Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tư tưởng giải thoát của phật giáo việt nam thời trần luận văn ths triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.38 KB, 86 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


[


TRẦN THỊ THU HIỀN


TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA
PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRẦN

Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 03 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học
: GS.TS. NGUYỄN HÙNG HẬU



Hà Nội – 2014
LỜI CẢM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng


dẫn khoa học của GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu.
Luận văn đảm bảo tính khách quan khoa học với những tư liệu chính xác, rõ ràng.



Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn


TRẦN THỊ THU HIỀN
LỜI CẢM ƠN
Chân trọng cảm ơn các thầy cô đã giúp em trong quá trình học tập và hướng
dẫn hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn các trung tâm tư liệu, thư viện đã cung
cấp những tài liệu, sách báo, tạo điều kiện giúp tôi nghiên cứu để hoàn thành tốt
khóa luận.
Em cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc tới thầy hướng dẫn là GS.TS. Nguyễn Hùng
Hậu và cô giáo chủ nhiệm là TS. Trần Thị Hạnh đã giúp đỡ em trong quá trình thực
hiện luận văn.
Con xin cảm ơn cha mẹ đã luôn tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất cho con trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn các Phật tử trong đạo tràng chùa Quán Sứ, chùa Lý Quốc Sư, chùa
Hương Thể (Hà Nội), chùa Bách Lẫm, chùa Ngọc Am (Yên Bái) đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi hiểu rõ hơn về Phật giáo và những sinh hoạt tín ngưỡng của Phật giáo.
Đồng thời giúp tôi tham gia các lớp học, các khóa tu ngắn ngày để phục vụ cho
công việc nghiên cứu, hoàn thành tốt luận văn.
Xin chân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên



Trần Thị Thu Hiền

MỤC LỤC
LỜI CẢM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 7
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA PHẬT GIÁO
VIỆT NAM THỜI TRẦN 7
1.1. Một vài nét về Phật giáo và tư tưởng giải thoát trong Phật giáo 7
1.1.1. Một vài nét về Phật giáo 7
1.1.2. Tư tưởng giải thoát của Phật giáo và vị trí của nó trong giáo lý Phật giáo
20
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt Nam thời Trần. 25
1.2.1. Cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội để hình thành tư tưởng giải thoát Phật
giáo Việt Nam thời Trần. 25
1.2.2 Cơ sở văn hóa, tư tưởng hình thành tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt
Nam thời Trần 29
Tổng kết chương 1: 32
Chương 2: NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA PHẬT
GIÁO VIỆT NAM THỜI TRẦN 33
2.1. Nội dung tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt Nam thời Trần 33
2.1.1. Chủ thể, phương tiện, cách thức giải thoát 33
2.1.2. Mục đích của giải thoát 47
2.2. Đặc điểm tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt Nam thời Trần. 48
2.2.1. Giải thoát là gắn liền với tư tưởng nhập thế cứu đời, không xa rời cuộc
sống. 48
2.2.2. Giải thoát gắn liền với cứu nước, cứu dân, đánh đuổi quân xâm lược,
giải phóng dân tộc. 62
2.2.3. Giải thoát gắn liền với ổn định trật tự xã hội và phát triển đất nước. 71

Tổng kết chương 2 74
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kiếp nhân sinh nỗi khổ dường như là một tất yếu đối với cuộc sống
con người. Nhưng mỗi con người lại chịu những nỗi khổ khác nhau do điều kiện và
môi trường xã hội, hoàn cảnh sống khác nhau. Đức Phật sau khi trải nghiệm cuộc
sống cùng với quá trình tu luyện tâm linh, Phật đã giác ngộ rồi kết luận “đời là bể
khổ” và “nước mắt chúng sinh trong ba ngàn thế giới chứa tích lại còn nhiều hơn
nước ngoài bốn bể”. Nỗi khổ của con người thì hằng hà sa số, nhiều hơn cả cát
sông Hằng. Nỗi khổ của con người cũng muôn hình vạn trạng với nhiều hình thức
khác nhau, nhưng được Phật tóm lược dưới 8 nỗi khổ cơ bản như “ái thụ biệt ly
khổ - yêu thương mà phải xa cách; oán tăng hội khổ - ghét mà phải gần nhau; sở
cầu bất đắc khổ - mong muốn mà không đạt được; thụ ngũ uẩn khổ - khổ vì sự tồn
tại của thân xác; Sinh khổ; Lão khổ; Bệnh khổ; Tử khổ”. Đây là 8 nỗi khổ tất yếu
theo quy luật của cuộc đời con người mà ai cũng phải trải qua, để trải nghiệm và
thấu hiểu cuộc sống. Ngoài những nỗi khổ trên, con người còn phải chịu bao nỗi
khổ như đói, rét, nóng bức, giặc giã, hỏa hoạn, cướp bóc, tù ngục, ưu sầu, khổ não,
lo lắng, bức bách trong trong thân và tâm cùng biết bao nỗi khổ khác trong cuộc
đấu tranh sinh tồn, phát triển.
Các quốc gia dân tộc trên thế giới muốn đi tới sự phát triển và khẳng định
nền độc lập dân tộc mình đã phải đấu tranh và chịu hy sinh biết bao xương máu,
khiến nỗi khổ con người dường như là một tất yếu của cuộc sống. Nên giải thoát
trở thành một nhu cầu và khát vọng lớn của con người cũng như của các quốc gia
dân tộc trên thế giới để đi tới tự do, hạnh phúc.

Để giải thoát con người đã sử dụng rất nhiều phương cách khác nhau, nhưng
tựu chung lại có hai khuynh hướng cơ bản : Khuynh hướng thứ nhất là đấu tranh
hướng ngoại với việc trống lại mọi áp bức, bất công trong xã hội, cải tạo thực tiễn,
chinh phục tự nhiên, tự giải thoát mình khỏi chính những trói buộc, rào cản trong
hiện thực cuộc sống để đi tới sự phát triển. Khuynh hướng thứ hai là hướng nội,
quay về trực diện bản tâm, với quá trình thực nghiệm tâm linh và trau dồi đạo đức,
2
trí tuệ đi tới sự giải thoát. Tuy nhiên dù theo khuynh hướng nào thì cũng đòi hỏi
con người luôn phải cố gắng nỗ lực hết mình mới đi tới sự giải thoát. Do môi
trường sống với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, cùng với nhân tố chủ quan
và yếu tố khách quan khác nhau mà con đường giải thoát của mỗi con người, mỗi
quốc gia dân tộc lại có sự khác nhau. Chính sự khác biệt đó đã tạo nên những đặc
thù riêng biệt trong mỗi cá nhân con người cũng như mỗi quốc gia dân tộc và thậm
trí trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử xã hội cũng có sự khác nhau.
Nhìn lại chặng đường phát triển của lịch sử Việt Nam, đó là chặng đường
dài với những trang sử hào hùng vẻ vang, nhưng cũng đầy gian khổ trong những
cuộc chiến tranh xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước. Tuy nhiên người Việt Nam
với ý chí, nghị lực, bản lĩnh phi thường, đã không ngừng nỗ lực đấu tranh để giải thoát
mình, giải phóng dân tộc khỏi mọi khổ đau của những ách áp bức, bóc lột nô dịch của
các thế lực ngoại xâm để tiến tới sự phát triển. Thời đại nhà Trần chính là một minh
chứng điển hình tiêu biểu.
Giai đoạn nhà Trần, đây là giai đoạn đã để lại trong lịch sử dân tộc một thời
kỳ vàng son với những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát
triển đất nước. Triều đại nhà Trần, một giai đoạn có khá nhiều những biến động
trong lịch sử với những bước ngoặt mang tính đột phá, điều này thể hiện ngay cả
trong sự ra đời của nhà Trần và sự chuyển giao quyền lực chính trị giữa hai tộc
quyền Lý - Trần. Rồi những thắng lợi vĩ đại trong lịch sử, ba lần đánh thắng quân
Nguyên Mông và các thế lực xâm lược, đã khiến tinh thần Đông A hừng hực khí
thế, đưa dân tộc bước vào một kỷ nguyên mới của độc lập tự chủ phát triển. Không
những thế vua quan nhà Trần không chỉ là “Vua minh, binh hùng tướng mạnh” oai

