Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tái cấu trúc thị tường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.77 KB, 21 trang )

Học viện Ngân hàng
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
BÀI THẢO LUẬN
TÁI CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I
1
DANH SÁCH NHÓM
2
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 12 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần giải quyết nhu cầu về vốn của nền kinh tế, thúc
đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước , thu hút đầu tư nước ngoài và từng
bước xã hội hóa hoạt động đầu tư của công chúng. Tuy nhiên, là một thị trường mới hình
thành, lại chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu từ
năm 2008 và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, TTCK Việt Nam đã và đang
bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Đầu năm 2012 trong bối cảnh thị trường đã có dấu hiệu suy
giảm mang tính hệ thống: giá chứng khoán liên tục sụt giảm, đa phần các công ty chứng
khoán, công ty niêm yết bị thua lỗ, không ít nhà đầu tư mất niềm tin và dần rút khỏi thị
trường
Đứng trước những khó khăn, thách thức đó, một loạt chính sách nhằm sắp xếp, đổi mới
và từng bước tái cấu trúc TTCK đã được triển khai thực hiện trong thời gian qua. Sau
nhiều tháng chờ đợi, TTCK Việt Nam đã đón nhận một sự kiện rất quan trọng, đánh dấu
một cột mốc cho sự cải tổ toàn diện TTCK Việt Nam, đó là việc Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt “Đề án tái cấu trúc TTCK và doanh nghiệp bảo hiểm” ban hành kèm theo
Quyết định số Quyết định số 1826/2012/QĐ-TTg ngày 06/12/2012. Đối với TTCK, Đề án
đã xác định các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và hoạch định các giải pháp để tái cấu trúc
TTCK trên tất cả các phương diện từ cơ sở hàng hóa trên thị trường, tái cấu trúc thị
trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), tái cấu trúc cơ
sở nhà đầu tư và tổ chức kinh doanh chứng khoán.Điểm nổi bật của Đề án là việc tái cấu
trúc TTCK được hình thành trên cơ sở xác định phạm vi, hoạch định những mục tiêu và


có biện pháp cụ thể, trong đó đưa ra các vấn đề ưu tiên thực hiện trước và đặt trọng tâm
đối với từng lĩnh vực trên TTCK là tái cấu trúc cơ sở hàng hóa trên TTCK, Tái cấu trúc
SGDCK, Tái cấu trúc các CTCK và Tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư.
3
I. TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ HÀNG HÓA TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Hàng hóa trên Thị trường chứng khoán Việt Nam
Hàng hóa trên TTCK rất đa dạng nhưng ở Việt Nam chủ yếu giao dịch cổ phiếu, trái
phiếu và chứng chỉ quỹ. Khái quát tình hình hoạt động, tính chung đến cuối năm 2013,
trên 2 sàn giao dịch ở Việt Nam có 683 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết với tổng giá
trị niêm yết theo mệnh giá là 361 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8% so với năm 2012.Về niêm yết
trái phiếu, có tổng cộng 517 mã trái phiếu niêm yết trên 2 sàn với giá trị niêm yết là 521
nghìn tỷ đồng, tăng 28% so với cuối năm 2012.Quy mô và tính thanh khoản của TTCK
ngày một cải thiện, góp phần thu hẹp thị trường tự do, thu hút đông đảo các nhà đầu tư
trong nước, nước ngoài.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả quan trọng , nhưng hàng hóa trên TTCK Việt Nam
còn tồn tại rất nhiều hạn chế. Điển hình là việc số lượng chứng khoán, sản phẩm bảo
hiểm nhiều nhưng chất lượng còn thấp, sản phẩm thị trường chưa đa dạng, chưa đáp ứng
được yêu cầu của các nhà đầu tư và khách hàng tham gia bảo hiểm. Đối với trái phiếu, số
lượng mã trái phiếu được niêm yết là khá lớn nhưng khối lượng mỗi mã lại nhỏ, đây là
rào cản lớn đối với việc tăng cường thanh khoản của thị trường. Đa số các công ty niêm
yết, đăng ký giao dịch là những công ty vừa và nhỏ; trong số 710 công ty niêm yết/đăng
ký giao dịch chỉ có 368 công ty (khoảng 50%) có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng; chất
lượng của các công ty niêm yết chưa cao, đặc biệt là quản trị công ty và tính công khai,
minh bạch. Bên cạnh đó, sản phẩm thị trường còn nghèo nàn, ngoài cổ phiếu và một số
loại trái phiếu doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ, chưa có các sản phẩm phái sinh và các công
cụ đầu tư khác, vì vậy hàng hoá thị trường còn khiếm khuyết, chưa có công cụ phòng
ngừa rủi ro. Mặc dù trên thị trường hiện nay, giá của phần lớn các mã cổ phiếu đều đang
ở mức rất thấp, trong đó có tới một nửa trên tổng số chứng khoán hiện vẫn được giao
dịch dưới mệnh giá, song hầu hết các nhà đầu tư đều tỏ ra rất thận trọng và lo lắng về tính
rủi ro của các mã cổ phiếu giá rẻ. Không những vây,trên TTCK hiện nay còn tồn tại rất

