Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

CÁC NGHI lễ bảo vệ cây TRỒNG của NGƯỜI H’MÔNG ở cát cát, SAN sả hồ, SAPA, lào CAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.07 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
CÁC NGHI LỄ BẢO VỆ CÂY TRỒNG CỦA NGƯỜI H’MÔNG Ở
CÁT CÁT, SAN SẢ HỒ, SAPA, LÀO CAI

CÁC NGHI LỄ BẢO VỆ CÂY TRỒNG CỦA NGƯỜI H’MÔNG Ở
CÁT CÁT, SAN SẢ HỒ, SAPA, LÀO CAI
1. Những cây trồng chính và lịch sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt
của người H’mơng ở Cát Cát
Nguồn sống chính của đồng bào H’mơng ở Cát Cát là dựa vào hoạt động
nơng nghiệp chính vì vậy nên phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Những cây
trồng, lịch sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của đồng bào H’mông ở San Sả Hồ
đều bị chi phối và quy định bởi những điều kiện tự nhiên như: địa hình, khí hậu
thời tiết ở đây. Nó đã quy định và hình thành nên các loại giống cây trồng đặc
trưng ở Cát Cát nói riêng và Sa Pa nói chung. Đa phần là các loại cây của sứ lạnh
như lê, mận, đào, thảo quả. Những cây tròng ưa nhiệt chỉ sản xuất được vào
những tháng mùa hè. Các loại cây trồng chính ở Cát Cát là những loại cây sau:
+Cây lương thực, thực phẩm: lúa, ngô, đậu, đỗ tương, dưa chuột, bí đỏ, su
su…
+Cây ăn quả: táo, lê, mận, đào.
+Cây nguyên liệu dệt: lanh, chàm.

1


+Cây thuốc: thảo quả.
Ngoài ra với những đặc điểm và khí hậu riêng biệt của vùng núi cao nên
nó đã quy định lịch canh tác nông nghiệp và nương rẫy ở vùng Sa Pa khác với
các vùng khác trong cả nước. Những vùng thấp khí hậu nóng hơn nên người ta
có thể canh tác nhiều vụ trong năm. Cịn đối với Sa Pa khí hậu mang tính chất ơn
đới nên dù canh tác nương rẫy hay trồng lúa nước thì người H’mông ở đây cũng
chỉ sản xuất được một vụ trong năm. Vào những tháng mùa khô vừa thiếu nước


vừa lạnh giá nên cây trồng không thể phát triển được. Vì vậy lịch nơng nghiệp và
sinh hoạt của đồng bào ở đây có nhịp điệu như sau:
+Tháng 1 đến đầu tháng 2 là những tháng nông nhàn, người dân ăn tết,
vui xuân là chính.
+Từ giữa tháng 2 đến tháng 4 là chuẩn bị đất gieo trồng. Người ta làm
những việc như sau: chọn đất, phát nương, đốt nương, cày nương, cày ruộng
+Từ tháng 4 đến tháng 5 gieo trồng các loại lúa, ngô (tra lúa nương, gieo
mạ cấy lúa ruộng, trồng ngơ)
+Từ tháng 6 đến tháng 8: sau khi hồn thành việc gieo trồng người dân bắt
tay vào công việc chăm sóc cây lương thực.
+Tháng 9, tháng 10 là thời điểm thu hoạch lúa, ngô.
+Tháng 11, tháng 12 là thời điểm nghỉ ngơi tổ chức các hoạt động sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng như: cưới xin, làm ma khơ, làm nhà…
Nhìn chung đồng bào dân tộc H’mơng ở đây có nhịp điệu sống lúc khẩn
trương, lúc gấp gáp, đôi khi thong thả nông nhàn. Thời điểm bận rộn nhất của
đồng bào là từ tháng 2 đến tháng 6, hết đi phát nương, làm đất, lại gieo trồng.
Đến đầu tháng 6 mới hoàn thành việc gieo trồng. Sau khi kết thúc việc gieo trồng
là thời điểm tương đối nông nhàn, người dân lại tiếp tục chăm sóc lương thực,
gieo trồng và thu hoạch hoa màu. Chỉ đến khi thu hoach xong vào tháng 9, tháng
10 mới là thời điểm nông nhàn trong năm. Lúc này đồng bào mới tổ chức lễ hội,
sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng. Tuy nhiên đối với các nghi lễ bảo vệ cây trồng thì
lại tiến hành vào các thời kì sinh trưởng của cây. Xuất phát từ quan niệm có thần
thánh, có ma bảo vệ cây trồng vật nuôi nên bắt đầu từ tháng 4 khi gieo trồng đến