phong lẫm liệt nơi sa trường mà còn là những nhà tư tưởng tiêu biểu, dũng cảm
trong con đường tu thân, tu đạo để vượt sông mê, bể khổ đi tới bến bờ của sự giác
ngộ chân lý, giải thoát sự khổ đau cho con người trong kiếp sống nhân sinh, có giá
trị lớn với tư tưởng dân tộc.
Vậy yếu tố cơ bản nào đã tạo nên thời kỳ hoàng kim cho triều đại nhà Trần
và đưa một đất nước nhỏ bé nhưng có thể làm nên những kỳ tích lớn lao với những
3
thắng lợi vĩ đại như vậy ? Dưới thời Trần, với sự kế thừa những giá trị văn hóa tư
tưởng của triều đại Lý, Phật giáo thời kỳ này phát triển rất mạnh và đóng vai trò
quan trọng trong đời sống tinh thần xã hội. Phải chăng đây chính là hệ tư tưởng có
sự ảnh lớn tới sự phát triển của quốc gia dân tộc và tạo nên sức mạnh khổng lồ cho
dân tộc trong cuộc kháng chiến cứu nước. Dưới thời đại nhà Trần, các vua Trần
cũng chính là những thiền sư lỗi lạc và là những vị vua anh minh nên đã lãnh đạo
được quân và dân tạo nên những thắng lợi vĩ đại cho lịch sử dân tộc. Không những
thế hình ảnh các vua quan nhà Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần
Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Pháp Loa, Huyền Quang, Trần Hưng Đạo
còn trở thành những tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau về con đường tu thân,
tu đạo và phát huy vai trò của mình trong việc cải tạo xã hội, bảo vệ và xây dựng
phát triển đất nước.
Với ý nghĩa đó đề tài muốn đi sâu vào nghiên cứu và làm rõ những giá trị tư
tưởng Phật giáo Việt Nam thời Trần cùng sự ảnh hưởng của nó tới đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội; đặc biệt là tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt Nam nhà
Trần qua các nhân vật lịch sử như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Trần Nhân
Tông, Pháp Loa, Huyền Quang cùng với sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,
để thấy được những giá trị nhân văn và những tư tưởng tiến bộ trong đó. Qua đó giúp
con người nâng cao nhận thức và vận dụng trong thực tiễn cuộc sống. Ngoài ra góp
phần bổ sung thêm những tri thức mới vào kho tàng văn hóa Việt Nam. Trở thành tài
liệu tham khảo cho giảng dạy và cho các công trình nghiên cứu khoa học tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Triều đại nhà Trần, Phật giáo có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp bảo

vệ, xây dựng, phát triển đất nước thời bấy giờ. Nói tới Phật giáo thời Trần cũng đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học. Tựu chung lại tác giả tạm chia thành
bốn nhóm:
Nhóm thứ nhất nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thời Trần dưới góc độ lịch
sử, gồm có: “Việt Nam Phật Giáo Sử Lược” của tác giả Thích Mật Thể (Tổng hội
tăng ni Bắc Việt, Hà Nội, 1942); “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Tài
Thư(Nxb. Khoa học xã hội, 1988); “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn
Lang(Nxb. Văn học, Hà Nội, 1992) “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thích Minh
4
Tuệ(Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí Minh, 1993); “Lịch sử Phật giáo Việt Nam của
Lê Mạnh Thát(Nxb Thuận hóa, Huế, 1999); “Thuyết Trần- Sử nhà Trần” của Trần
Xuân Sinh(Nxb Hải Phòng, 2006) Các công trình này chủ yếu nghiên cứu Phật
giáo thời Trần dưới góc độ lịch sử trong sự hình thành và phát triển của Phật giáo
Việt Nam.
Nhóm thứ hai nghiên cứu Phật giáo thời Trần dưới góc độ tôn giáo bao gồm
các tác phẩm như “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh(Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1999); “Thiền học đời Trần” của nhóm tác giả Thích Thanh Từ,
HT.Thích Minh Tuệ, TT Thích Phước Sơn, Minh Chi, Trần Lê Nghĩa, Nguyễn Thế
Đăng, Ngô Văn Lệ (Nxb Tôn giáo, Hà Nội) Các tác phẩm này đi sâu vào nghiên cứu,
phân tích những tư tưởng Phật giáo thời Trần trên lập trường tôn giáo.
Nhóm thứ ba nghiên cứu Phật giáo thời Trần dưới góc độ triết học như tác
phẩm “Lịch sử triết học” của GS, TS Nguyễn Hữu Vui( Nxb Chính trị Quốc Gia
HN, 2004; “Đại cương lịch sử triết học Việt Nam” của GS, TS Nguyễn Hùng
Hậu(Nxb.Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2010) Cùng với rất nhiều các tác phẩm, các
bài báo và các công trình nghiên cứu khoa học khác của nhiều tác giả được in ấn và
đăng trên các tạp chí Tôn giáo, Triết học cũng đề cập tới tư tưởng Phật giáo thời
Trần. Những công trình này đã nêu ra được những vấn đề mang tính triết học trong tư
tưởng của Phật giáo Việt Nam thời Trần cùng vai trò, sự ảnh hưởng của nó trong sự
phát triển xã hội thời bấy giờ.
Nhóm thứ tư nghiên cứu Phật giáo thời Trần thông qua tư tưởng của các