nhiều hành vi vi phạm trong việc cung cấp thông tin với mức độ ngày càng cao như vi
4
phạm các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng, giao dịch giả tạo, thao túng
giá cổ phiếu trên thị trường…
Vì vậy, để TTCK có thể phát triển vững mạnh, trong sạch cần phải cơ cấu và nâng cao
chất lượng chứng khoán trên thị trường, từ đó mới thu hút được các nhà đầu tư vào
TTCK Việt Nam.
2. Nội dung tái cấu trúc
Để thực hiện tái cấu trúc hàng hóa trên TTCK, UBCKNN đã đề ra các giải pháp như
2.1 Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường
a) Nâng cao điều kiện niêm yết, phát hành, chú trọng các tiêu chí về vốn, lợi nhuận, thời
gian hoạt động; đơn giản hóa thủ tục chào bán, phát hành, đăng ký, lưu ký và niêm
yết, đăng ký giao dịch.
Theo quy định, để được niêm yết cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
(HoSE), CTCP cần đáp ứng một số điều kiện như có vốn điều lệ từ 120 tỷ đồng trở lên,
phải có lãi trong 2 năm liên tiếp trước năm niêm yết, không có các khoản nợ quá hạn
chưa được dự phòng… còn đối với Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX),CTCP phải
có vốn điều lệ tối thiểu từ 30 tỷ đồng trở lên; năm liền trước năm niêm yết phải có lãi với
tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) tối thiểu là 5%, không có các khoản nợ phải
trả quá hạn trên một năm, hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và có tình hình
tài chính lành mạnh ….
Nhằm tạo thuận lợi cho quá trình tái cấu trúc các công ty niêm yết qua quá trình hợp
nhất, sáp nhập doanh nghiệp, năm 2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
73/2013/TT-BTC hướng dẫn về việc niêm yết của công ty cổ phần hình thành sau quá
trình hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp,khung pháp lý về quỹ mở, quỹ đầu tư bất động
sản, ETF, công ty đầu tư chứng khoán… Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu đến năm
2020 đã được Bộ Tài chính ban hành tại Quyết định số 261/ QĐ-BTC ngày 01/02/2013,
trong đó qui định chi tiết các giải pháp và kế hoạch triển khai cụ thể nhằm thúc đẩy thị
trường trái phiếu, bao gồm việc tiêp tục đẩy mạnh và đa dạng hóa TPCP có kỳ hạn từ 10
năm trở lên; củng cố hệ thống nhà đầu tư; hoàn thiện cơ chế và hệ thống giao dịch TPCP

và xây dựng và phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường.
b) Nghiên cứu, phát triển, từng bước triển khai các sản phẩm mới như chứng khoán
phái sinh, đa dạng hóa các loại hình trái phiếu và quỹ đầu tư theo lộ trình phù hợp,
đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường;
5
UBCKNN đã đề ra lộ trình xây dựng TTCK phái sinh tại VN như sau:
o Giai đoạn 2013-2015: Xây dựng khung pháp lý, hoàn thiện hạ tầng cơ sở vật
chất, công nghệ bao gồm hệ thống giao dịch, thanh toán bù trừ chứng khoán phái
sinh, hệ thống giám sát và công bố thông tin tại các Sở giao dịch chứng khoán,
Trung tâm lưu ký chứng khoán và thành viên thị trường
o Giai đoạn 2016-2020: Tổ chức vận hành TTCK phái sinh, trước mắt là các sản
phẩm phái sinh dựa trên chỉ số chứng khoán, trái phiếu Chính phủ và cổ phiếu.
o Giai đoạn sau 2020: Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của TTCK
phái sinh, từng bước đa dạng hóa các sản phẩm giao dịch.
Như vậy, bên cạnh các cổ phiếu là sản phẩm cơ sở truyền thống của TTCK hiện nay,
giờ đây, với TTCK phái sinh, các nhà đầu tư sẽ có thêm nhiều sản phẩm để lựa chọn.Cụ
thể, với lộ trình phát triển sản phẩm sẽ từ đơn giản tới phức tạp; từ công cụ tài chính phái
sinh dựa trên tài sản cơ sở là chứng khoán và chỉ số chứng khoán, sau đó sẽ phát triển
thống nhất tập trung giao dịch các sản phẩm phái sinh là công cụ của thị trường tiền tệ
(lãi suất, tỷ giá, vàng…) và hàng hóa (cà phê, thép, gạo, cao su…).Trước mắt, khi đưa
vào vận hành TTCK phái sinh, các sản phẩm Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu và Hợp
đồng tương lai trái phiếu Chính phủ sẽ được lựa chọn giao dịch đầu tiên, sau đó mới phát
triển các sản phẩm quyền chọn dựa trên chỉ số và cổ phiếu nếu chuẩn bị tốt pháp lý, cơ sở
vật chất, con người.
Nếu nhìn vào hoạt động của các sở giao dịch chứng khoán, sở giao dịch hàng hóa hay
sở giao dịch tiền tệ trong khu vực và trên thế giới, chúng ta đều thấy rằng, khi đưa công
cụ phái sinh vào giao dịch thì ranh giới giữa các sở này hầu như không còn nữa, vì tất cả
các hàng hóa cơ sở (như cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, tiền tệ, vàng bạc, nông
sản, xăng dầu và bất động sản…) đều có thể trở thành hàng hóa cơ sở của tất cả các loại
phái sinh. Do đó, nhiều nước đã vận dụng đặc điểm này để thống nhất hoạt động của 3 thị

trường phái sinh hàng hóa, phái sinh chứng khoán và phái sinh tiền tệ thành một sở giao
dịch chung. Việc này vừa tiết kiệm được nguồn lực để xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa tập
trung được nguồn nhân lực có chất lượng cao mà ta còn thiếu. Chẳng hạn, ở Singapore,
trước đây, sở giao dịch hàng hóa SICOM hoạt động độc lập thì nay họ đã sáp nhập vào
Sở GDCK Singapore để trở thành một thành viên. Việt Nam nên tham khảo áp dụng mô
hình này để không phải trải qua hàng mấy thập kỷ tuần tự phát triển. Ngoài ra, nếu sáp
nhập theo phương châm “3 trong 1” thì lượng vốn hóa của TTCK Việt Nam sẽ tăng lên
nhiều lần, tăng tính hấp dẫn với các nhà đầu tư.
Bên cạnh sự ra đời của TTCK phái sinh, một diễn biến đang thu hút sự quan tâm của
các thành viên TTCK là triển vọng ra đời của loại hình quỹ ETF trong năm 2014.Đó là
loại quỹ đầu tư nắm giữ các loại tài sản như cổ phiếu, hàng hóa, hoặc chứng khoán được
giao dịch trên TTCK gần với giá trị tài sản ròng suốt phiên giao dịch, nên sẽ giúp các nhà
6
đầu tư có thể đầu tư nhanh chóng vào TTCK, hoặc vào nhóm ngành nghề nhất định trong
TTCK mà không bị hạn chế tỷ lệ sở hữu tại ETF như đối với cổ phiếu.
c) Hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Nhiệm vụ đặt ra trong năm 2014-2015 là làm sao cổ phần hóa được 432 doanh nghiệp
Nhà nước.Mỗi năm tới đây, Nhà nước sẽ phải cổ phần hóa 216 doanh nghiệp, con số này
gấp 3 lần kết quả của năm 2013 và gấp 16 lần kết quả của năm 2012.
2.2. Tăng cường tính minh bạch trên thị trường chứng khoán
- Triển khai áp dụng cơ chế công bố thông tin của các tổ chức phát hành theo quy mô vốn
và tính đại chúng;
- Từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính theo thông
lệ quốc tế đối với các tổ chức phát hành.
2.3. Nâng cao chất lượng quản trị công ty, quản trị rủi ro tại các tổ chức phát hành
- Xây dựng, hướng dẫn các tổ chức phát hành áp dụng các nguyên tắc về quản trị công ty
và quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế; đào tạo, phổ cập kiến thức về hoạt động quản trị
công ty cho đội ngũ cán bộ điều hành, quản lý tại các tổ chức này;
- Chú trọng công tác bảo vệ cổ đông thiểu số; tuyên truyền, phổ cập kiến thức về quyền