2


tháng 10 sau khi thu hoạch xong, ứng với mỗi thời kì sinh trưởng, phát triển của
cây đồng bào đều có những nghi lễ cầu cúng để nhằm bảo vệ cây trồng.
2. Cây ngơ ( pị cừ)

Khi nói đến việc trồng ngô trên núi cao là người ta nghĩ ngay đến dân tộc
H’mơng. Có thể nói đây là một loại cây gắn liền với hình ảnh dân tộc H’mơng từ
xưa đến nay. Ngô là một loại cây quan trọng trong đời sống của người H’mông.
Khi mà lúa chưa cung cấp đủ cho đời sống của người H’mơng thì mèn mén
được chế biến từ hạt ngơ là đồ ăn chính của họ. Ngơ dễ trồng và thích nghi với
nhiều loại đất. Từ đất phù sa ở đồng bằng đến đất feralit đỏ vàng, đất mùn trên
núi cao ngơ đều thích ứng được. Với đồng bào H’mông ở Cát Cát cây ngô đã gắn
bó từ nhiều đời nay.
Với bản tính cần cù chịu khó và kinh nghiệm lâu năm canh tác trên vùng
núi cao người H’mơng ở Cát Cát có nhiều kinh nghiệm trồng ngô trên những khu
đất dốc. Khi chọn đất làm nương ngô đồng bào thường chọn những khu đất màu
mỡ. Đất khơng nhất thiết là phải đen, có thể là màu vàng nhưng phải tơi xốp, hơi
ẩm. Cây cỏ mọc trên đó phải xanh tốt. Vào giữa tháng 2 sau những tháng nghỉ
ngơi, người ta bắt đầu đi tìm đất để trồng ngơ. Như trước đây khi đất cịn màu
mỡ thì người ta chỉ phát xong đốt và có thể tra hạt không trải qua công đoạn cày
như bây giờ.
Khi mà nhà nước chưa có giống ngơ lai thì ở Cát Cát đồng bào dân tộc
H’mông vẫn trồng loại ngơ truyền thống. Giống ngơ truyền thống của đồng bào
có hai loại ngơ nếp (pị cừ pẩu ) và ngơ tẻ ( pị cừ xơ ). Ngơ tẻ có màu vàng và
màu trắng hay cịn gọi là ngơ răng ngựa. Ngơ nếp chỉ có màu trắng. Các giống
ngơ truyền thống thường có thời gian sinh trưởng dài khoảng 3 tháng 20 ngày.
Tuy năng suất không cao nhưng ăn ngon hơn. Bắp ngô bé, hạt ngô ngắn, thưa
hạt, nhiều mày và lõi to đã làm cho giống ngô truyền thống năng suất thấp. Cây
ngô cao, lá dai, và cho ra bắp muộn hơn ngô lai khoảng 15 đến 20 ngày. Trước
đây đồng bào trồng giống ngô này thường không hay bị bệnh. Ưu điểm lớn nhất
của giống ngô này là ăn ngon hơn và bảo quản được lâu hơn. Ngô này có thể để
năm này qua năm khác mà khơng sợ mọt ăn. Chính vì thế đồng bào vẫn ưa thích
trồng ngô truyền thống.