thiền sư, các nhân vật lịch sử như “Tam Tổ Trúc Lâm” của HT Thích Thanh
Từ(Giáo hội Phật giáo Việt Nam Ban Văn Hóa TW, Nxb Thiền viện Thường Chiếu,
1997); “Khóa Hư Lục”. Trần Thái Tông, Dịch giả. Thích Thanh Kiểm. Nxb, Thành
Hội Phật Giáo Tp. Hồ Chí Minh. 1997; “Toàn tập Trần Nhân Tông”, Viện nghiên
cứu Phật hoc Việt Nam - Lê Mạnh Thát, (Nxb Phương Đông 2010). Các tác phẩm
này đã làm rõ được những giá trị tư tưởng của các thiền sư, các nhân vật lịch sử
cùng sự đóng góp của vai trò cá nhân của họ trong sự vận động, phát triển xã hội và
tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên về tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt Nam thời Trần vẫn là
một mảng trống. Vì vậy tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu và làm rõ những tư tưởng giải
5
thoát của Phật giáo Việt Nam thời Trần để thấy được vai trò và sự ảnh hưởng của
nó trong đời sống tinh thần xã hội lúc bấy giờ, sự tác động của nó trong hệ tư tưởng
văn hóa Việt Nam. Sự đóng góp của Phật giáo đối với phát triển của đất nước trong
các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam. Qua đó chỉ ra được những giá
trị tinh hoa trong tư tưởng giải thoát của Phật giáo của Việt Nam thời Trần, giúp có
một cái nhìn mới về Phật giáo Việt Nam, và có thể vận dụng trong thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng giải thoát của Phật giáo Việt Nam thời Trần.
- Phạm vi nghiên cứu : Luận văn đi vào một khía cạnh của Phật giáo Việt
Nam thời Trần đó là tư tưởng giải thoát thông qua cuộc đời, sự nghiệp cùng các tác
phẩm thơ văn thời Trần của các tác giả như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ
Trung Thượng Sỹ, Pháp Loa, Huyền Quang.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích nội dung tư tưởng giải thoát của Phật giáo
Việt Nam thời Trần
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Cơ sở hình thành tư tưởng giải thoát Phật giáo Việt Nam thời Trần.
+ Nội dung tư tưởng giải thoát Phật giáo Việt Nam thời Trần, giá trị lý luận của
tư tưởng giải thoát Phật giáo thời Trần với thực tiễn.

5. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Cơ sở lý luận:
+ Cơ sở lý luận của luận văn là trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Những luận giải của các nhà nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
- Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên sự khảo sát những tư liệu lịch sử, các
công trình nghiên cứu khoa học về thời Trần cùng văn hóa Phật giáo Việt Nam và
thơ văn thời Trần.
6. Phương pháp nghiên cứu
-Về phương pháp luận chung: Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
-Về phương pháp cụ thể bao gồm có :
+ Phương pháp lịch sử cụ thể.
6
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp.
+ Phương pháp văn bản học, các tư liệu lịch sử.
+ Phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học.
+ Phương pháp logic – lịch sử.
+ Phương pháp khái quát hóa – trừu tượng hóa.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học và
các công trình nghiên cứu tôn giáo học, góp phần trang bị thế giới quan khoa học
cho sự nhận thức và vận dụng trong thực tiễn của con người.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu nghiên cứu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 2 chương 4 tiết.
7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA
PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI TRẦN


1
.1. Một vài nét về Phật giáo và tư tưởng giải thoát trong Phật giáo
1.1.1. Một vài nét về Phật giáo
a, Sự ra đời và phát triển của Phật giáo
Phật giáo đã ra đời vào thế kỷ VI tr.CN ở miền Đông Bắc Ấn Độ. Người sáng lập
Phật giáo là Buddha (Theo tiếng Trung Quốc Buddha nghĩa là Phật, là đấng “giác ngộ”.
Buddha là một thái tử, tên Tất Đạt Đa, con trai của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), dòng họ
Sakya, vua một nước nhỏ ở Bắc Ấn Độ, có kinh đô là thành Ca tì la vệ(Kapilavatha), nằm
ven sông Hằng (Ganga), nay thuộc Nêpan.
Đức Phật sinh ngày 8 tháng 4 khoảng năm 624 TrCN. Khi Phật đản sinh, với
những nét thiên phú đặc biệt, Đức Phật đã được một nhà hiền triết dự đoán sau này sẽ trở
thành một đức vua tài ba, thống lĩnh thiên hạ, hoặc trở thành một đấng Chuyển Luân
Pháp Vương, một vĩ nhân- thầy của Trời, người để giúp cứu nhân loại thoát ra khỏi sự
khổ đau. Với mong muốn con trai sau này thừa kế ngai vàng, nối tiếp dòng họ Sakya
hùng mạnh, vua cha đã tạo ra một cuộc sống cực kỳ sa hoa tráng lệ cho hoàng tử.
Năm 19 tuổi hoàng tử Siddharta cưới vợ và có một con trai. Tuy nhiên
sau những chuyến giã ngoại ngoài thành và chứng kiến những cảnh khổ bởi
Sinh – Lão - Bệnh - Tử của con người, hoàng tử Siddharta đã rất buồn rầu và
suy tư, mặc tưởng về cuộc đời con người. Năm 29 tuổi, hoàng tử Siddharta đã bỏ gia
đình đi tu vì muốn tìm cách giải thoát nhân loại khỏi sự khổ đau trong vòng luân hồi.
Sau 6 năm đi tìm chân lý cùng lối tu tập ép xác khổ hạnh, thiền định chiêm nghiệm tâm
linh, Đức Phật đã thành đạo dưới gốc cây Bồ đề khi 35 tuổi.
Khi đã “giác ngộ”, Ngài lấy hiệu là Buddha(Phật). Ngài còn được người gọi
là Sakyamuni (TQ- Thích Ca Mâu Ni), có nghĩa là “nhà hiền triết của xứ Sakya” và
truyền bá tư tưởng Phật giáo đi khắp nơi nhằm giúp con người giác ngộ. Sau 45
năm truyền đạo, Đức Phật đã nhập Niết bàn ở tuổi 80.
8
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, các đệ tử của Phật đã tiếp tục phát triển tư
tưởng của Phật, quy tụ và khái quát những tư tưởng của Phật trên cơ sở những bài
thuyết pháp và tổ chức hội nghị kiết tập để xây dựng lên những giáo lý Phật giáo,