và trách nhiệm của cổ đông; tăng cường sự tham gia giám sát của thành viên thị trường
đối với hoạt động quản trị công ty tại các tổ chức phát hành.
2.4. Đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với các hoạt động
liên quan đến phát hành, niêm yết, công bố thông tin, quản trị công ty trên
TTCK
II. TÁI CẤU TRÚC SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
1. Thực trạng SGDCK Việt Nam
Đối với Việt Nam, SGDCK do Nhà nước sở hữu để đảm bảo an toàn và công bằng
theo định hướng XHCN. Việc thành lập và đình chỉ hoạt động do Thủ tướng chính phủ
quyết định theo đề nghị của UBCKNN.Hiên nay Việt Nam có hai Sở giao dịch Chứng
7
khoán là Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch Chứng khoán TPHCM.
SGDCK Hà Nội và TPHCM,quản lý hệ thống giao dịch Chứng khoán niêm yết của Việt
Nam và đều hoạt động như một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nhà nước
với số vốn điều lệ là 1000 tỷ đồng. Khác với các sở giao dịch CK trên thế giới thường
hoạt động dưới dạng công ty cổ phần (Đức, Malaysia, Anh, Hồng Kông…)
Về cơ cấu tổ chức, trước đây SGDCK và TTLKCK đều trực thuộc UBCK Nhà nước,
tuy nhiên giờ đã được tách ra hoạt động độc lập, có tư cách pháp nhân.Việc này đã đạt
được kết quả nhất định trong việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động
chứng khoán và chức năng tổ chức vận hành TTCK.Tuy nhiên theo các chuyên gia, đối
với quy mô TTCK Việt Nam hiện nay, việc tồn tại hai SGDCK với những hàng hóa, cơ
chế giao dịch tương đối giống nhau có thể gây lãng phí nguồn nhân lực, chi phí cũng như
cơ sở vật chất và hạn chế năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện, trên 2 sở giao
dịch có 3 thị trường cổ phiếu (2 thị trường niêm yết và một Upcom tại HNX). Tình trạng
này dẫn tới sự không thống nhất trong việc quản lý, đặc biệt là công tác quản trị công ty,
công bố thông tin của các doanh nghiệp và làm tăng chi phí xã hội. Mặt khác,từ trước tới
nay, các CTCK phải báo cáo cả 2 sở và UBCKNN, nếu hợp nhất sẽ giảm rất nhiều áp lực
công việc cho các đơn vị này. Để đảm bảo hoạt động thông suốt, trung bình mỗi CTCK
hiện nay phải chi 2 tỷ đồng/năm cho đơn vị cung cấp. Vì vậy, nếu sáp nhập thành một sở
sẽ giúp giảm bớt gánh nặng chi phí cho CTCK.

Khi cả nước chỉ có một SGDCK, các hoạt động sẽ được tập trung và chuyên sâu hơn,
đồng thời, quy mô thị trường sẽ có sự gia tăng lớn, đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu đầu tư
của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, đặc biệt là vị thế của thị trường đối vớ cái NĐT
nước ngoài. Ở góc độ thành viên tham gia thị trường, việc chỉ chịu sự quản lý, điều hành
của một SGDCK sẽ tiết giảm được chi phí như đầu tư hệ thống giao dịch, thuê đường
truyền, chi phí vận hành và duy trì hệ thống giao dịch. Ở góc độ cơ quan quản lý, sự
thuận lợi còn giúp nâng cao năng lực quản lý TTCK, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả xuyên
suốt toàn hệ thống quản lý. Một SGDCK Việt Nam sau hợp nhất sẽ giúp Nhà nước tập
trung về chính sách, cơ chế và tài chính để phát triển TTCK theo đúng chiến lược, mục
tiêu đề ra. Các chính sách xây dựng cho thị trường từ đó cũng sẽ đồng bộ hơn bởi chính
sách lên một thị trường sẽ có tác động lên thị trường khác và ngược lại. Công tác triển
khai hàng hóa, sản phẩm mới cũng thuận lợi do chúng ta thống nhất được nguồn lực, cả
về nhân lực, vật lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và quá trình vận hành xuyên suốt. Hiệu quả
hoạt động của SGDCK không những sẽ cao hơn mà việc hợp nhất này còn là cơ sở cho
việc giảm các loại phí cho các thành viên thị trường. Theo các chuyên gia tài chính -
chứng khoán, mô hình SGDCK Việt Nam khi ra đời sẽ góp phần nâng TTCK Việt Nam
lên một tầm cao mới. Đó là sự phân tách và chuyên biệt thị trường theo hàng hóa giao
8
dịch, theo hướng chuyên nghiệp. Khi đó, SGDCK Việt Nam sẽ đủ khả năng để cạnh tranh
với các nước trong khu vực về vốn và vị thế và các yếu tố khác.
Các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cũng thường chỉ có duy nhất một
SGDCK, nếu có nhiều thì mỗi Sở sẽ chuyên về một loại hàng hóa nhất định. Vậy, việc
thực hiện sát nhập hai SGDCK làm một là một việc làm khá cần thiết để TTCK Việt Nam
hoạt động tốt hơn và thống nhất hơn, giúp cho nhà đầu tư nước ngoài có thể dễ dàng tiếp
cận thị trường Việt Nam.
2. Nội dung và thực hiện tái cấu trúc SGDCK
Theo đề án tái cấu trúc SGDCK được chính phủ phê duyệt tháng 12/2012, các giải
pháp tái cấu trúc SGDCK là cần nghiên cứu thành lập Sở Giao dịch chứng khoán Việt
Nam theo nguyên tắc
• Thống nhất về bộ máy quản lý và điều hành;

