh tế lớn gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, xây
dựng khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, thành phố Móng Cái- Quảng Ninh và
các vùng sản xuất hàng hoá lớn khác là hạt nhân của vùng.
+ Tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng: Chuyển nhanh cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, chuyển đổi sang nuôi trồng các
loại thuỷ, đặc sản. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là các
làng nghề có sản phẩm tinh xảo, hình thành các khu, cụm công nghiệp vừa và
nhỏ gắn với phát triển dịch vụ, du lịch.
+ Tiểu vùng kinh tế biển và ven biển: Phát triển các ngành đóng tàu,
dầu khí, dịch vụ vận tải biển. Đẩy mạnh nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thuỷ,
hải sản. Hình thành các trung tâm thương mại, du lịch, vui chơi giải trí…
+ Hình thành và phát triển có hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế
với các tỉnh phía nam Trung Quốc, như hành lang Côn Minh( Trung Quốc)-
Lào Cai- Hà Nội- Hải Phòng và hành lang Nam Ninh( Trung Quốc)- Móng
Cái- Hạ Long- Hải Phòng- Đồ Sơn.
Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông và kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát
triển đô thị và nông thôn văn minh, hiện đại.
Từ những yếu tố trên cho thấy, các cơ hội phát triển của ngành
thương mại Hà Nội từ nay đến năm 2020 và tới năm 2030 sẽ rất thuận lợi, thể
hiện qua các mặt sau đây:
- Trước hết, cơ hội phát triển của ngành thương mại Hà Nội không chỉ
từ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội nói riêng, của Vùng Thủ
đô, mà còn là của cả Vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ với thành phố Hà Nội là hạt nhân…Một mặt, nhờ quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế sẽ mang đến nhiều hơn nhu cầu của các ngành sản xuất về
sử dụng dịch vụ phân phối chuyên nghiệp cho nghành thương mại Hà Nội ở
cả thị trường trong nước và xuất khẩu; Mặt khác, tạo nên quỹ hàng hoá có
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sức cạnh tranh cao, tạo điều kiện thuận lợi để ngành thương mại cung ứng các
dịch vụ phân phối chuyên nghiệp. Đồng thời, qua liên kết chặt chẽ với các
nhà sản xuất trong các Vùng mà ngành thương mại Hà Nội có khả năng phát
huy vai trò chỉ đạo và dẫn dắt các liên kết dọc định hướng theo nhu cầu thị
trường, hình thành chuỗi cung ứng có giá trị gia tăng cao và bền vững cho các
sản phẩm có lợi thế trong vùng, vừa thúc đẩy và tạo điều kiện để thực hiện
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng một cách bền vững, vừa tạo
nên những rào chắn hữu hiệu bảo vệ các nhà sản xuất trong vùng trước những
làn sóng hàng hoá từ thị trường thế giới thâm nhập vào vùng theo tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
- Thứ hai, cơ hội phát triển của ngành thương mại Hà Nội xuất phát từ
việc mở rộng không gian thị trường Hà Nội, với quy mô dân số của thành phố
Hà Nội khoảng 6,1 triệu người, có thu nhập và mức sống cao. Điều đó cho
thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ phân phối của dân cư ở Hà Nội nói riêng và ở
các Vùng mà thành phố Hà Nội là hạt nhân nói chung sẽ gia tăng nhanh
chóng không chỉ về số lượng, mà cả về chất lượng và trình độ của nhu cầu,
tạo nên những cơ hội thuận lợi để ngành thương mại Hà Nội phát triển nhanh
và bền vững hơn.
- Thứ ba, nhờ sự gia tăng các làn sóng thu hút đầu tư nước ngoài, phát
huy vai trò hạt nhân của Hà Nội trong hợp tác với các tỉnh trong các Vùng,
một mặt làm gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ phân phối của các ngành sản
xuất của dân cư và khách vãng lai, mặt khác tạo điều kịên thuận lợi cho quá
trình cải cách cơ cấu của ngành thương mại Hà Nội theo hướng chuyên

nghiệp hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Cũng như hệ thống giao thông và kết
cấu hạ tầng được hoàn chỉnh sẽ tạo nhiều điều kiện và địa điểm thuận lợi cho
phát triển mạng lưới các loại hình thương mại quy mô lớn và hiện đại. Quá
trình đô thị hoá nhanh chóng với việc xuất hiện nhiều khu đô thị lớn, khu
công nghiệp và khu dân cư, cũng như những dòng du lịch sẽ thúc đẩy nhu cầu
sử dụng các dịch vụ phân phối theo hướng hiện đại hoá, tạo cơ sở cho phát
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
triển thương mại hiện đại, bền vững. Các nguồn lực được thu hút theo hướng
xã hội hoá cũng tạo điều kiện để phát triển hệ thống phân phối các doanh
nghiệp thương mại Hà Nội.
Vì vậy, cần khai thác được những cơ hội phát triển theo những tác động
cụ thể của mỗi nhân tố bên trong để có định hướng đúng nhằm khai thác được
các lợi ích thương mại từ những cơ hội này cho tăng của ngành.
Bên cạnh đó, cũng thấy rõ hơn những thách thức xuất phát từ thực
trạng của ngành thương mại so với các yêu cầu phát triển ngành thương mại
Hà Nội trong những năm tới, đặc biệt là với việc thực hiện các mục tiêu về
giá trị tăng thêm của ngành thương mại trong khu vực dịch vụ, tỷ trọng
thương mại hiện đại trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ, giá trị gia
tăng của ngành thương mại trong tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu
hàng hoá, doanh số bán lẻ hàng tiêu dùng/người…Điều đó đòi hỏi sự đổi mới
cả về cơ cấu, số lượng, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của ngành trong từng
thời kỳ, cũng như bổ sung những giải pháp để vượt qua thách thức với chi phí
thấp nhất.
b) Môi trường trong nước ảnh hưởng đến xuất khẩu
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đang tạo ra những thuận
lợi và thách thức cho hoạt động xuất khẩu của Hà Nội:
- Trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta thực sự được
tham dự vào sân chơi lớn, thị trường lớn- thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn

và có được những cơ chế tự vệ hữu hiệu trong các vụ tranh chấp thương mại,
giảm thiểu các vụ kiện bán phá giá…Nếu biết khai thác thì đây sẽ là thời cơ
lớn để chúng ta mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu.
- Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền
kinh tế khu vực và thế giới, một yếu tố đặc thù thuận lợi cho phát triển xuất
khẩu của Hà Nội là xu hướng liên kết hợp tác giữa các thủ đô, thành phố lớn
trong khu vực: mạng lưới hợp tác citynet của các Thành phố Châu Á, hợp tác
giữa Hà Nội và hơn 60 thành phố và thủ đô các nước. Với vị thế Thủ đô, là
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trung tâm chính trị- kinh tế- văn hoá lớn của cả nước, Hà Nội có thể tập trung
khai thác vị thế để tạo nên môi trường đầu tư có sức hấp dẫn cao, tiếp tục thu
hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài; tạo dựng và phát triển một số ngành hàng
mũi nhọn quan trọng có hàm lượng chất xám và công nghệ cao; phát triển các
loại hình dịch vụ phục vụ trong nước và xuất khẩu( dịch vụ du lịch, dịch vụ
ngân hàng, dịch vụ tư vấn công nghệ, tư vấn pháp lý và thị trường, dịch vụ
bảo hiểm, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh…).
Môi trường chính trị, xã hội trong nước tiếp tục được duy trì ổn định;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn
thiện; những cải cách quan trọng về cơ chế, chính sách điều hành các hoạt
động kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng theo hướng
thông thoáng hơn, phù hợp hơn với những chuẩn mực quốc tế tiếp tục được
thực hiện là những điều kiện thuận lợi giúp phát huy được sức mạnh tổng hợp
của mọi thành phần kinh tế trong các hoạt động kinh tế nói chung, xuất khẩu
nói riêng.
Song bên cạnh đó, còn tồn tại những khó khăn trong nước chưa thể
khắc phục ngay làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Hà Nội như:
+ Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện rõ rệt. Năng
lực cạnh tranh quốc gia, hay chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có

sự giảm sút trong những năm gần đây.
+ Lợi thế so sánh về chi phí nhân công thấp đang giảm dần.
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu còn nhiều hạn chế.
+ Thủ tục hải quan và thuận lợi hoá xuất khẩu mặc dù đã được
cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trở thành một tác nhân quan
trọng để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
Bối cảnh kinh tế vùng mà Hà Nội là hạt nhân phát triển
Công cuộc đổi mới đã tạo cho Thủ đô thế mới, lực mới, bộ mặt mới.
Nghị quyết 54-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế- xã hội và đảm
bảo an ninh quốc phòng vùng đồng bằng sông Hồng; quyết định của Chính
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phủ triển khai xây dựng và thực hiện quy hoạch Vùng Thủ đô, tăng cường
phát triển Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ tạo điều kiện mới cho sự phát triển,
đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu rất cao đối với Thủ đô Hà Nội.
Sự hình thành và phát triển “ 2 hành lang, 1 vành đai” kinh tế giữa Việt
Nam và Trung Quốc sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Hà
Nội xây dựng được chuỗi liên kết, đồng thời dễ dàng mở rộng thị trường xuất
khẩu.
Tuy nhiên, kinh tế Hà Nội nói chung và xuất khẩu nói riêng vẫn còn
không ít những khó khăn lớn: kinh tế còn đang ở tình trạng kém phát triển và
thường xuyên chịu tác động của thị trường quốc tế, khoa học- công nghệ còn
ở trình độ thấp, tốc độ đô thị hoá mạnh ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đang gây
áp lực lớn đến sự phát triển kinh tế- xã hội của Thủ đô….
c) Môi trường trong nước ảnh hưởng đến thương mại nôi địa
- Nhận thức về vai trò của thương mại trong CNH, HĐH được nâng
cao, tạo khả năng thu hút nhiều hơn các nguồn lực cho phát triển ngành
thương mại của cả nước.
- Các chiến lược và đề tài phát triển thương mại nội địa và xuất khẩu