thông qua một hệ thống các Kinh tạng, Luật, Luận, tạo nền móng vững chắc cho
Đạo Phật, đưa Đạo Phật trở thành một hệ thống tôn giáo – triết học lớn, có ảnh
hưởng to lớn ở Ấn Độ, và từ đó lan ra khắp các quốc gia, khu vực trên của thế giới.
Khi du nhập vào các quốc gia, khu vực khác nhau, Phật giáo được chia thành
nhiều tông phái với những hình thức tu tập khác nhau, trong đó có ba tông phái cơ
bản là Tịnh độ tông, Mật tông, Thiền tông.
Đạo Phật cũng được chia thành hai trường phái : Tiểu thừa và Đại thừa:
Phái Tiểu thừa, theo Phật giáo đó là cỗ xe nhỏ, thực hiện hình thức tu tập,
giải thoát theo Phật giáo nguyên thủy, mang tính cá nhân.
Phái Đại thừa, là ‘cỗ xe lớn’, với lối tu tập, giải thoát mang tính đại chúng và
có sự cải biến. Phái Đại thừa chủ chương cứu mình, cứu người dựa trên tư tưởng tha
nhân “từ bi, cứu khổ, cứu nạn, phổ độ chúng sinh”, dưới sự tương hỗ trợ lực lẫn
nhau giữa hàng ngũ tăng ni Phật tử và các tín đồ, cùng với tha lực, sự gia hộ của
Phật, các thiên nhân, nhờ hình thức tu tập tụng kinh, niệm Phật, ăn chay, giữ giới.
Tư tưởng Phật giáo được thể hiện trong những quan điểm về thế giới quan và
nhân sinh quan. Trong đó chủ yếu đề cập tới vấn đề nhân sinh quan khi đi sâu vào
lý giải về cuộc đời con người cùng những nguyên nhân nỗi khổ trong cuộc đời con
người, qua đó chỉ ra con đường cách thức diệt khổ, giúp con người có được sự an
lạc trong cuộc sống. Với những tư tưởng mang đậm tính nhân văn sâu sắc, Phật giáo
ngày càng phát triển và có sự ảnh hưởng lớn tới con người và các quốc gia, khu vực
trên thế giới, trở thành một tôn giáo lớn của thế giới.
b, Nội dung tư tưởng Phật giáo
Tư tưởng của Phật giáo được thể hiện trong hệ thống kinh điển đồ sộ, gồm
ba bộ phận gọi là Tripitaka (Tam tạng) bao gồm:
 Kinh tạng (Sutra) là những lời Đức Phật thuyết pháp được ghi chép lại
 Luật tạng(Vinaya) là các giới luật mà giáo đoàn Phật giáo phải tuân theo
9
 Luận tạng(Sastra), là các tác phẩm luận giải các vấn đề Phật giáo của các
cao tăng, học giả.
Về thê giới quan, Phật giáo quan niệm bản chất sự tồn tại của thế giới là “vô

thường” trong sự biến chuyển liên tục, con người và vạn vật cũng thường xuyên
biến đổi. Thế giới sự vật hiện tượng luôn trong một chu trình biến hóa không ngừng
Sinh - Trụ - Dị - Diệt đối với các pháp hữu tình và Thành – Trụ - Hoại – Không đối
với các pháp vô tình.
Phật giáo đã xây dựng nên thuyết “nhân duyên” để giải thích mối liên hệ
nhân quả của thế giới tự nhiên trong sự vận động biến hóa liên tục. Nhờ có “duyên”
mà cái “nhân” mới sinh ra “quả”; “quả” lại do duyên mà tạo ra “nhân” khác; “nhân”
lại nhờ cái “duyên” mới sinh ra “quả” mới. Cứ như vậy, quá trình tương tác nhân –
quả nối tiếp nhau vô cùng vô tận. Con người và mọi sự vật hiện tượng của thế giới
vật chất đều nằm trong mối liên hệ nhân quả, nhân duyên, trong quy luật sinh tử
luân hồi theo nghiệp báo cảm chiêu, tất cả đều vô thường, vô ngã và vận động biến
đổi liên tục trong dòng chảy tương tục không ngừng nghỉ của vũ trụ.
Về nhân sinh quan, Phật giáo còn cho rằng con người và vạn vật đều được
cấu tạo bởi các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Danh và Sắc được chia
làm 5 yếu tố (gọi là Ngũ uẩn) là:
1. Sắc (Vật chất)
2. Thụ (tri giác)
3. Tưởng (suy nghĩ)
4. Hành (ý muốn thúc đẩy hành động)
5. Thức (ý thức, sự nhận thức)
Nhưng Danh và Sắc chỉ hội tụ với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại
chuyển sang trạng thái khác.
Phật giáo bác bỏ Braham và Atman nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân hồi
(samsara) và nghiệp (karma) của Upanishad: mọi sự vật mất đi ở chỗ này là để sinh
ra ở chỗ khác, quá trình thác sinh luân hồi đó do nghiệp chi phối theo nhân quả.
Ngay chính bản thân con người cũng nằm trong quy luật nhân quả và do nhân
duyên kết hợp mà thành. Nó được cấu thành bởi hai thành phần: thể xác và tinh
10
thần. Thể xác là do sự hợp thành bởi “địa - thủy - hỏa - phong – không”. Linh hồn
hay tinh thần con người là sự sự hợp nhất của “Sắc, thụ, tưởng, hành, thức” dẫn tới

hình thành các yếu tố thất tình lục dục “hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố” trong trạng thái tâm lý
với cảm giác hạnh phúc hay đau khổ, vui, buồn, giận hờn, tức giận, ai oán, do tâm
chịu tác động ngoại cảnh. Hai thành phần ấy là kết quả của tan - hợp, hợp - tan từ
Ngũ uẩn, nên nó cũng vô thường, chỉ là ảo ảnh, phù du.
Với quan điểm cuộc đời con người là kiếp sống nhân sinh đầy đau khổ ‘đời
là bể khổ’, Đức Phật nói “Nước mắt chúng sinh trong ba ngàn thế giới, tích lại còn
nhiều hơn nước ngoài bốn bể"
Để lý giải cuộc đời con người và nổi khổ con người, Đức Phật đã đề ra Tứ
Diệu Đế, đó là bốn chân lý tuyệt diệu về cuộc sống con người, bao gồm: Khổ Đế;
Nhân Đế; Diệt Đế; Đạo Đế.
Khổ đế: là các nỗi khổ của con người phải ghánh chịu. Theo quan điểm của
Phật giáo, con người sinh ra đã khổ và cuộc sống con người là khổ. Nỗi khổ của con
người được tóm lược trong “bát khổ” - là 8 nỗi khổ cơ bản mà con người phải
ghánh chịu. Ngoài bốn nỗi khổ theo chu kỳ của đời người là Sinh – Lão – Bệnh –
Tử của quy luật tự nhiên, con người còn phải chịu thêm bốn nỗi khổ khác như:
 Ái thụ biệt ly: yêu thương mà chia lìa, xa cách, biệt ly.
 Oán tăng hội khổ: Ghét nhau mà phải sống gần nhau.
 Sở cầu bất đắc: mong muốn mà không đạt được.
 Thụ ngũ uẩn: khổ về sự tồn tại thân tâm.
Nhân Đế ( Samudaya-satya), còn gọi là Tập đế với 12 nhân duyên gây
nên nỗi khổ con người. Phật giáo lý giải nguồn gốc nỗi khổ của con người xuất
phát từ Vô minh là sự ngu muội, si mê, ám độn do không hiểu rõ chân lý, chấp
vào danh sắc, bám chấp vào sự sống và thân xác, dẫn tới sự ham muốn dục vọng,
làm khởi hành 12 nhân duyên “Duyên Hành, duyên Thức, duyên Danh – Sắc,
duyên Lục nhập, duyên Xúc, duyên Thụ, duyên Ái, duyên Thủ, duyên Hữu,
duyên Sinh, duyên Lão- Tử”. Khiến tạo cơ duyên cho sinh - trụ - dị - diệt, gây
11
nên những nỗi khổ cho con người và khiến con người chịu khổ đau trong lục đạo
luân hồi.
Để giúp chúng sinh giải thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ, Phật đã đề ra