• Thống nhất về nền tảng công nghệ;
• Thống nhất và chuẩn hóa tiêu chí niêm yết, chế độ báo cáo, công bố thông tin, tiêu
chuẩn về thành viên và giao dịch ;
• Phân tách và chuyên biệt hóa thị trường theo hàng hóa giao dịch, bao gồm một sàn
giao dịch cổ phiếu và một sàn giao dịch trái phiếu, chứng khoán phái sinh.
Việc hợp nhất 2 SGDCK Hà Nội và TPHCM là việc làm cần có nhiều thời gian,
phải tuân thủ khá nhiều quy trình . Đến thời điểm này, lộ trình hợp nhất hai SGDCK đã
được Chính phủ công bố vào ngày 21/02/2014 theo đó lộ trình của việc hợp nhất gồm 2
giai đoạn:
• Giai đoạn 1 (2015 – 2020): SGDCK Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước, hoạt
động quy mô lớn dưới hình thức công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà
nước, hoạt động dựa trên nguyên tắc thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước giao là
chính, lấy thu bù chi, có tích lũy cho đầu tư phát triển thay vì cơ hế hoạt động hoàn
toàn vì mục tiêu lợi nhuận. Bộ Tài chính là đại diện chủ sở hữu của Nhà nước tại
SGDCKVN.
• Giai đoạn 2 (sau năm 2020): Tổ chức SGDCK Việt Nam theo mô hình CTCP nhà
nước sở hữu chi phối từ 75 – 90%. Các công ty chứng khoán thành viên trên thị
trường sẽ được mua 10 - 25% cổ phần. Việc cổ phần hóa sẽ góp phần thu hút vốn
đầu tư, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước cũng như cải cách quản trị điều hành
theo mô hình hiện đại.
Dự kiến quý II/2014 UBCKNN sẽ trình Thủ tướng quyết định thành lập Sở Giao dịch
Chứng khoán Việt Nam. Sau khi được Chính phủ chấp thuận và tiến hành sáp nhập, thị
trường chứng khoán Việt Nam sẽ hoạt động theo cơ chế “một sở hai sàn”. Theo đó, các
9
cổ phiếu sẽ chuyển dịch 02 dần sang giao dịch tại sàn TP HCM. Trong khi đó, “đầu cầu”
Hà Nội sẽ chủ yếu tập trung phát triển sàn chuyên biệt và các sản phẩm phái sinh,
UPCoM Theo Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cơ chế hoạt động sau khi sáp
nhập các sở đã được thể hiện trong định hướng phát triển thị trường từ nay đến 2020.
Có thể ban đầu tạo ra một cơ cấu tổ chức, hình thành ban lãnh đạo ở trên, giữ nguyên các
phòng, ban hai đầu Hà Nội và Tp.HCM như hiện nay và sau đó dịch chuyển dần dần.

Chẳng hạn, nơi nào là trụ sở chính thì các phòng, ban đủ, còn nơi kia sẽ giảm bớt đi.
Việc áp dụng các tiêu chuẩn này chủ yếu nhằm cải thiện chất lượng các doanh nghiệp
niêm yết mới. Đối với các doanh nghiệp đang niêm yết, sẽ có khoảng 30% không đáp
ứng được các tiêu chuẩn. Với các trường hợp này, Ủy ban Chứng khoán dự kiến sẽ đưa ra
một lộ trình kéo dài 5 năm để các doanh nghiệp có thể đáp ứng chuẩn mới.
Một vấn đề cũng khá quan trọng khác phải xử lý khi hợp nhất hai sở giao dịch chứng
khoán là: công nghệ. Khi hợp nhất hai Sở, công nghệ sẽ phải đồng nhất và công ty chứng
khoán có thể kết nối với bất kỳ đầu nào cũng có thể vào thị trường được.
III. TÁI CẤU TRÚC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1. Thực trạng các công ty Chứng khoán ở Việt Nam
Các công ty Chứng khoán là một trong những thành phần đầu tiên góp nên sự thành
công của thị trường trong 10 năm qua. Họ là nơi kết nối giữa cung – cầu, hỗ trợ cổ phần
hóa, tư vấn phát hành, phát triển mạng lưới thu hút nhà đầu tư vào thị trường, thu hút vốn
trung và dài hạn cho doanh nghiệp.
Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán đã có bước phát triển nhanh
cả về số lượng, quy mô vốn, nghiệp vụ và công nghệ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh,
phòng giao dịch trải khắp các tỉnh thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công
chúng đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn với TTCK. Khi thị trường bắt đầu đi vào hoạt động,
thị trường chỉ có 7 công ty chứng khoán và cho đến năm 2004 vẫn chưa có một công ty
quản lý quỹ nào, thì đến nay, tổng số đã là 104 công ty chứng khoán, mạng lưới hoạt
động bao gồm 114 chi nhánh, 41 phòng giao dịch, 4 văn phòng đại diện. Số lượng tài
khoản của nhà đầu tư mở tại công ty chứng khoán đạt 1.287.576 tài khoản với 1.271.858
tài khoản của nhà đầu tư trong nước và 15.718 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Số
thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) là 120 thành viên
trong đó có 8 ngân hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp (gồm các ngân hàng
thương mại là thành viên đặc biệt của thị trường TPCP chuyên biệt và Sở giao dịch
NHNN) . Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều công ty
10
CK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và ngày càng nâng
cao chất lượng hoạt động.