3



Hiện nay nhà nước đã đưa giống ngô lai vào sản xuất. Hầu hết đồng bào
H’mông ở đây đều chuyển sang trồng ngô lai. Giống ngô mới cho năng xuất cao
hơn, thời gian sinh trưởng ngắn hơn nhưng ăn lại khơng ngon như ngơ truyền
thống, phải chăm sóc kĩ hơn. Vì vậy bên cạnh nương ngơ lai người dân ở đây
vẫn trồng ngô truyền thống. Giống ngô lai tuy năng suất nhưng lại không để
được lâu, hay bị mọt ăn. Đồng bào thường phải sử dụng hết trong một năm hoặc
bán đi ngay sau khi thu hoạch.
Vào tháng 2 hàng năm đồng bào bắt đầu phát nương (lùa tề) để chuẩn bị
đất cấy ngô. Phát nương là công việc nặng nhọc nên người đàn ơng trong gia
đình sẽ đóng vai trị chính. Bên cạnh đó phụ nữ và trẻ em cũng giúp sức bằng
việc chặt những cây nhỏ hoặc cành lá. Theo kinh nghiệm của đồng bào thì sẽ
phát từ dưới lên cao. Đầu tiên họ sẽ phát cây nhỏ trước sau đó mới phát cây to.
Dụng cụ để phát nương thường là dao phát và dao nhọn. Dao phát để phát những
cây nhỏ và cỏ. Còn dao nhọn dùng để chặt những cây to. Bây giờ người dân làm
nương định canh thì chỉ phát lại nương cũ năm ngối đã trồng nên đỡ mất công
sức hơn nhiều. Sau khi dọn sạch cỏ ở trên nương thì họ bắt tay vào cày nương.
Đồng bào ở đây có nhiều kinh nghiệm cày nương dốc có nhiều rễ cây và đá. Họ
đã tự rèn ra được lưỡi cày vừa sắc vừa khoẻ để có thể cắt được những rễ cây
rừng và khi gặp đá không bị hỏng lưỡi cày. Người đàn ông H’mông khéo léo
điều khiển con trâu và lựa mũi cày tránh được những hòn đá to. Trên những
nương dốc khi người ta nhìn vào tưởng chừng như khơng thể trồng cấy gì được
trên đó nhưng người H’mơng lại có thể điều khiển con trâu và cày một cách dễ
dàng.
Vào khoảng tháng 4, đồng bào H’mông bắt đầu trồng ngô trên nương. Khi
đó khí hậu ở Cát Cát bắt đầu ấm lên, cái lạnh và sương mù bắt đầu lùi dần
nhường chỗ cho những đợt nắng ấm và những cơn mưa đầu mùa. Khí hậu khơng
những ấm lên tạo điều kiện cho hạt ngô nảy mầm mà những đợt mưa khiến cho
đất có đủ độ ẩm giúp cây ngơ phát triển tốt hơn. Trước đây đồng bào H’mông

thường chú ý khi những cây rừng bắt đầu đâm chồi thì cũng là lúc mùa trồng cấy
bắt đầu. Khi đất rừng còn màu mỡ trồng ngô họ chỉ phát đốt, rồi lấy gậy gỗ chọc
lỗ tra hạt. Người đàn ông đi trước cầm gậy chọc lỗ còn người phụ nữ đi sau một
tay cầm túi hạt giống, một tay thả hạt ngô xuỗng lỗ, chân thì lấp đất. Gậy chọc lỗ

4


đó người ta thường chọn những cây rừng vừa cứng và đủ nặng để khi đâm xuống
đất có thể tạo lỗ để tra hạt.
Ngày nay do đất đã bạc màu và được các cán bộ nông nghiệp hướng dẫn
kĩ thuật trrồng ngô nên cách trồng ngô đã khác trước. Họ đã cày nương và có
những gia đình cịn bừa đất cho kĩ mới bắt đầu trồng. Trước đây chọc lỗ tra hạt
thì nay họ đã dùng cày, cuốc tạo hốc sâu để thả hạt ngô vào. Những khu đất
không dốc lắm thì người đàn ơng trong gia đình dùng trâu cày thành các đường
rãnh. Mỗi rãnh cày họ ước chừng cách nhau khoảng 60 đến 70 cm. Người phụ
nữ, con cái theo sau rãnh cày, người thì bỏ phân, nguời thì bỏ hạt ngơ. Người bỏ
phân và hạt cũng phải ước chừng bỏ mỗi hạt cách nhau một khoảng từ 25 đến 30
cm. Trước đây chưa có sự hướng dẫn của cán bộ thì đồng bào thường có thói
quen trồng nhiều hạt ngô trong một gốc, thường là 3, 4 hạt một gốc và gốc cách
gốc, hàng cách hàng thường gần nhau. Vì theo quan niệm của họ thì nhiều cây sẽ
nhiều bắp, sẽ cho năng suất cao. Nhưng càng nhiều cây trong một gốc cây sẽ
không phát triển được và bắp ngô sẽ bé và nằng suất sẽ thấp. Ngày nay thì thói
quen đó đã thay đổi, mỗi gốc chỉ một hạt, thi thoảng mới bỏ hai hạt để đề phịng
hạt khơng mọc hoặc bị dế ăn. Gốc cách gốc cũng xa hơn để tạo điều kiện cho cây
ngô phát triển.
Khi trồng ngô theo quan niệm của đồng bào thường phải chọn ngày. Với
mong ước có cộc sống no đủ, đồng bào cho rằng khi chọn ngày tốt cây ngô sẽ
phát triển tốt và cho bắp to, nhiều hạt, mùa ngơ sẽ bội thu. Tuy nhiên với mỗi
dịng họ lại có những quan niệm khác nhau nên cách chọn ngày và kiêng kị khi