thuyết Diệt đế, Đạo đế nhằm chỉ ra cách thức, biện pháp để diệt trừ sự đau khổ của
con người trên cơ sở thực hành Bát chính đạo.
Diệt đế là con đường diệt trừ nỗi khổ thông qua Bát chính đạo – tức là 8 phương
thức tu tập hành trì đạo đức, khai mở tâm linh để diệt khổ, đi tới sự giải thoát.
Phương pháp tu tập để giải thoát ra khỏi luân hồi có nhiều cách trong đó chủ
yếu dựa trên việc thực hành bát chính đạo. “Bát chánh đạo” là tám điều chân chính
phù hợp với chân lý để diệt khổ, tiến tới giải thoát đạt tới Niết bàn, bước trên con
đường an vui, tự tại, và đó cũng chính là phương tiện giải thoát, bao gồm:
- Chính kiến: Nhận thức đúng, sáng suốt, giữ vững chủ kiến.
- Chính tư duy: là sự suy ngẫm, tư duy chân chính, đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, sống nhân nghĩa và
tránh làm các nghiệp ác như sát sinh, buôn bán nô lệ, vũ khí, độc dược và thuốc
phiện gây hại cho con người.
- Chính tinh tiến: Phải siêng năng học tập, làm việc có ích, có ý thức vươn
lên để đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn hướng về đạo lý chân chính. Thường xuyên niệm Phật
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị
thoái chí, lay chuyển trước mọi cám dỗ. Thực hành thiền định để trí tuệ sáng suốt,
không bị vọng động bởi dục vọng và duyên trần cám dỗ, thân tâm thanh thản, an lạc
đạt tới giác ngộ.
Bát chính đạo còn được gọi là tam học “ Giới - Định - Tuệ”.
Giới là giới luật của Phật đưa ra để giúp con người giữ gìn được tư tưởng,
đạo đức, phẩm hạnh trong sạch trong thân, khẩu, nghiệp ý và cũng là cách thức tu
tập để đạt tới cảnh giới Niết bàn.
12
Định là sự an định nơi thân tâm con người trên cơ sở thiền định và tu hành
bát chính đạo, giúp tâm hồn con người trở nên thanh tịnh, trong sáng, thanh cao, từ
đó khai mở được trí tuệ và cảnh giới tâm linh. Định còn là sự tập chung tư tưởng

cao độ, giúp phát huy trí tuệ, tư duy còn người, làm nảy sinh tuệ giác và sự sáng tạo.
Tuệ là tuệ giác, là trí tuệ con người được phát sinh từ sự tập chung tư tưởng
và quá trình tu tập thiền định, hành trì bát chính đạo. Tuệ gồm có chính kiến, chính
tư duy, chính tinh tiến.
Ngoài ra do nỗi khổ của con người xuất phát từ đời sống vật chất và tinh
thần, nên Phật giáo còn chủ trương diệt nỗi khổ vật chất, sinh lý bằng con đường tuệ
giác; diệt nỗi khổ tinh thần, tâm lý bằng con đường đạo đức với “tứ vô lượng tâm”
(từ, bi, hỷ, xả) và “ngũ giới”, “thập thiện” để tránh ba nghiệp ác của thân, bốn nghiệp
ác của khẩu, ba nghiệp ác của ý (tham, sân, si). Nội dung của các phương pháp đó là thực
hiện “Tam quy”, “ Ngũ giới” và “Lục độ”.
Tam quy : Là quy y Phật, Pháp, Tăng để học đạo và được gia hộ, qua đó noi
theo gương sáng của Đức Phật mà tu tập để giác ngộ chân lý, không bị lầm lạc,
không phải chịu khổ.
“Ngũ giới” nghĩa là năm giới cấm mà Phật bảo các Phật tử phải tuân theo để
có được an lành hạnh phúc.
1. Bất sát: Không sát sinh, không hại vật
2. Bất đạo: Không trộm cắp, không làm điều phi nghĩa
3. Bất dâm: Không tà dâm, không quan hệ bất chính.
4. Bất vọng ngữ: Không không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói
lời hung dữ và không bịa đặt vu oan giá họa làm khổ người, hại mình.
5. Bất tửu: Không uống rượu khiến vô minh, ngu muội.
“Lục độ” : là 6 con đường hành thiện và là phép tu trì để đi đến giải thoát”:
Bố thí; Trì giới; Nhẫn nhục; Tinh tiến; Thiền định; Bát nhã.
Ngoài Tam quy, Ngũ giới và Lục độ, những người học đạo cần phải giữ
Thập Thiện- tức 10 điều thiện trong Thân- Khẩu- Ý.
Đối với hàng tu tại gia ( Ưu bà tắc, Ưu bà di), Phật chế định 5 giới luật: Bất
13
sát; Bất đạo; Bất tà dâm; Bất vọng ngữ; Bất tửu.
Còn đối với hàng ngũ xuất gia tu đạo thì ngoài việc thực hành Ngũ giới, Lục
độ, Thập thiện cơ bản trên còn phải tuân thủ nhiều những giới luật hết sức nghiêm

ngặt. Trong luật của Kinh giới bản quy định: Đối với hàng Tỳ Kheo Ni( người nữ
xuất gia) bắt buộc phải giữ 348 giới. Đối với Tỳ Kheo Ni- Thức Xoa Ma Ni học nữ
còn phải học trong hai năm với ba pháp gồm có 4 giới trọng, 6 pháp được đắc giới
và học pháp hành với 288 pháp để có đạo hạnh bậc Đại ni.[1]
Còn đối với người nam xuất gia, cấp Sadi phải giữ 10 giới cơ bản suốt đời.
Cấp Tỳ Kheo ( bậc Đại Đức) phải giữ 250 giới. Theo Nam truyền Luật tạng thì Tỳ
kheo phải giữ 227 giới.
Như vậy phải bằng con đường Tam quy, Ngũ giới, Lục độ, thực hành Bát
chính đạo cùng với trì kinh, giữ giới thì con người mới thoát khổ, đạt tới trạng thái
Niết bàn. Đó cũng chính là cách thức con người giữ gìn được phẩm hạnh tốt đẹp
và có được hạnh phúc an lạc trong đời này cũng như đời sau, không còn sợ bị đọa
vào các cõi địa ngục súc sinh đau khổ.
Với những tư tưởng sâu sắc mang đậm tính nhân văn, Phật giáo ngày càng
phát triển mạnh mẽ và lan rộng ra các khu vực, quốc gia trên thế giới như Ấn Độ,
Thái Lan, Mailaixia, Nhật Bản, Trung Quốc, Lào, Cam Phu Chia, Việt Nam Một
số các quốc gia cũng đã lấy Phật giáo là quốc giáo, một tôn giáo chính thống, đóng
vai trò là nền tảng tư tưởng văn hóa của dân tộc. Khiến cho Phật giáo trở thành một
tôn giáo lớn trên thế giới có tầm ảnh hưởng lớn tới tư tưởng con người và sự phát
triển văn hóa, xã hội của các quốc gia dân tộc.
c, Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam.
Trên cơ sở những tư liệu lịch sử, phần lớn các ý kiến cho rằng, Phật Giáo vào
Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ qua đường biển của các nhà buôn và tu sỹ người Ấn
Độ vào khoảng những năm đầu công nguyên

[1],

Luật Tỳ Kheo Ni Giới Bổn

(2010). Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Dịch giả : Thích
Thiện Chơn. Nxb. Tôn giáo.