Tuy nhiên, hiện nay số lượng các CTCK ở nước ta tương đối nhiều, như đã nói tính
đến hiện nay có khoảng hơn 100 CTCK hoạt động trên cả nước.Trong khi đó, bản thân
các CTCK do phải cạnh tranh trong bối cảnh thị trường đi xuống nên đã phải cho ra đời
nhiều sản phẩm, dịch vụ mới rủi ro mà chưa có cơ sở pháp lý để điều chỉnh đã làm ảnh
hưởng trực tiếp đến vấn đề thanh khoản của công ty cũng như phát sinh rủi ro pháp lý. Về
vấn đề minh bạch và tuân thủ, mặc dù UBCK cũng đã thường xuyên kiểm tra, giám sát
chặt chẽ nhằm chấn chỉnh hoạt động của các CTCK nhưng thời gian qua vẫn còn công ty
đã “xé rào” tham gia kinh doanh, tư vấn một số lĩnh vực khác như: Vàng, hàng hóa, bất
động sản… thông qua việc liên doanh liên kết với một số ngân hàng. Theo UBCK , các
chỉ tiêu về an toàn tài chính của các CTCK bộc lộ khá nhiều khuyết điểm cần khắc phục.
Do đó, yêu cầu về tái cấu trúc lĩnh vực các CTCK được đặt ra là rất cấp thiết và là
trọng tâm của đề án Tái cấu trúc Thị trường chứng khoán hiện nay.
2. Nội dung và thực hiện tái cấu trúc CTCK hiện nay
a / Tóm tắt nội dung của việc tái cấu trúc các CTCK bao gồm:
- Phân loại các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo bốn (04) nhóm trên cơ sở mức độ
rủi ro đối với thị trường để có biện pháp xử lý thích hợp:
• Nhóm hoạt động lành mạnh, gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng trên 180%:
các tổ chức CK này cần triển khai phương án để duy trì và nâng năng lực tài
chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị rủi ro, năng lực điều
hành… khuyến khích tham gia xử lý các công ty thuộc nhóm bị kiểm soát
• Nhóm hoạt động bình thường gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 150%
tới 180%: Cần xây dựng, tổ chức thực hiện phương án khắc phục, cơ cấu lại danh
mục đầu tư, tinh giản bộ máy nhân sự và chi phí hoạt động. UBCKNN thực hiện
giám sát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức này phối hợp với SGDCK và
TTLKCK, khuyến khích các tổ chức thuộc nhóm này sáp nhập, hợp nhất với
nhau hoặc với các TC hoạt động lành mạnh.
• Nhóm bị kiểm soát gồm các tổ chức có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 120% tới 150%:
Ngoài áp dụng các giải pháp với các tổ chức hoạt động bình thường, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước xây dựng quy trình chi tiết để quá trình tái cơ cấu các tổ
chức thuộc nhóm này diễn ra theo lộ trình trật tự, bảo đảm an toàn tài sản của

khách hàng:
+ Yêu cầu các tổ chức thuộc nhóm này lành mạnh hóa và củng cố năng lực tài
chính: Tăng vốn, không phân phối lợi nhuận, không mua cổ phiếu quỹ;thu hẹp
địa bàn hoạt động…
11
+ Yêu cầu các tổ chức này tự nguyện hoặc thực hiện rút bớt các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật
Ngoài ra Chính phủ sẽ có các giải pháp hỗ trợ khác như xây dựng, ban hành các
chính sách, quy định về miễn, giảm thuế TNDN cho các TCKD CK sau khi hợp
nhất…
- Đổi mới hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, nâng cao năng lực tài
chính, quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế và khả năng cạnh tranh: hạn chế thành lập
mới, khuyến khích hoạt động chuyển nhượng, các NHTM, DN bảo hiểm có tình hình tài
chính lành mạnh nắm giữ cổ phần chi phối.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, giám sát hoạt động các tổ chức kinh doanh
chứng khoán:Xây dựng hệ thống phân loại, đánh giá rủi ro của các tổ chức kinh doanh
chứng khoán theo tiêu chuẩn quốc tế ;Tập trung nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ
cán bộ thanh tra, giám sát, quản lý các tổ chức kinh doanh chứng khoán; giám sát chặt và
xử lý nghiêm các sai phạm trong quản trị , điều hành KDCK.
b/ Thực hiện tái cấu trúc TTCK hiện nay
Năm 2012 là năm bản lề thực hiện chương trình tái cấu trúc mạnh mẽ ngành chứng
khoán, trong đó trọng tâm là tái cấu trúc các công ty chứng khoán.Trên cơ sở đề án tái
cấu trúc được ban hành, Ủy ban chứng khoán nhà nước đã tiến hành ra soát, phân loại các
công ty chứng khoán theo các chỉ tiêu an toàn tài chính theo kết quả kinh doanh đã kiểm
toán của các công ty, theo đó có 22 công ty CK có tỷ lệ an toàn tài chính dưới 180% và 7
công ty CK được xếp vào diện kiểm soát đặc biệt (Công ty CK cao su, CTCK Vina, Hà
Nội, Trường Sơn, Đà Nẵng, Mekong , CTCK Công nghiệp và Thương Mại VN).
Đến hết năm 2013, sau 1 năm thực hiện Đề án “Tái cấu trúc TTCK và các doanh
nghiệp bảo hiểm”, hoạt động tái cấu trúc các CTCK vẫn đang tiếp tục được thực hiện
theo lộ trình trên nguyên tắc không làm xáo trộn thị trường, đồng thời sử dụng các nghiệp