trồng ngơ cũng có sự khác nhau.
Dịng họ Má (Mã) kiêng trồng ngơ vào những ngày mất của tổ tiên và
ngày sinh của chủ nhà. Theo dịng họ này thì khi tra hạt ngơ vào những ngày
này sẽ không tốt, ngô sẽ không mọc mà khi mọc thì cây ngơ cịi cọc, bắp bé.
Ngồi ra họ Mã còn kiêng ngày con chuột. Theo quan niệm của họ thì chuột là
một lồi chun phá hoại ngơ, lúa nếu trồng ngô vào những ngaỳ này sẽ bị chuột
ăn hết ngô, không được thu hoạch. Họ Mã kiêng cả những ngày có sấm sét trong
năm thì cũng khơng trồng ngơ. Ví dụ ngày 13 tháng 7 có sấm sét thì tất cả những
ngày 13 trong năm khơng trồng ngơ. Vì theo quan niệm của dịng họ Mã thì
trồng ngơ vào những thì ngơ sẽ bị đỏ, ngơ mọc khơng đều, khi ra bắp khơng có

5


hạt. Họ Mã thường chọn những ngày con gà, con ngựa để trồng ngơ. Họ giải
thích rằng những con vật này chạy nhanh nếu trồng ngô vào những ngày này
ngô sẽ lớn nhanh như chúng chạy và ra bắp sẽ to. Như vậy ta có thể thấy sự
kiêng kị của dòng Mã đa phần dựa trên những đặc điểm của con vật mà họ chọn
ngày.
Dịng họ Vàng thì lại có những quan niệm chọn ngày khác với dòng họ
Mã và có những lí giải riêng. Họ Vàng thường chọn hững ngày con gà, con
ngựa, con chó để trồng ngơ. Theo họ Vàng thì những ngày này là những ngày
tốt, trồng ngô vào những ngày này ngô sẽ mọc tốt, không bị các con vật phá
hoại, ra bắp to, hạt dày. Họ Vàng kiêng những ngày như con chuột, con lợn
không trồng ngơ. Theo quan niệm của họ Vàng thì những ngày đó là ngày khơng
tốt, khơng hay. Nếu trồng vào những ngaỳ này sẽ bị con chuột con lợn ăn mất
hạt. Ngoài ra họ kiêng cả ngày con hổ. Họ cho rằng con hổ là con hay đi phá
hoại, làm hại cả con người, trồng ngô vào ngày con hổ thì nương ngơ sẽ bị phá
hoại.
Dịng họ Lù thì kiêng ngày con gà con ngựa, con rồng. Theo họ Lù thì

trồng ngơ vào những ngày này sẽ khơng tốt, ngơ sẽ chết và bị thất thu. Ngoài ra
trồng vào những ngày nào cũng được.
Khi đã chọn được ngày thích hợp thì cả gia đình cùng đi trồng ngơ. Ngồi
chọn ngày theo quan niệm tâm linh đồng bào còn chú ý chọn ngày râm mát, đặc
biệt là những ngày mà ngày hơm trước có mưa, lúc đó đất cịn ẩm sẽ tạo điều
kiện cho hạt ngô nảy mầm. Ngày đầu tiên trồng ngơ ơng chủ gia đình sẽ trồng
trước vài gốc rồi cả gia đình cùng trồng. Họ sẽ tiến hành trồng từ trên cao xuống
thấp. Làm như thế những hạt ngô vừa trông không bị dẫm lên, đất không bị dí
q, ngơ sẽ dễ nảy mầm hơn. Sau khi cuốc hố đồng bào sẽ bỏ phân trực tiếp vào
các hố và lấp một lớp đất mỏng phủ số phân vừa bỏ. Khi bỏ hạt ngô xuống, ngô
không tiếp xúc trực tiếp với phân, không bị thối hạt.
Khi ngô mọc được 3,4 lá thì đồng bào bắt đầu bỏ phân bón thúc đợt một.
Trước đây thì khơng có phân hố học như bây giờ thì đồng bào chỉ làm sạch cỏ
cho ngơ và vun đất vào gốc ngơ. Ngày nay thì đồng bào H’mơng ở đây bón phân
hố học, và làm cỏ xới đất tạo độ thơng thống cho đất giúp cây ngô dễ phát