14
Con đường thứ hai là bằng đường bộ, từ Vân Nam Trung Quốc xuống vào
khoảng thế kỷ V-VI
Con đường thứ ba, cũng theo đường bộ từ Đông Bắc Ấn Độ, qua vùng Tây
Tạng, dọc theo triền sông Mê công vào Việt Nam khoảng Tk XIII.
- Các giai đoạn của Phật giáo Việt Nam trước thời Trần
Theo các tư liệu lịch sử, các nhà học giả đều nhất trí cho rằng Phật Giáo Ấn Độ
vào Việt Nam ở những thế kỷ đầu, qua đường biển, do các thương nhân và các tăng sĩ
Ấn Độ du nhập, gây ảnh hưởng tác động lớn tới đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam,
dẫn tới sự hình thành và ra đời trung tâm Phật Giáo Luy Lâu tại Giao Chỉ.
Ngay khi vào tới Việt Nam, Đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với nền văn
hóa Việt và được người bản địa đón nhận một cách tự nhiên, cởi mở và trở thành
yếu tố tinh thần, một phần tất yếu trong nếp sống, tư duy văn hóa của người Việt.
Phật Giáo Luy Lâu thời kỳ này là sự kết hợp hài hòa, dung hợp những yếu tố
Nho, Phật, Lão và theo khuynh hướng tư tưởng Phật Giáo Đại thừa. Giai đoạn này
đã xuất hiện một số Thiền phái như Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông
Theo Thiền Uyển Tập Anh, Tì Ni Đa Lưu Chi là người Nam Thiên Trúc
sang Việt Nam năm 580, và thiết lập dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, kéo dài cho đến tận
cuối thời Lý, đầu thời Trần, trong vòng sáu thế kỷ, gồm 19 thế hệ và 28 vị Thiền Sư
với hệ thống kinh điển phong phú như: kinh Tượng đầu, Tổng trì( Mật giáo), Kinh Kim
Cương, Bát Nhã, Pháp Hoa. Các nhà sư trong Thiền Phái Tì Ni Đa Lưu Chi, phần lớn
tu theo hạnh đầu đà(Dhuta), một lối tu khổ hạnh trong con mắt người thường.
Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Hoa sang Việt Nam, dẫn tới sự
ra đời thiền phái Vô Ngôn Thông, một dòng thiền thứ hai ở Việt Nam, mang mầu
sắc thiền tông Trung Quốc, tồn tại từ năm 820 đến khoảng những năm 30 của Tk
XIII và kéo dài cho đến Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử; tồn tại trong vòng 479 năm
gồm 15 thế hệ và 38 thiền sư (trừ sư tổ Vô Ngôn Thông). Thiền phái Vô Ngôn
Thông có đặc điểm là các thiền sư đều chú tâm vào đạo, với lối sống trong sạch,
giản dị, đơn sơ, và chỉ chú tâm vào thiền với những phương pháp, đường lối,
nguyên tắc để đi tới sự giác ngộ.

15
Phật giáo Việt Nam thời Bắc thuộc trước thời Trần có những nét tiêu biểu là
đã bàn tới tứ vô thường, ngũ giới, thập thiện, tam bảo, tứ thiền, La Hán, Nhất thiết
Trí, Hạnh, Bồ Tát, Lục độ, Duyên sinh, Ngũ ấm, Tứ Đại, Thập nhị nhân duyên,
Tam thập nhất phẩm, đã nhắc đến Duy Ca Mật, A Di Đà Ở đây đã có những quan
niệm được giải thích rõ ràng như Lục độ, Ngũ giới , nhưng cũng có những khái
niệm được nhắc tới nhưng không có lời giải thích. Nhưng qua những văn bản trên ta
cũng thấy được một số nét nhân sinh quan Phật giáo thời kỳ này.
Quan niệm về con người, cho rằng chết chưa hẳn đã hết, như theo Mâu Tử,
chết chỉ là sự hư hoại về thân xác còn phần hồn thì bất diệt, sau đó biến hóa luân
chuyển theo nghiệp lực mà đi sang một kiếp khác.
Phật giáo thời kỳ này có nói tới “Khổ”. Trong Lục độ tập kinh có nói tới ba
cõi (Tam giới) đều khổ. Nguyên nhân nỗi khổ là từ Tham - Sân - Si - Nghi - Mạn.
Trong đó “Tham - Sân - Si” được coi là Tam độc, nguyên nhân gây nhiều đau khổ
nhất của con người, đây vốn là những tập tính thói quen mang tính bản ngã của con
người. Muốn dứt khổ phải tu theo Lục độ, Ngũ giới, Thập thiện, và giữ gìn Giới -
Định - Tuệ, diệt trừ Tam độc.
Bên cạnh hai trường phái trên, vào thế kỷ 11 còn xuất hiện Thiền phái Thảo
Đường. Thiền phái Thảo Đường là một trong năm Thiền Phái ở Trung Quốc), du
nhập từ Trung Quốc sang. Thảo Đường cũng là tên vị sư tổ thành lập ra Thiền phái,
với sở trường là Đạo học lại tinh thông Phật học, có khuynh hướng dung hòa giữa
Nho giáo và Phật giáo. Theo Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, Thiền phái Thảo đường
truyền thừa qua sáu thế hệ.
Như vậy Phật Giáo vào Việt Nam qua con đường thông thương giao lưu
kinh tế, văn hóa, chính trị giữa Việt Nam - Ấn Độ và Việt Nam - Trung Quốc và với
các quốc gia lân cận. Khi xâm nhập vào Việt Nam, Phật Giáo nhanh chóng hòa
nhập với văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc và ăn sâu, bám rễ vào đời sống tư tưởng
người Việt Nam, tạo nên sự phong phú trong đời sống tinh thần người Việt. Qua đó
góp phần xây dựng đời sống kinh tế chính trị xã hội cho đất nước. Giúp dân bớt khổ
16