vụ thị trường để tái cơ cấu thông qua cơ chế góp vốn minh bạch và tiêu chí bảo đảm năng
lực, an toàn tài chính.
Một ví dụ điển hình cho quá trình thực hiện tái cấu trúc mạnh mẽ CTCK là ngày
9/12/2013, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã trao giấy phép thành lập và hoạt
động cho Công ty Chứng khoán MB (MBS) trên cơ sở hợp nhất Công ty Chứng khoán
MB (MBS) và Công ty Chứng khoán VIT (VITSE). Đây cũng là lần đầu tiên hai công ty
chứng khoán thực hiện hợp nhất thành công và mở ra tiền lệ trong quá trình tái cấu trúc
các công ty chứng khoán. Hoạt động tái cấu trúc các tổ chức trung gian càng được đẩy
mạnh với việc hàng loạt công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ phải dừng hoạt động,
rút giấy phép hoặc đưa vào diện kiểm soát đặc biệt như: Goldenbridge, SME, Tràng An,
Hà Nội, Trường Sơn, công ty quản lý quỹ Sabeco… Tính đến cuối năm 2013,UBCKNN
12
đã đưa 13 CTCK vào diện kiểm soát đặc biệt, 6 CTCK vào diện kiểm soát do không đảm
bảo được chỉ tiêu an toàn tài chính. Trong số CTCK này, UBCKNN đã yêu cầu 3 CTCK
mở thủ tục rút giấy phép hoạt động do không khắc phục được tình hình tài chính, 2
CTCK phải tạm dừng hoạt động. Hiện tại đã có 15 chi nhánh, 10 phòng giao dịch của
CTCK phải đóng cửa; có trên 15 CTCK không còn thực hiện nghiệp vụ môi giới, 3
CTCK đang làm thủ tục giải thể, 2 CTCK đang trong quá trình hợp nhất. Thậm chí lần
đầu tiên trên thị trường chứng khoán đã có CTCK công bố giải thể như: Công ty chứng
khoán Chợ Lớn (CLSC); Công ty Chứng khoán Âu Việt.Song đến nay, hệ thống các tổ
chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán vẫn tồn tại tới 105 CTCK và 47 công ty quản lý
qũy, trong đó nhiều CTCK không theo kịp với yêu cầu thị trường, hoạt động còn hạn
chế.
Kết quả kinh doanh cho thấy quá trình tái cấu trúc có những tiến bộ nhất định. Nhìn
lại 1 năm thực hiện, hiện đã có 41/92 CTCK thua lỗ (cả năm 2012 có 38/92 công ty thua
lỗ), có 52/92 công ty có lợi nhuận chưa phân phối âm trong đó có 7 công ty có lỗ lũy kế
trên 50% vốn điều lệ. Những thử thách của thị trường đã khiến các CTCK tăng cường
quản lý rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng dịch vụ phục vụ nhà đầu tư
hơn. Mặt khác, do doanh thu giảm nên các CTCK cũng đã cắt giảm mạnh chi phí, rút gọn
hoạt động như: Đóng cửa chi nhánh, phòng giao dịch; cắt giảm nhân viên, lương thưởng,

thù lao; thắt chặt chi tiêu dẫn tới lợi nhuận sau thuế bình quân của các CTCK chỉ đạt
1.489 tỷ đồng. Tính đến 31-10-2013, tổng số tài khoản giao dịch của nhà đầu tư mở tại
các CTCK là 1.304.295 tài khoản, tăng 3,25% so với thời điểm 31-12-2012.
Năm 2013 cũng là năm ghi dấu ấn với những nỗ lực của UBCKNN. Theo đó,
UBCKNN đã ban hành Quy chế hướng dẫn thiết lập, hướng dẫn đánh giá, xếp loại các tổ
chức kinh doanh chứng khoán theo chuẩn CAMEL. Đây được xem là biện pháp hướng
đến mục tiêu duy trì hoạt động an toàn, bền vững, hiệu quả cho các CTCK.Về chính sách,
Việt Nam chính thức "mở cửa" cho các CTCK có 100% vốn điều lệ của nhà đầu tư nước
ngoài. Đây là một trong những tín hiệu cho các CTCK trong nước thực hiện việc mua
bán, sáp nhập với các đối tác nước ngoài, tạo ra nhiều sức cạnh tranh hơn, thúc đẩy sự
phát triển chung của thị trường.
Bước sang năm 2014, UBCKNN sẽ tiếp tục thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
kinh doanh chứng khoán trên cơ sở phân loại theo tiêu chí và các biện pháp xử lý theo đề
án tái cấu trúc TTCK.
• UBCKNN sẽ tiếp tục thực hiện quyết liệt mục tiêu loại bỏ CTCK hoạt động yếu
kém, góp phần minh bạch thị trường chứng khoán thông qua các giải pháp như:
Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các CTCK, công ty quản lý quỹ theo quý;
Xử lý nghiêm các trường hợp CTCK thiếu khả năng thanh toán do đòn bẩy tài
13
chính; các doanh nghiệp phát hành không đăng ký; Tiếp tục theo dõi giám sát và
phối hợp với các Hiệp hội, nhà đầu tư để hạn chế tối đa hoạt động bán khống trái
phép, có biện pháp xử lý kịp thời và nghiêm khắc đối với các tổ chức kinh doanh
chứng khoán nếu có hành vi tiếp tay cho bán khống.
• Tất cả những CTCK chưa từng được kiểm tra sẽ bị kiểm tra trong năm 2014 để
UBCKNN nắm bắt chính xác tình hình hoạt động của các CTCK để có biện pháp
xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn cho tài sản của khách hàng, đồng thời giúp cho các
CTCK tái cấu trúc như thực hiện hợp nhất, sáp nhập, giải thể.
• UBCK NN bắt tay với các Sở Giao dịch chứng khoán giám sát diễn biến giao dịch
hàng ngày, định kỳ, công bố thông tin để kịp thời phát hiện đánh giá các giao dịch
bất thường, các hành vi thao túng, giao dịch nội bộ, nội gián, giả mạo hồ sơ

• Nghiên cứu mô hình về việc xây dựng quỹ bảo vệ nhà đầu tư để xử lý vấn đề khi
nhà đầu tư bị lạm dụng tài sản tại công ty chứng khoán.
• Đánh giá lại hệ thống các công ty chứng khoán, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp tiếp
tục đổi mới hoạt động theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ chứng khoán, tập
trung vào các mảng dịch vụ chính; nâng cao năng lực tài chính, quản trị công ty, hệ
thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản trị rủi ro tại các tổ chức kinh doanh chứng
khoán theo thông lệ quốc tế.
• Tiến tới cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu các tổ chức kinh doanh theo các
cam kết WTO, trong đó khuyến khích các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín tham
gia.
• Hoàn thiện quy trình triển khai hợp nhất, sáp nhập các tổ chức kinh doanh chứng
khoán; quy trình thực hiện thủ tục thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động của tổ
chức kinh doanh chứng khoán; sửa đổi quy chế thành viên của Sở giao dịch chứng
khoán liên quan đến hợp nhất, sáp nhập tổ chức kinh doanh chứng khoán.
• Triển khai Quy chế quản trị rủi ro, quy chế phân loại, xếp hạng tổ chức kinh doanh
chứng khoán cùng các quy định pháp luật hiện hành nhằm phân loại, có biện pháp
thích hợp đối với từng nhóm.
IV. TÁI CẤU TRÚC CƠ SỞ NHÀ ĐẦU TƯ
1. Thực trạng chung về cơ sở nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
Các nhà đầu tư tham gia mua bán trên TTCK về cơ bản đều có mục đích chung là tìm
kiếm lợi nhuận. Ngoài ra họ cũng có thể xuất phát từ những mục đích khác như để nắm
giữ quyền quản lí công ty (khi mua cổ phiếu thường của các công ty), ổn định nền kinh
tế, thực hiện các chính sách phát triển (đối với Chính phủ),… Thực tế, hiện nay các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam bao gồm:
1.1. Các hộ gia đình
14
Các chủ thể này là những đơn vị kinh tế cơ bản, chủ yếu là những nhà đầu tư không
chuyên nghiệp trên TTCK. Họ có thể đầu tư vào những chứng khoán an toàn, có mức rủi
ro rất thấp như trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngân hàng trung ương,… hoặc những loại
chứng khoán tuy có độ an toàn thấp hơn nhưng lại mang đến những khoản thu nhập cao