hàng hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của Chính phủ đang được thực hiện, trong
đó có xác lập các quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển
ngành thương mại cả nước, tạo thuận lợi cho phát triển ngành thương mại ở
các Tỉnh, Thành phố nói chung và Hà Nội nói riêng.
- Kinh tế phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao là cơ sở
kinh tế để phát triển ngành thương mại cả nước nói chung và ngành thương
mại Hà Nội nói riêng. Xu hướng tiêu dùng, đặc biệt là của thanh niên ở các
thành phố đã bắt đầu theo kịp xu hướng tiêu dùng trong khu vực. Cơ cấu dân
số trẻ, năng động, có học vấn cao với ý thức mua sắm hàng hoá thời trang, sử
dụng các dịch vụ phân phối văn minh, hiện đại như siêu thị, trung tâm thương
mại…sẽ tạo nhiều cơ hội cho sự phát triển ngành thương mại.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Một số nhà phân phối lớn trong nước đang gấp rút xây dựng và mở
rộng mạng lưới phân phối hiện đại đến các tỉnh và thành phố cả nước, tạo cơ
hội phát triển các cơ cấu hiện đại của ngành thương mại.
- Hội nhập kinh tế của Việt Nam vào khu vực và thế giới ngày càng sâu
và rộng hơn, một mặt tạo sức ép cạnh tranh buộc các ngành sản xuất phải thực
hiện và tham gia vào phân công lao động xã hội, nhờ vậy mở rộng được nhu
cầu sử dụng dịch vụ phân phối hàng hoá của các ngành sản xuất, tạo cơ sở
phát triển cho ngành thương mại nói chung và ngành thương mại Hà Nội nói
riêng với lợi thế không chỉ về dung lượng thị trường hàng hoá mà còn nhờ vị
trí phát luồng bán buôn trong vùng và trung tâm giao dịch quốc tế; Mặt khác,
tạo khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển các cơ cấu thương mại
hiện đại cho Hà Nội như các trung tâm thương mại và mua sắm lớn, đại siêu
thị, chuỗi siêu thị và cửa hàng, cửa hàng bách hóa lớn, kho bán buôn….
- Xuất khẩu hàng hoá ngày càng được các ngành kinh tế quan tâm phát
triển nên cũng tạo thêm nhiều cơ hội xuất khẩu dịch vụ phân phối cho ngành
thương mại Hà Nội.

- Sự thâm nhập của nhiều dòng hàng hóa từ thị trường thế giới vào Việt
Nam, một mặt cũng tạo nhiều cơ hội cho ngành thương mại Hà Nội tìm kiếm
được giá trị gia tăng khi tham gia cung ứng các dịch vụ phân phối những mặt
hàng hoá này trên thị trường nôi địa; mặt khác làm phong phú các nguồn cung
ứng hàng hoá, tạo thêm nguồn lực phát triển cho ngành.
- Những dòng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam với số lượng dự báo
trên 5 triệu người/năm cùng với những nhu cầu mua sắm của họ cũng tạo cơ
hội cho phát triển ngành thương mại của Hà Nội, với ưu thế là một trong
những thành phố du lịch hấp dẫn của cả nước và khu vực.
- Những dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với dự
báo gia tăng nhanh cũng sẽ tạo nhiều cơ hội phát triển cho ngành thương mại
Hà Nội khi tham gia cung ứng các dịch vụ phân phối hàng hoá nguyên liệu và
sản phẩm của đầu tư nước ngoài.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cơ sở hạ tầng trong nước phát triển nhanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi
để mở rộng lưu thông và phân phối hàng hoá của ngành thương mại Hà Nội
đến các vùng, khu vực trong cả nước và ra thị trường thế giới.
- Các ngành dịch vụ tài chính, khoa học - công nghệ, ngân hàng, bưu
chính - viễn thông, vận tải…phát triển nhanh và chất lượng hơn sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho các dòng lưu chuyển hàng hoá, nhờ vậy thúc đẩy nâng cao
năng suất lao động và giảm chi phí lưu thông, tạo giá trị gia tăng cao hơn cho
ngành thương mại Hà Nội.
- Cải cách hành chính nhà nước và vai trò, chức năng của Chính phủ
được thực hiện tốt hơn cũng sẽ tạo nhiều thuận lợi cho sự phát triển của ngành
thương mại Hà Nội.
Bên cạnh đó, những thách thức đối với sự phát triển của ngành thương
mại Hà Nội trước những cơ hội phát triển từ môi trường trong nước cũng tập
trung vào những điểm yếu của ngành, như chưa có chiến lược phát triển