về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau, với vai trò
của các thiền sư, những vị chân sư nổi tiếng một thời.
Sự du nhập Phật Giáo vào Việt Nam đã dẫn tới sự ra đời, phát triển Phật giáo
Việt Nam sau này và có sự ảnh hưởng lớn tới công cuộc trị nước, bảo vệ đất nước,
đặc biệt dưới thời đại Lý - Trần.
Dưới thời Lý, Phật giáo đã phát triển rất mạnh, các vua nhà Lý đã lấy Phật
giáo làm nền tảng đời sống tinh thần xã hội, nên đã cho xây dựng nhiều chùa chiền
và biên chép, soạn dịch rất nhiều kinh điển phổ biến trong xã hội.
Trên tinh thần từ bi, hỷ xả của Đạo Phật, các vua Lý cũng sử dụng nhân tâm
trong thuật trị nước, thể hiện nền chính trị mang tính nhân bản sâu sắc. Tuy nhiên
giai đoạn hậu Lý thì lại trở nên suy vi do các vua quan chỉ chú trọng tới thụ hưởng,
không còn quan tâm tới triều chính nữa.
d, Phật giáo Việt Nam thời Trần
*Sự hình thành phát triển các tông phái
Đến đời Trần với sự kế thừa những giá trị văn hóa thời Lý, Phật giáo càng
phát triển hơn nữa dẫn tới sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trên cơ sở kết
hợp Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo với sự kết hợp yếu tố của Thiền Tông, Mật
Tông và Tịnh Độ Tông, tạo nên sự hỗn dung tôn giáo. Đây chính là một nét đặc sắc
của Phật giáo Việt Nam thời Trần.
Thời kỳ này đã có 3 phái Thiền du nhập từ Trung Quốc sang, đó là Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Bên cạnh đó còn có một số dòng Phật
giáo khác cũng du nhập vào Việt Nam như Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Như vậy
đến thời Trần thì Phật giáo Việt Nam đã thể hiện làm hai dòng cơ bản:
Dòng Phật giáo dân gian: Đây là sự dung hòa tư tưởng Phật giáo với những
tín ngưỡng dân gian bản địa tạo nên mầu sắc huyền bí trong những câu chuyện cổ
tích, thần thoại như Thánh Gióng, Tấm Cám, Chử Đồng Tử và Tiên Dung, phản
ánh những tư tưởng, khát vọng của con người trong cuộc sống muốn hướng thiện và
được sự che trở giúp đỡ của ông Bụt, ông Trời, các Thần Thánh. Dòng Phật giáo
17
này được thể hiện ở tầng lớp bình dân trong xã hội với xu hướng niềm tin tín

ngưỡng đi chùa để cầu Trời, khấn Phật mong được gia hộ, được bình an.
Dòng Phật giáo bác học: Đây là dòng Phật giáo tri thức mang đậm mầu sắc
triết học với sự ra đời của các hệ phái và tông phái khác nhau: Phật giáo Tiểu thừa
có phật giáo Khơme Nam tông; Phật giáo Đại thừa có ba tông phái Thiền tông, Mật
tông, Tịnh độ tông. Ngoài ra có dòng khất sỹ với sự kết hợp của tiểu thừa và đại
thừa. Sự chia tách các tông phái là do sự ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa khác nhau
tạo nên những nét đặc trưng riêng biệt trong mỗi tông phái.
Trong dòng phật giáo Đại thừa chủ yếu nghiêng về Thiền và mang mầu sắc
duy tâm thần bí. Thiền tông là tông phái hình thành từ Trung Quốc nhưng do sư tổ
Bồ Đề Đạt Ma người Ấn Độ sáng lập, cũng có nguồn gốc từ yoga Ấn Độ. Sau này
Khương Tăng Hội đã truyền vào Việt Nam. Dòng Thiền tông gồm có phái Tì Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thiền Tông.
Mật Tông là trường phái Phật giáo Ấn Độ do các nhà sư sáng lập vào TKVII,
sau phát triển mạnh và du nhập vào Việt Nam. Mật Tông hướng sự tu tập giải thoát
bằng các phép tu huyền bí với các nghi lễ, hành thiền độc đáo và sử dụng bùa chú,
phép thuật để hàng long phục phục hổ, trấn tà, yểm huyệt…Tiêu biểu là thiền sư
Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh thời Lý.
Tịnh Độ Tông là trường phái đến từ Trung Quốc do nhà sư Tuệ Viễn sáng
lập vào thế kỷ IV. Phái Tịnh Độ Tông hướng sự tu tập giải thoát bằng tha lực với
hình thức đi chùa tụng kinh, lễ Phật để “ Cầu Trời, khấn Phật” mong sự ban ơn, che
trở, gia hộ và khi chết được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây phương cực lạc.
Mỗi tông phái đều có một hình thức tu tập riêng với những nét đặc sắc riêng.
Sau này các vua Trần, đặc biệt Trần Nhân Tông đã nghiên cứu, chắt lọc những tinh
hoa từ các tông phái, hình thành nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái Trúc
lâm Yên Tử, là dòng thiền Việt Nam được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát
triển những dòng Thiền phái trước đó và tạo nên những nét đặc trưng riêng biệt,
đậm mầu sắc văn hóa Việt Nam, đưa Phật giáo Việt Nam đạt tới đỉnh cao của sự
phát triển, và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước.
18
Như vậy dưới thời Trần, Việt Nam đã xuất hiện thêm thiền phái Trúc Lâm Yên

Tử, sau này trở thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với các vị tổ sư như Phật Hoàng
Trần Nhân Tông(1258-1308); Pháp Loa(1284-1330; Huyền Quang ( 1254 – 1334).
So với các thời trước đó, đặc biệt dưới triều Lý thì Phật giáo Việt Nam của
thời Trần có những nét đặc sắc riêng biệt. Thời đại nhà Trần với tư tưởng nhập thế cứu
đời, các thiền sư và các vua Trần đã đưa những tinh hoa Phật giáo lên tới đỉnh cao trong
tư tưởng giải thoát. Tiêu biểu là Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng
Sỹ, thiền sư Pháp Loa, thiền sư Huệ Quang.
* Sự phát triển Phật giáo Việt Nam thời Trần.
Dưới triều đại nhà Trần với vai trò của Trần Thái Tông, Phật Hoàng Trần
Nhân Tông (hiệu là Trúc Lâm), Phật giáo phát triển rất mạnh thâm nhập ngày càng
sâu rộng trong đời sống nhân dân. Giai đoạn này các vua Trần rất quan tâm đến việc
truyền bá đạo Phật nên việc xây dựng hệ thống kinh điển rất được chú tâm. Năm
1295, vua Anh Tông sai sứ thần sang Trung Hoa thỉnh bản Đại Tạng Kinh mới nhất,
sau đó cho in ấn lưu hành. Năm 1319 (Kỷ Mùi) các tăng sỹ và cư sỹ đã hiến máu để
in và khắc bản Đại Tạng Kinh, một bộ Kinh vĩ đại với hơn 5000 quyển. Trong Đại
Tạng Kinh, vua Anh Tông đã cho viết và khắc bản các tác phẩm của Trúc Lâm như
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập,
Thạch Thất Mị Ngữ và Tăng Già Toái Sự, ngoài ra các tác phẩm của Trần Thái
Tông như Khóa Hư Lục, Thiền Tông Chỉ Nam, Kim Cương Tam Muội Kinh, Lục
Thì Sám Hối Khoa Nghi cũng được in, tác phẩm của Tuệ Trung như Tuệ Trung
Thượng Sỹ Ngữ lục cũng được đưa vào Đại Tạng Kinh. Bản Đại Tạng Kinh là một
công trình đồ sộ và vĩ đại của triều đại nhà Trần do thiền sư Pháp Loa và Bảo Phác
chủ trì. Ngoài ra các vua Trần và các thiền sư đã cho in rất nhiều kinh sách khác.
Như Tham Thiền Yếu Chỉ, Kim Cương Trường Đà La Ni Chú Tuy nhiên rất tiếc
khi nhà Minh sang xâm chiếm Đại Việt đã thu góp toàn bộ sách cổ quý chở về Kim
Lăng và thiêu hủy đi rất nhiều sách quý của ta, chỉ còn lại một số rất ít, đây là sự
thiệt hại rất lớn đối với nền văn hóa Việt.
Dưới thời Trần, với sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm, số người xin xuất
gia và ra nhập giáo hội Trúc Lâm ngày một đông. Tháng 9/1313 năm Quý Sửu, Pháp
19