hơn như trái phiếu công ty, cổ phiếu, chứng khoán phái sinh,…
1.2. Chính phủ và chính quyền địa phương
Chính phủ và chính quyền địa phương tham gia đầu tư trên TTCK bằng những khoản
dư thừa tiền mặt do sự sai lệch về thời gian thu thuế cùng các khoản thu khác so với thời
gian cần chi tiêu, hoặc do nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ hưu trí dùng để đảm bảo lương hưu
cho viên chức.
1.3. Các doanh nghiệp
a/ Các định chế nhận tiền gửi
Các định chế nhận tiền gửi gồm các ngân hàng thương mại và các định chế nhận tiền
gửi tiết kiệm. Các chủ thể này sử dụng nguồn vốn huy động được từ thị trường để tham
gia mua bán trên TTCK. Các nguồn đó bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kì hạn,
tiền gửi thanh toán, Hàng hóa thường được các chủ thể này giao dịch đó là những loại
chứng khoán an toàn như chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương.
b/ Các công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm chủ yếu cung ứng các dịch vụ bảo vệ khách hàng của mình khỏi
những rủi ro nhất định. Họ thu phí bảo hiểm để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục vụ cho
mục đích bồi thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước khi bồi
thường nên công ty bảo hiểm có một khoảng thời gian từ dưới 1 năm cho đến hàng chục
năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ này khi chưa dùng để bồi thường sẽ được
đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, và nhiều loại hình khác.
1.4. Các nhà đầu tư nước ngoài
Nhóm này gồm các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ, ngân hàng nước ngoài hoặc tổ
chức đa quốc gia tham gia vào thị trường chứng khoán trong nước.
Từ khi TTCK mới được thành lập, số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng
đông đảo bao gồm cả các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài. Từ
gần 3.000 tài khoản nhà đầu tư khi mở cửa thị trường năm 2000 lên gần 1.300.000 tài
khoản vào năm 2013, trong đó các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò vô cùng quan trọng.
Đến cuối năm 2013, có khoảng 16.700 nhà đầu tư nước ngoài với gần 12 tỷ USD tổng tài
15
sản, trong đó NĐTTC chiếm gần 14% nhưng nắm giữ tới 99% tổng danh mục đầu tư của

các nhà đầu tư nước ngoài.
Tỷ trọng tham gia TTCK của các NĐT trong nước còn thấp với khoảng 100.000 tỷ
đồng quản lý bởi các công ty quản lý quỹ, trong đó khoảng 75% lượng vốn này đầu tư
vào chứng khoán, phần còn lại vào các tài sản khác, chủ yếu là công cụ tiền tệ, hiện chưa
có quỹ hưu trí. Sản phẩm liên kết còn rất ít và đã được tính vào trong phần ủy thác cho
các công ty quản lý quỹ nêu trên.
Giá trị tài sản của NĐTTC cả trong và ngoài nước ở thời điểm cuối năm 2013 ước đạt
khoảng 11% GDP, thấp hơn một số quốc gia khác trong khu vực, ví dụ tại Malaysia và
Thái Lan lần lượt khoảng 66% và 22% GDP.
Sự tham gia của đông đảo của nhà đầu tư cá nhân đã mang lại một số ảnh hưởng tích
cực, trước hết giúp TTCK nhanh chóng trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền
kinh tế, đặc biệt cho hoạt động cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và huy
động vốn cho ngân sách nhà nước, mặc dù hệ thống tài chính, ngân hàng còn chưa phát
triển.
Tuy nhiên, TTCK Việt Nam vẫn còn là một thị trường non trẻ, hoạt động chưa hiệu
quả, chưa đi vào trật tự so với đa số các TTCK ở những nước đang phát triển trong và
ngoài khu vực. Thực tế cho thấy, sự tham gia các nhà đầu tư của Việt Nam còn thiếu tính
chuyên nghiệp, không kể đến những nhà tạo lập thị trường vẫn chưa phát huy được sức
mạnh của mình nhằm tăng cầu các công cụ tài chính trên TTCK. Mặt khác, dựa theo sự
ra đời và phát triển của TTCK ở các quốc gia khác, việc thiếu vắng những nhà đầu tư tổ
chức chuyên nghiệp là vấn đề cần quan tâm vì đây chính là cơ sở để TTCK phát triển bền
vững và ổn định. Điều này có những tác động tiêu cực sau đây:
• TTCK biến động nhanh, mạnh và bất thường do tâm lý của các nhà đầu tư cá nhân
với mức tiết kiệm thấp, đầu tư theo phong trào và với kỳ hạn ngắn. Các nhà đầu tư
này dễ bị tổn thương, gây khó khăn cho việc huy động vốn, cổ phần hóa các
DNNN và là yếu tố khiến TTCK chưa thể phát triển bền vững.
• Kinh nghiệm và sự hiểu biết của công chúng đầu tư còn chưa cao, đặc biệt là nhận
thức hạn chế về quyền của cổ đông trong các vấn đề liên quan tới quản trị công ty
đôi khi gián tiếp làm giảm hiệu quả hoạt động của DN.
• Thực trạng cơ sở nhà đầu tư nêu trên cũng gây nhiều áp lực cho các cơ quan quản