ngành, cơ cấu chưa được xây dựng và phát triển hợp lý, quy mô nhỏ bé, phân
bố tự phát, trình độ chuyên nghiệp hoá và hiện đại hoá thấp, kết cấu hạ tầng
của ngành thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống thông tin trong ngành chưa được
xây dựng hoàn thiện, sự hỗ trợ của Nhà nước chưa thật tích cực và chưa có
hiệu quả…
Sức ép cạnh tranh từ quá trình mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của
Việt Nam khi đã là thành viên của tổ chức WTO ngày càng gay gắt. Sự hiện
diện của các nhà phân phối chuyên nghiệp nước ngoài sẽ tạo áp lực cạnh
tranh cho các nhà phân phối trong nước, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và các
hộ kinh doanh. Điều đó đòi hỏi lỗ lực của cả cộng đồng doanh nghiệp phân
phối trong nước, cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước.
1.1.2.2. Những yếu tố bên ngoài
a) Môi trường quốc tế ảnh hưởng đến xuất khẩu
Nền kinh tế thế giới đang có những vận động mạnh mẽ theo xu hướng
chuyển dịch từ Tây sang Đông, đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến chiến
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khu vực Châu
Á- Thái Bình Dương, từ chỗ chỉ chiếm gần 21% tỷ trọng thương mại quốc tế
vào năm 1990, đến nay đã được coi là khu vực phát triển sôi động nhất thế
giới và chiếm tới trên 30% thị phần trong xuất nhập khẩu toàn cầu. Trong đó,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đang nổi lên trở thành những quốc gia có
vị thế và tầm ảnh hưởng không nhỏ trong nền kinh tế thế giới. Nằm trong khu
vực năng động này, hoạt động ngoại thương của Việt Nam nói chung, Hà Nội
nói riêng sẽ được hưởng những ngoại ứng tích cực.
Tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2009 -2015 có nhiều khả năng sẽ
tăng (Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) và đi kèm theo đó là nhu
cầu nhập khẩu hàng hoá của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả
những quốc gia bạn hàng nhập khẩu lớn của Việt Nam, sẽ tiếp tục tăng. Đây

là yếu tố thuận lợi để các nước có hoạt động xuất khẩu trong đó có Việt Nam,
có thể đẩy mạnh công tác phát triển xuất khẩu của mình.
Tuy nhiên, những bất ổn khó lường về an ninh – chính trị - xã hội ( như
chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh) đều là những nguy cơ tiềm ẩn và
hoàn toàn có thể dẫn đến những khủng hoảng ở quy mô khu vực hay thế giới.
Nếu điều đó xảy ra sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết q xuất
nhập khẩu của Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng.
Xu hướng ký kết các Hiệp định thương mại tự do, nhất là giữa các nước
và các khu vực với nhau ( FTA, RTA…) là một thách thức lớn đối với các
nước không tham gia Hiệp định. Và ngay trong số các nước tham gia Hiệp
định thì các nền kinh tế kém phát triển hơn cũng thường phải chịu thiệt thòi
nhiều hơn.
Dưới sức ép của toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt và
ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mới tinh vi hơn, như
áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm hay các
biện pháp chống bán phá giá,…
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những yếu tố trên của tình hình thế giới trong thời gian tới sẽ có tác
động đến sự phát triển kinh tế nước ta và Hà Nội, đặc biệt là tác động tới hoạt
động xuất khẩu, đòi hỏi chúng ta phải hạn chế những tác động tiêu cực, đồng
thời tranh thủ các yếu tố thuận lợi như xu thế tăng trưởng kinh tế thế giới, gia
tăng nhập khẩu tại một số nước và khu vực để thúc đẩy xuất khẩu.
b) Môi trường quốc tế ảnh hưởng đến thương mại nội địa
Thị trường dịch vụ bán lẻ của Việt Nam được đánh giá có sức hấp dẫn
đứng thứ 3 trên thế giới, vì vậy được nhiều tập đoàn công ty thương mại bán
buôn và bán lẻ trên thế giới nhắm tới, trong đó thị trường Hà Nội với lợi thế
riêng sẽ thu hút được nhiều đối tác, điều đó vừa tạo thêm những yếu tố thuận
lợi để phát triển ngành thương mại, vừa báo hiệu những xung đột sẽ xảy ra

giữa các doanh nghiệp thương mại của Hà Nội và các nhà phân phối nước
ngoài. Cần có những định hướng về phân công và hợp tác giữa các cơ cấu này
để khai thác mặt thuận lợi và khắc phục những xung đột có thể xảy ra.
Những cam kết của Việt Nam về mở rộng thị trường dịch vụ phân phối
trong nước sẽ gia tăng những tác động của thị trường dịch vụ phân phối thế
giới đến sự phát triển của ngành thương mại Hà Nội. Đến năm2008, Việt
Nam đã mở cửa thị trường phân phối gồm cả 4 ngành (đại lý uỷ quyền, bán
buôn, bán lẻ, nhượng quyền kinh doanh) theo cam kết gia nhập WTO. Trong
năm 2009 sẽ thực hiện mở cửa hoàn toàn thị trường dịch vụ phân phối. Hiện
nay, một số tập đoàn, công ty thương mại bán buôn và bán lẻ của Đức, Pháp,
Nhật Bản… đã có mặt ở Việt Nam và ở Hà Nội. Như vậy, cùng với quá trình
thực thi các cam kết của Việt Nam, sự tham gia của các nhà phân phối bán
buôn bán lẻ hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật ,Đức, Pháp, Anh, Hà Lan và sau
là Trung Quốc, Singapore… sẽ có mặt ở Hà Nội vừa tạo cơ hội hợp tác giữa
các nhà phân phối trong nước với đối tác này, vừa cải thiện cơ cấu thương
mại hiện đại, đồng thời tạo sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trong ngành, đòi hỏi
quy hoạch phát triển ngành thương mại của Hà Nội phải phát huy được những
tác động tích cực, hạn chế được những tác động tiêu cực từ những ảnh hưởng
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nêu trên thông qua những định hướng phát triển, phân bố cơ cấu ngành và các
giải pháp phát triển thương mại trên địa bàn.
Xu hướng phát triển ngành dịch vụ phân phối của thế giới với những
đặc trưng như mức độ tập trung hơn (nổi lên các ngành thương mại lớn, hoặc
nhất thể hoá sản xuất - bán buôn – bán lẻ để tạo mạng lưới phân phối rộng
rãi), các cửa hàng nhỏ truyền thống được thay thế bằng cửa hàng bách hoá lớn
hơn, quy mô trung bình của một cửa hàng tăng lên cả về doanh thu và lao
động, mật độ phân bố cửa hàng bán lẻ giảm xuống, cửa hàng bán lẻ tham gia
vào chuỗi cửa hàng hoặc hoạt động theo kiểu nhượng quyền của các công ty