Loa phụng chiếu đến chùa Vĩnh nghiêm ở Lương Giang, đặt văn phòng trung ương giáo
hội ở đó, thiết lập hệ thống quản lý, kiểm tra tự viện và sổ tăng tịch có tổ chức. Đây cũng
là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam các tăng sỹ có hồ sơ tại Giáo Hội Trung
Ương. Do số lượng tăng sỹ quá đông nên Pháp Loa quyết định giới đàn ba năm tổ chức
một lần và ba năm một lần độ tăng, trong đó số người xin thụ giới bị thải ra hàng nghìn
người. Năm 1329 số tăng sỹ xuất gia trong giáo hội Trúc Lâm lên tới 15.000 vị.
Về tự viện, năm 1313 có trên một trăm ngôi chùa thuộc giáo hội Trúc Lâm.
Năm 1314, tại chùa Báo Ân, Pháp Loa cho xây dựng 33 cơ sở trong đó có Phật điện
và tàng kinh, tăng đường. Đến năm 1329 ông đã xây dựng được 5 bảo tháp và hai
cơ sở hành đạo lớn (Quỳnh Lâm và Báo Ân) và trên 200 tăng đường . Pháp Loa còn
đúc tới 1.300 tượng Phật lớn nhỏ bằng đồng. Vua Anh Tông nhân ngày lên làm
Thái Thượng Hoàng đã cho đúc tượng đồng ba vị Phật Di Đà, Thích Ca và Di Lặc,
mỗi tượng cao 17 thước, bất động sản cúng cho chùa rất nhiều, chủ yếu đều xuất
phát từ các vương gia và những người có quyền thế giầu có. Năm 1322 nhiều người
trong triều đã đóng góp vào việc cúng dường để đúc hơn 1000 tượng Phật.
Dười thời đại nhà Trần các vương tử, công, tôn thất giai cấp quý tộc quy y
cửa Phật rất nhiều, trong đó có Hoa Dương công chúa, Tuệ Nhân đại vương. Năm
1323, Văn Huệ Vương và Uy Huệ Vương đến chùa Báo Ân xin thụ Bồ Đề Tâm
Giới và pháp quán đỉnh. 1324 Chiêu Từ hoàng thái phi xin xuất gia, thụ Bồ Tát
Giới, năm 1329, Tuyên Chân công chúa và Lệ Bảo công chúa xin xuất gia Những
đạo tràng do Pháp Loa và các thiền sư tổ chức thường rất đông người. Nhu cầu học
Phật trở thành một trào lưu ngày càng lan rộng trong giai cấp quý tộc và dân chúng.
Pháp Loa cũng rất đông đệ tử, trong 15.000 đệ tử của giáo hội thì có tới
3000 vị tới cầu pháp và đắc pháp với ông. Trong đó có những đệ tử trở thành
giảng sư nổi tiếng như Tuệ Nhiên, Tuệ Chúc, Hải Ấn, Hoằng Tế, Huyền Giác…
Phật giáo dưới thời đại nhà Trần cũng có các phái Đại thừa, Tiểu Thừa. Thời
đại này yếu tố Mật giáo cũng được coi trọng với các nghi lễ mang tính thần bí. Năm
1318 vua Anh Tông xuống chiếu đi tìm vị tăng sỹ Ấn Độ tên Ban Để Đa Ô Sa Thất
Lợi về dịch cuốn kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần Chú Kinh. Năm 1311, một vị
tăng sỹ Ấn Độ tên Du Chi Ba Lam tới, xưng 300 tuổi, có thể ngồi xếp bằng trên mặt

20
nước. Đời vua Minh Tông cũng có vị tăng Mật giáo Ấn Độ tên Bồ Đề Thất Lý sang
cũng có thể nổi trên mặt nước. Với những yếu tố kỳ bí nên các vua chúa, quan lại
rất ưa chuộng Mật Giáo. Vua Anh Tông cũng được Pháp Loa làm lễ quán đỉnh năm
1320, một nghi lễ của Mật Giáo. Ngoài ra rất nhiều người như Văn Huệ vương và
Uy Huệ vương cũng xin làm lễ quán đỉnh.
Có thể nói sự hưng thịnh của Phật giáo thời Trần là một tất yếu khi mà
những người đứng đầu một quốc gia dân tộc là các vua Trần đã giác ngộ và thấy
được những giá trị nhân văn cao cả của Phật giáo nên đã lấy Phật giáo làm nền tảng
hệ tư tưởng xã hội, đồng thời cũng chắt lọc những tinh hoa trong Nho giáo, Đạo
giáo để xây dựng phát triển đất nước. Các vua Trần chính là hình ảnh tiêu biểu
trong con đường “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” để tạo nên một thời kỳ thái
bình thịnh trị với những trang sử hào hùng dân tộc.
Sự hưng thịnh, phát triển của Phật giáo thời Trần còn thể hiện qua những
truyền thống văn hóa của dân tộc, mà sau này nó đã ăn sâu, bám rễ vào tâm thức
người Việt và trở thành thói quen tất yếu, như tập quán đi lễ chùa cầu may vào các
dịp lễ tết và ngày rằm mùng một, lễ Vu Lan báo hiếu trong ngày rằm tháng bảy, lễ
Phật Đản, lễ vía Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, …Những hoạt động văn hóa đó không
chỉ phản ánh mầu sắc tín ngưỡng, văn hóa tâm linh mà còn là những nét tinh hoa
văn hóa của người Việt, có giá trị bồi đắp thêm nhân cách con người Việt, biết đoàn
kết, yêu thương nhau và sống có tình có nghĩa, biết nhớ tới cội nguồn, sống luôn
hướng thiện, chân thành cởi mở, hòa đồng với cuộc sống với thiên nhiên, tâm hồn
khoáng đạt, viên dung.
1.1.2. Tư tưởng giải thoát của Phật giáo và vị trí của nó trong giáo lý Phật giáo
a, Khái niệm giải thoát
Giải thoát theo tiếng Phạn là Moksha, mukti( mộc xoa, mộc đề). “Giải”
nghĩa là gỡ ra, cởi ra, chia tách ra hay giải thích cho rõ; “Thoát” nghĩa là vượt ra
khỏi sự trói buộc, sự ràng buộc
.[2,tr 45].



[2], Doãn Chính(1999), “Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ”, Nxb Thanh niên, Hà nội, tr45]

×