6


triển. Khi ngô được 7 đến 9 lá đồng bào tiến hành làm lại cỏ và vun đất vào gốc
để cho các rễ phụ của cây ngơ ra có chỗ bám chắc và hút chất dinh dưỡng nuôi
cây chuẩn bị ra bắp đồng thời khi gặp mưa gió cây ngơ không bị đổ. Lúc làm cỏ
đợt hai này họ cũng bón thêm phân hố học. Những gia đình cẩn thận sẽ làm cỏ,
bón phân, vun gốc 3 lần. Lần bón phân thứ 3 khi ngô chuẩn bị trổ cờ. Nhưng đa
phần các gia đình chỉ làm cỏ và bón phân 2 lần. Lần thứ ba ít được người ta quan
tâm. Ở Cát Cát hiện nay khi bón phân cho ngơ họ chỉ dùng phân hố học khơng
dùng phân chuồng như ở Si Ma Cai.
Đến khi ngô bắt đầu vào mẩy hay bị chim chóc và thú rừng về ăn phá hoại
thì đồng bào làm lều canh trên nương. Có nhiều gia đình họ đã làm lều từ khi bắt
đầu cấy ngô vừa để trông nương vừa làm chỗ nghỉ ngơi, ăn cơm trưa khi đi làm.

Trước đây làm nương du canh thì nương cách nhà khá xa có khi đi hàng nửa
ngày đường thì họ làm lều để ở ln trong những ngày đi trồng và chăm sóc ngơ.
Những cây cỏ dại mọc ven nương ngô được phát sạch để tránh những cây ngơ
gần đó bị cớm nắng, bắp ngơ sẽ không to.
Vào khoảng tháng 8, tháng 9 ngô bắt đầu được thu hoạch. Ở Cát Cát bên
cạnh ngô tẻ đồng bào thường trồng nhiều ngô nếp để luộc bán cho khách du lịch.
Trước khi muốn hái ngô về luộc ăn hay bán, đồng bào thường chọn những bắp
ngô to, đẹp nhất vừa độ chín để luộc thắp hương tổ tiên, với mục đích là mời tổ
tiên về ăn trước. Sau đó họ mới h ngơ để ăn hoặc bán.
Tên gọi của lễ cúng này là lễ mời tổ tiên về ăn ngơ mới (hù pù dìa)
Thời gian: Người ta không chọn ngày cụ thể để làm mà chỉ thấy khi ngơ
được ăn thì mời tổ tiên ăn trước. Họ thấy tiện ngày nào thì làm ngày đó.
Địa điểm: Lễ mời tổ tiên ăn ngô này được diễn ra tại gia đình.
Mục đích lễ cúng: Lễ này mục đích chỉ là mời tổ tiên về ăn ngô, và cầu
mong tổ tiên phù hộ cho vụ ngô sau được bội thu, bắp ngô to, hạt ngô dày, không
bị các con vật phá hoại. Lễ cúng này thể hiện sự tưởng nhớ, thành kính của con
cháu tới tổ tiên. Nó cũng tương tự như người Kinh cúng tổ tiên vào mùng một và
15 hoặc trong gia đình có hoa quả gì trồng được thì hay thắp hương mời tổ tiên
ăn trước. Người H’mông quan niệm tổ tiên là ma lành luôn phù hộ cho con cháu
khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, gia súc đầy chuồng nhưng đôi khi ma tổ tiên