lớn hướng tới các phân đoạn chuyên biệt hơn trên thị trường; Vai trò của các
nhà bán buôn truyền thống suy giảm, nhất là trên thị trường hàng tiêu dùng
không bền, do các nhà sản xuất tự kiểm soát việc phân phối hoặc các nhà bán
lẻ mở rộng buôn bán tận gốc, nhưng vai trò của các nhà bán buôn hiện đại
tăng lên, nhất là đối với việc cung cấp trọn gói hàng tiêu dùng có giá trị cao,
hàng vật liệu và sản phẩm có số lượng lớn; Thị trường dịch vụ phân phối có
xu hướng cạnh tranh cao; Tác động của thương mại điện tử đến sự thay đổi
toàn diện lĩnh vực phân phối, đặc biệt là sự xuất hiện các cửa hàng, siêu thị ảo
hoặc giao dịch giữa các doanh nghiệp; Xu hướng cạnh tranh trong ngành để
giảm chi phí chủ yếu bằng quy mô phân phối lớn, trình độ chuyên nghiệp hoá
cao và tiêu chuẩn hoá mạng lưới phân phối…
Những xu hướng này sẽ có tác động và chi phối nhiều đến cơ cấu của
từng phân ngành cũng như đến tầm quan trọng của từng ngành trong ngành
dich vụ phân phối. Quá trình phát triển ngành thương mại Hà Nội cần được
định hướng phù hợp theo những xu hướng phát triển ngành dịch vụ phân phối
của thế giới để chủ động hội nhập vào thị trường dịch vụ phân phối toàn cầu.
Những xu hướng phát triển này cũng cho thấy rõ hơn thách thức của
ngành thương mại Hà Nội trong thời gian tới, đặc biệt là những thách thức
trong việc cải cách các nhà buôn bán truyền thống sang các doanh nghiệp bán
hàng, mạng lưới bán hàng, các nhà cung cấp dịch vụ phân phối chuyên
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp; trong việc giải quyết những xung đột giữa các doanh nghiệp thương
mại vừa và nhỏ trong nước và các tập đoàn, công ty phân phối nước ngoài;
trong việc tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho ácc nhà phân phối trên thị
trường Hà Nội; trong việc bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư vào ngành thương mại
Để làm rõ được đặc điểm của hoạt động đầu tư vào ngành thương mại,
chúng ta xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm của ngành thương mại. Sản

phẩm của ngành thương mại có sự khác biệt so với sản phẩm của ngành khác
là ở chỗ sản phẩm của ngành thương mại có tính vô hình. Tính vô hình này
được thể hiện ở chỗ khách hàng không được nhận sản phẩm thực của hoạt
động thương mại mà thường chỉ là một sự thưởng thức, trải qua. Do đó, sản
phẩm mà ngành thương mại tạo ra không thể cất giữ, trải qua. Mặt khác, sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm của ngành thương mại được diễn ra đồng thời,
không thể tách rời nhau. Chính vì có sự khác biệt về sản phẩm của ngành
thương mại so với những sản phẩm của các ngành khác nên hoạt động đầu tư
vào ngành thương mại cũng có những điểm khác biệt.
Hoạt động đầu tư vào ngành thương mại có những nét đặc trưng khác
biệt so với hoạt động đầu tư vào những ngành khác như: đầu tư xây dựng cơ
bản, đầu tư vào công nghiệp, giao thông….
Đầu tư vào ngành thương mại không làm gia tăng số lượng sản phẩm
mà chỉ làm gia tăng giá trị sản phẩm. Đây là hoạt động diễn ra sau quá trình
sản xuất sản phẩm được hoàn thành, nó giúp gia tăng những dịch khi sản
phẩm đến tay khách hàng, tạo ra những kênh lưu thông hàng hoá trên thị
trường sản phẩm.
Đầu tư vào hoạt động thương mại bao gồm hai nội dung chính là đầu tư
vào xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng ngành thương mại cũng giống như đầu tư xây
dựng cơ bản là việc bỏ vốn nhằm duy trì và tạo ra những năng lực sản xuất
mới để thu được một kết quả nào đó về phương diện kinh tế, chính trị, xã hội.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của ngành thương mại là hoạt động đầu tư xây
dựng các công trình như văn phòng, nhà ở, khách sạn, nhà hàng, các yếu tố
góp phần tạo nên hoạt động của ngành thương mại như điện, đường, điện
thoại, công nghệ thông tin…Đầu tư vào cơ sở hạ tầng của ngành thương mại
có đặc trưng là vốn đầu tư lớn, thời gian tiến hành đầu tư lâu dài, chịu ảnh

hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, mang tính rủi ro cao, thời
gian thu hồi vốn lâu dài. Ngoài ra sản phẩm xây dựng có tính chất cố định
trước, trong và sau quá trình sản xuất, giá trị lớn, chu kỳ sản xuất dài. Do đó,
vấn đề đặt ra đối với những người quản lý hoạt động đầu tư cơ sở vật chất hạ
tầng của ngành thương mại là phải lựa chọn dự án đầu tư hợp lý, có tính khả
thi cao, trong quá trình thực hiện đầu tư phải quản lý vốn đầu tư chặt chẽ,
tránh thất thoát vốn trong đầu tư, thực hiện dự án đúng tiến độ. Trong giai
đoạn vận hành kết quả đầu tư phải nâng cao năng suất dự án, rút ngắn thời
gian thu hồi vốn đầu tư, kéo dài tuổi thọ dự án, giảm thiểu những chi phí phát
sinh trong quá trình vận hành.
Đầu tư vào hoạt động kinh doanh thương mại là việc bỏ vốn vào việc
vận hành, thực hiện các dự án kinh doanh thương mại. Vốn cho hoạt động đầu
tư kinh doanh thương mại rất linh hoạt, tuỳ thuộc vào quy mô của dự án, tuỳ
thuộc vào giai đoạn của dự án, có thời điểm cần nhiều vốn, có thời điểm cần ít
vốn. Do tính linh hoạt của hoạt động đầu tư vào kinh doanh thương mại nên
công tác quản lý đầu tư cũng đòi hỏi phải linh hoạt. Vốn bỏ ra phải đúng lúc,
nhanh chóng, hợp lý, đủ về số lượng, tránh lãng phí. Việc quản lý vốn cũng
cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc và chặt chẽ để tránh tình trạng
lãng phí vốn. Giai đoạn kinh doanh thương mại là giai đoạn vận hành kết quả
đầu tư, vì vậy có thể nói hiệu quả đầu tư của giai đoạn này có ảnh hưởng rất
lớn đến hiện quả kinh tế của dự án đầu tư. Nếu giai đoạn này thực hiện không
thu được lợi nhuận lớn thì dự án không thành công.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng và đầu tư vào kinh doanh thương mại là hai
nội dung lớn trong hoạt động đầu tư vào thương mại. Ngoài ra còn một số nội
dung khác nữa như đầu tư vào nguồn nhân lực, đầu tư vào xuất nhập khẩu…
1.2. Thực trạng đầu tư vào ngành thương mại Hà Nội giai đoạn 2005-2008
1.2.1. Thực trạng huy động vốn vào ngành thương mại Hà Nội

1.2.1.1. Xét về số lượng vốn đầu tư
Trong những năm qua, tình hình đầu tư vào ngành thương mại Hà Nội
đã có những chuyển biến rất tốt, thể hiện rõ rệt thông qua sự gia tăng về vốn
đầu tư vào ngành thương mại. Vài năm gần đây ngành thương mại đã thu hút
ngày càng nhiều vốn đầu tư, qua đó, tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành thương
mại trong tổng số vốn đầu tư của toàn thành phố đã được tăng lên rõ rệt qua
các năm từ 2005 đến nay.
Bảng 1 : Vốn đầu tư vào ngành thương mại Hà Nội
2005 2006 2007 2008
Vốn đầu tư huy động( tỉ đồng) 5.927 6.750 7.305 7.979,3
Tốc độ tăng liên hoàn (%) 1,13 1,08 1,09
Nguồn: Sở Kế hoạch- Đầu tư Hà Nội
Theo thống kê của Sở Kế hoạch- Đầu tư thì vốn đầu tư của toàn ngành
sẽ còn tăng trong những năm tới. Như ta đã biết để thực hiện được các mục
tiêu phát triển thương mại, đòi hỏi phải có một số lượng lớn vốn đầu tư kể cả
vốn cố định và vốn lưu động. Vì vậy, thành phố Hà Nội cần có những chính
sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư hấp dẫn hơn nhằm thu hút đầu tư vào thành
phố mình. Muốn xác định được vốn đầu tư phải căn cứ vào giá trị tăng thêm
của GDP thương mại do đầu tư mới và tỷ trọng suất đầu tư ( hệ số ICOR).
Với những mục tiêu mà thành phố Hà Nội đã đề ra từ nay tới 2020 của ngành
thương mại thì ta có thể dự báo được lượng vốn đầu tư cần thiết cho việc phát
triển ngành thương mại. Theo dự báo, tổng vốn đầu tư của toàn ngành thương
mại từ nay đến năm 2015 sẽ vào khoảng 55.430,1 tỷ đồng.
Tuy nhiên, có một thực tế là những năm gần đây vốn đầu tư vào ngành
thương mại đã có xu hướng chững lại, tốc độ giảm dần. Điều này có thể do
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hai nguyên nhân. Một là, do sự xuất hiện của các trung tâm thương mại mới
cạnh tranh với Hà Nội về khả năng huy động vốn. Các thành phố này đã có

những chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư hấp dẫn hơn nhằm thu hút đầu
tư vào thành phố mình. Hai là, do tình hình suy thoái kinh tế và khủng hoảng
tài chính tiền tệ của các nước châu Á đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình
thu hút vốn Việt Nam nói chung và vào ngành thương mại nói riêng. Vì vậy,
nếu các cơ quan chức năng của Hà Nội không nhìn nhận vấn đề này một cách
đúng đắn thì trong những năm tới đây vốn đầu tư vào ngành thương mại còn
có xu hướng giảm.
1.2.1.2. Xét về cơ cấu nguồn vốn
Để đạt được mức tăng trưởng GDP thương mại hiện tại và hiện đại hoá
cơ sở vật chất của ngành thương mại, tổng vốn đầu tư cho hoạt động kinh
doanh và xây dựng các công trình thương mại là rất lớn, vì vậy cần huy động
vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau. Xét về cơ cấu vốn, hiện nay vốn đầu tư
vào ngành thương mại chủ yếu xuất phát từ ngân sách nhà nước, từ dân cư và
các doanh nghiệp, vốn tín dụng và các nguồn vốn khác chiếm tỉ lệ nhỏ. Xét về
tương quan giữa vốn ngân sách và ngoài ngân sách thì vốn ngân sách còn
chiếm tỉ lệ tương đối lớn, cho thấy khả năng tự vận động về vốn của ngành
thương mại còn khá hạn chế, còn trông chờ ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà
nước. Tuy nhiên cũng có những dấu hiệu khả quan là tỉ trọng vốn cấp từ ngân
sách Nhà nước hiện nay đã có xu hướng giảm một cách rõ rệt, thể hiện qua
bảng sau:
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 2: Tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành thương mại xét theo nguồn vốn
Đơn vị: %
2005 2006 2007 2008
Vốn ngân sách 45,2 42,6 39,4 37,3
Vốn tư nhân và doanh
nghiệp
30,5 33,0 31,5 32,1

Vốn tín dụng và nguồn khác 24,3 23,4 28,1 30,6
Nguồn: Sở Kế hoạch- Đầu tư Hà Nội
Từ số liệu thống kê trên đây, ta có thể nhận thấy rằng vốn từ tín dụng
và các nguồn vốn khác chiếm tỷ lệ chưa cao, cho thấy cơ chế chích sách của
thành phố chưa tạo được động lực thúc đẩy doanh nghiệp vay vốn để kinh
doanh, cơ chế cho vay còn gây nhiều khó khăn cho nhà đầu tư khiến họ chưa
tự giác vay vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh. Do vậy, quy mô đầu tư vào
các dự án của ngành thương mại không lớn. Trong tương lai các nhà hoạch
định chính sách cần có những cơ chế chính sách phù hợp để kích thích các
nhà đầu tư mở rộng kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
thương mại và tín dụng ngân hàng cũng là một trong những công cụ hữu hiệu
để thực hiện chủ trương chính sách này của thành phố.
Dự kiến đến năm 2020 ngành thương mại sẽ huy động nguồn vốn với
tương quan giữa các nguồn vốn ở mức hợp lý nhất với xu thế phát triển, tỉ lệ
vốn huy động từ ngân sách vào khoảng 32%, dân cư và doanh nghiệp 35%,
tín dụng 15%, các nguồn khác 18%. Sự điều chỉnh nguồn vốn này sẽ phần
nào định hướng tốt hơn cho sự phát triển của ngành thương mại, nâng cao tính
tự chủ của các doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư vào thương mại, hạn chế
thói quen trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp và của cả ngành thương mại Hà Nội.
1.2.1.3. Xét về cơ cấu vốn trong và ngoài nước
Ngành thương mại Hà Nội trong những năm gần đây do có sự đẩy
mạnh hợp tác kinh tế với nước ngoài nên vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh
chóng. Hà Nội hiện đang có quan hệ hợp tác với rất nhiều nước trên thế giới,
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong đó có những đối tác làm ăn lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia…, ngoài ra tạo được những quan hệ rất tốt với những quốc gia phát
triển như Mỹ, Nga, Anh, Pháp…Với những chuyển biến tốt trong quan hệ

hợp tác kinh tế đã tạo ra được những thuận lợi cho các doanh nghiệp thương
mại khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu. Với những cơ chế chính sách
kích thích đầu tư nước ngoài mà Hà Nội đã và đang tạo ra để thu hút đầu tư
nước ngoài đã làm cho lượng vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố ngày càng
gia tăng. Có thể nói đây là một yếu tố rất quan trọng trong sự phát triển của
thành phố nói chung và của ngành thương mại nói riêng. Vốn đầu tư nước
ngoài là một bộ phận quan trọng trong tổng số vốn đầu tư huy động của thành
phố. Sự gia tăng của vốn đầu tư nước ngoài kéo theo sự tăng lên của vốn đầu
tư toàn thành phố và góp phần nào đó kích thích sự các doanh nghiệp trong
nước tăng vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Tuy vốn nước ngoài đã tăng khá nhanh trong những năm qua nhưng
nhìn chung về số lượng vốn đầu tư của ngành thương mại thì ta thấy rằng tỷ
trọng yếu tố vốn nước ngoài chỉ đạt một tỷ lệ rất khiêm tốn, bình quân qua
các năm từ 2004 đến nay, vốn đầu tư trong nước chiếm tỉ lệ bình quân là
84,1% còn lại vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9%. Cụ thể như sau:
Bảng 3 : Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng số vốn đầu tư vào ngành
thương mại Hà Nội
Năm Tỷ trọng vốn đầu tư nước
ngoài(%)
2004 8
2005 9,1
2006 13,4
2007 16
2008 19,7
Nguồn: Sở Kế hoạch- Đầu tư Hà Nội
Điều này cho thấy khả năng huy động vốn nước ngoài của thành phố
vẫn chưa được khai thác một cách triệt để, tiềm năng về vốn của thành phố
vẫn còn ở phía trước. Như vậy ngành thương mại Hà Nội còn rất nhiều việc
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
23

Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải làm để khơi dậy nguồn lực đó. Song một điều quan trọng là trong khi
tiến trình hội nhập và phát triển, cần luôn luôn phải lấy nội lực làm chủ yếu,
ngoại lực chỉ là yếu tố quan trọng, không được trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn
nước ngoài, như vậy mới tạo được thế và lực cho thương mại nội địa. Như ta
vẫn biết kinh tế nước ta nói chung và thương mại Hà Nội nói riêng so với các
nước khác trên thế giới vẫn ở một trình độ kém phát triển. Nước ta do hạn chế
về công nghệ kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm quản lý, do đó nếu chúng ta
không huy động được vốn thì chúng ta rất khó tìm được đối tác nước ngoài
hợp tác đầu tư, hoặc nếu chúng ta ít vốn thì sẽ bị thua thiệt rất lớn so với
doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy chúng ta sẽ bị đánh bại ngay trên thị
trường nước nhà. Với chủ trương vốn nội lực là chủ yếu, ta sẽ giữ vững được
lợi thế nước chủ nhà và thu được lợi từ việc hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Đây là một bài học lớn trong công tác quản lý đầu tư vào ngành thương mại
Hà Nội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Tình hình sử dụng vốn đầu tư vào ngành thương mại Hà Nội
Trong những năm gần đây, đầu tư vào ngành thương mại Hà Nội có
chiều hướng ngày càng tăng so với những năm trước, chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong tổng số lượng vốn đầu tư vào Hà Nội. Do đó việc sử dụng vốn
như thế nào cũng là một vấn đề được các cơ quan chức năng quan tâm, đặc
biệt là những cơ quan quản lý vốn đầu tư thương mại. Việc quản lý việc sử
dụng vốn đầu tư thương mại nhằm đảm bảo vốn được sử dụng một cách hợp
lý nhất, đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp và cho xã hội. Xét một
cách khái quát nhất, việc sử dụng vốn đầu tư thương mại được triển khai theo
những nội dung sau:
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2.1. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành
Nội dung đầu tư vào cơ sở vật chất kĩ thuật của ngành thương mại bao

gồm đầu tư vào xây dựng mới cơ sở vật chất của ngành như chợ, khách sạn,
các văn phòng, văn phòng cho thuê, sửa chữa tái tạo cơ sở vật chất đã có,
mua sắm trang thiết bị của ngành…
Trong những năm từ 2004 đến nay, ngành thương mại đã rất chú trọng
công tác đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành nhằm tạo nên một diện
mạo mới cho ngành thương mại, xây dựng và phát triển ngành thương mại
theo hướng một ngành thương mại hiện đại, văn minh, thu hút đầu tư trong và
ngoài nước. Nhìn một cách tổng quát, đầu tư vào cơ sở vật chất của ngành từ
năm 2004 luôn có xu hướng gia tăng, điều này chứng tỏ rằng ngành đã dành
một sự quan tâm lớn cho nội dung đầu tư này. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số vốn đầu tư sử dụng của toàn
ngành ( trung bình khoảng 40- 45%).
Trên thực tế khoảng 30% vốn đầu tư vào cơ sở vật chất của ngành
thương mại dành cho việc sửa chữa, tái tạo những cơ sở vật chất sẵn có; còn
lại 70% dành để xây dựng mới. Ta thấy tỷ lệ này là chưa hợp lý, nó phản ánh
một thực tế rằng cơ sở vật chất của ngành được xây dựng với một chất lượng
không cao, sau một vài năm đưa vào sử dụng thì phải sửa chữa, thay thế, gây
ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh thương mại, tốn kém về thời gian và
chi phí; Hoặc cũng có thể khi xây dựng cơ sở vật chất thì chưa tính toán đến
yếu tố hao mòn vô hình của tài sản nên khi tuổi thọ của sản phẩm chưa hết thì
tài sản đã trở nên lỗi thời, không đảm bảo yếu tố cạnh tranh của ngành, vì vậy
phải đầu tư thêm để nâng cấp, sửa chữa. Đây là một thực tế đang diễn ra trong
hoạt động đầu tư vào cơ sở vật chất của ngành thường mại trong những năm
gần đây. Nó phản ánh hiệu quả đầu tư không cao, chất lượng của các công
trình cần được xem xét lại nhằm giảm thiểu một cách tối đa những chi phí
phát sinh trong quá trình đầu tư. Vốn đầu tư dành để sửa chữa, thay thế chỉ
nên dừng ở mức 14- 16% là hợp lý, nhằm đạt được hiệu quả đầu tư cao.
Hoàng Thị Thu Hương Lớp: Đầu tư 47D
25

×