lý nhà nước trong hoạch định và điều hành các chính sách phát triển ngành và
chính sách kinh tế vĩ mô.
2. Nội dung tái cấu trúc
16
Theo Quyết định số 1826/QĐ – TT ban hành ngày 06/12/2012 về Phê duyệt đề án
“Tái cấu trúc thị trường chứng khoán và doanh nghiệp bảo hiểm”, các giải pháp và lộ
trình thực hiện tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư được hướng dẫn cụ thể như sau:
Giải pháp
a) Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, tập trung phát triển nhà đầu tư tổ chức, chuyên
nghiệp, nhằm tạo sức cầu ổn định, giúp thị trường phát triển lành mạnh, bền vững; củng
cố lòng tin và khuyến khích nhà đầu tư cá nhân tích cực tham gia thị trường, tăng thanh
khoản cho thị trường, gồm có:
- Hoàn thiện khung pháp lý hướng dẫn đồng bộ các sản phẩm quỹ đầu tư chứng khoán
dành cho các loại hình nhà đầu tư khác nhau, các quỹ đầu tư đa mục tiêu kết nối với thị
trường trái phiếu/thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản;
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để triển khai thí điểm quỹ hưu trí tự
nguyện, quỹ hưu trí bổ sung;
- Nghiên cứu cơ chế, chính sách thuế nhằm khuyến khích hoạt động của các loại hình
quỹ đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các sản phẩm quỹ mới; nghiên cứu chính sách về
thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán căn cứ trên thời hạn đầu tư, hình thức đầu
tư, sản phẩm đầu tư;
- Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật thị trường bao gồm hệ thống giao dịch, hệ thống đăng ký
lưu ký, thanh toán bù trừ, hệ thống công bố thông tin, hệ thống giám sát tạo sự tiện lợi
trong hoạt động giao dịch, thanh toán của nhà đầu tư;
- Triển khai thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế công bố thông tin, nâng
cao chất lượng thông tin công bố, tăng cường tính minh bạch trên thị trường chứng
khoán, kiên quyết xử lý nghiêm các hiện tượng thao túng, gian lận, lừa đảo, tạo dựng và
công bố thông tin sai lệch trên thị trường chứng khoán;
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, phổ cập kiến thức và thông tin tuyên truyền
cho công chúng đầu tư, nâng cao nhận thức xã hội về chứng khoán và thị trường chứng

khoán;
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm
pháp luật trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là hành vi giao dịch nội bộ, lừa đảo, tạo
dựng và công bố thông tin sai sự thật, thao túng giá.
b) Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trung và dài hạn, góp phần phát triển thị
trường chứng khoán, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, bổ sung nguồn vốn đầu tư cho
17
sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước; nâng cao năng lực, khả năng cạnh
tranh và quản trị rủi ro của hệ thống tài chính ngân hàng và nền kinh tế, tăng cường
công tác quản lý, giám sát và có giải pháp phù hợp, kịp thời để chủ động đối phó với
biến động của dòng vốn này:
- Nghiên cứu điều chỉnh quy định về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài tại các
doanh nghiệp Việt Nam; mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo các cam kết quốc
tế, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta và lộ trình phát triển thị trường chứng
khoán;
- Phân định rõ hoạt động đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp; giải quyết mối quan hệ
giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài, trong đó có cơ chế
chuyển đổi từ doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang công ty cổ phần để
niêm yết;
- Xây dựng cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài dễ tiếp cận thị trường chứng khoán Việt Nam;
- Áp dụng các giải pháp kỹ thuật nhằm thu hút dòng vốn đầu tư trung và dài hạn, kiểm
soát dòng vốn ngắn hạn; giám sát và chủ động có giải pháp xử lý tình huống đối với dòng
lưu chuyển vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài theo Đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài.
Lộ trình thực hiện
a) Năm 2012 - 2014:
- Ban hành quy định, hướng dẫn triển khai các loại hình quỹ đầu tư mới; xây dựng
cơ chế thuế hợp lý khuyến khích các sản phẩm quỹ mới; nghiên cứu triển khai thí điểm
quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung;

- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài; mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán theo cam kết WTO; rà soát các quy định
pháp luật về đầu tư, từng bước nâng tỷ lệ sở hữu, tiến tới dỡ bỏ hạn chế sở hữu đối với
nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp nhà nước không cần chi phối;
- Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy
định của pháp luật trên thị trường chứng khoán.
b) Năm 2015: Hiện đại hóa hạ tầng công nghệ thông tin thị trường, bao gồm hệ thống
giao dịch; hệ thống giám sát; hệ thống đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ; hệ thống công
bố thông tin.
18
KẾT LUẬN
Sự phát triển của thị trường chứng khoán luôn được coi là kênh rất quan trọng để thu
hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài cho nền kinh tế; đồng thời cũng là nơi luân
chuyển các nguồn vốn đầu tư, nâng cao khả năng sử dụng vốn có hiệu quả cũng như nâng
cao năng lực quản trị doanh nghiệp, tăng tính công khai, minh bạch hoạt động của doanh
nghiệp cũng như nền kinh tế, đặc biệt đối với Việt Nam chúng ta đang trong quá trình tái
cấu trúc lại nền kinh tế và việc hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới thì việc phát
triển nhanh, bền vững TTCK có ý nghĩa rất thiết thực để hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải
cách nền kinh tế.Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có một năm 2013 “vượt bão” khá
thành công và là một trong 10 thị trường có tốc độ phục hồi mạnh nhất thế giới. Bước
sang năm 2014, trong bối cảnh tình hình kinh tế, tài chính thế giới và trong nước dự báo
tiếp tục có những khó khăn, UBCKNN tiếp tục tích cực, chủ động triển khai các giải
pháp, nhiệm vụ nhằm triển khai tái cấu trúc TTCK theo Đề án tái cấu trúc thị trường
chứng khoán đã được phê duyệt và Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020.
19
CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT:
SGDCK: Sở Giao Dịch Chứng Khoán
CTCK: Công ty chứng khoán
CTCP: Công ty cổ phần
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước

NĐT: Nhà đầu tư
TTCK: Thị trường Chứng khoán
NHTM: Ngân hàng thương mại
DN: Doanh nghiệp
TTLKCK: Trung tâm lưu ký Chứng khoán
CÁC NGUỒN THAM KHẢO
Vneconomy.com
Cafef.vn
Hnx.vn
Hsx.vn
Fpts.com.vn
20

×