7


cũng tức giận về trách phạt con cháu khi mà con cháu khơng chú ý, quan tâm,
làm phật lịng ma tổ tiên. Chính vì thế lễ cúng này nhằm mục đích mời tổ tiên về
ăn ngơ trước con cháu và mong tổ tiên phù hộ cho vụ ngô sau được tốt hơn.
Lễ vật: Lễ vật dùng để cúng tổ tiên duy nhất chỉ có ngơ luộc. Ngồi ra
khơng có bất kì một món ăn hay vàng hương gì khác.
Người chủ lễ: là ơng chủ gia đình. Điều này xuất phát từ quan niệm phân

công công việc của người H’mông là: người đàn ơng chủ trì mọi lễ cúng trong
gia đình, đảm nhiệm mọi công việc liên quan đến tâm linh, đại diện cho gia đình
khi tham gia cơng việc xã hội…; Cịn người đàn bà thì cơng việc chính của họ là
làm nương, chăm sóc gia đình, những lễ cúng người đàn bà khơng làm chủ lễ….
Chính vì quan niệm trên mà người chủ lễ phải là người đàn ông trong gia đình.
Ơng đại diện cho gia đình mời ma tổ tiên về ăn ngơ mới.
Q trình chuẩn bị cho lễ cúng: Người đi hái ngô về luộc thường là ông bà
chủ gia đình. Sau khi luộc xong ông chủ gia đình sẽ bỏ những bắp ngơ đó vào
một cái bát to hoặc một cái rổ đặt trước bàn thờ.
Cách hành lễ: Ơng chủ gia đình ngồi trên một chiếc ghế trước bàn thờ bắt
đầu lầm rầm mời tổ tiên về ăn ngô mới. Vừa mời tổ tiên về ăn ông chủ gia đình
vừa tẽ từng hạt ngô ra. Nhìn từ xa tưởng như ơng đang trị chuyện thủ thỉ cùng tổ
tiên. Ơng chủ gia đình sẽ mời từng vị tổ tiên về ăn ngô, đọc tên theo thứ tự từ
cao xuống thấp. Mỗi dòng họ lại mời các đời tổ tiên khác nhau. Dịng họ Mã, họ
Thào (quả) thì mời 4 đời gồm: Ông bà, bố mẹ, thế hệ ngang bằng, thế hệ con.
Nhưng dòng họ Vàng, họ Lù, Họ Thào (bố) lại gọi có 3 đời về. Ơng chủ gia đình
cứ mời lần lượt các vị tổ tiên về sau khi mời xong thì lễ cúng mới kết thúc.
Những bắp ngô dùng để cúng tổ tiên mọi người trong nhà cùng nhau ăn.
Những hạt ngô tẽ ra để lên bàn sẽ được cho gà ăn. Sau lễ cúng này thì mọi người
trong gia đình được hái ngơ ăn và bán thoải mái. Tuy lễ thức diễn ra đơn giản
nhưng nó thể hiện sự kính trọng, tưởng nhớ tới tổ tiên, cầu mong tổ tiên phù hộ
cho vụ ngô sau được mùa hơn vụ ngô năm nay.
Vào khoảng cuối tháng 7 đầu tháng 8 khi mà những bắp ngô đã khơ vỏ áo
ngồi là báo hiệu ngơ đã được thu hoạch. Do diện tích ngơ của mỗi nhà nhiều
nên đồng bào thường thu ngơ (sâu pị cừ) theo hình thức đổi công cho nhau.

8


Mỗi buổi đi đổi công do nương ở xa nhà và để tiết kiệm thời gian nên buổi trưa

họ ăn cơm tại nương, chiều làm tiếp. Khi đi đổi công ai cũng mang theo phần
cơm trưa của mình, làm như thế gia đình chủ nhà khơng tốn cơng chuẩn bị cơm
cho mọi người. Cứ như thế họ làm lần lượt cho từng gia đình. Gia đình nào ngơ
chín trước thì họ sẽ cùng nhau thu hoạch ngơ nhà đó trước.
Những bắp ngô giống sẽ được chủ nhà tự tay lựa chọn và thường là bà chủ
nhà. Họ sẽ lựa chọn những bắp ngô to, hạt dày, không bị thối mốc để làm giống.
Những bắp ngô giống sẽ được để riêng và họ chỉ bóc một lớp áo mỏng bên ngồi
cịn lớp áo bên trong để lại và bóc ngược ra túm lại một đầu, cứ 4, 5 bắp họ buộc
lại một túm. Cịn những bắp ngơ để ăn bình thường thì họ bóc trần hết vỏ tại
nương cho vào gùi và gùi về nhà phơi. Trước đây để vận chuyển ngô về nhà
đồng bào dùng ngựa và gùi (lù cở ) mang ngơ về nhà. Ngày nay ngựa khơng cịn
được nuôi phổ biến và kinh tế đã phát triển hơn người ta đã thay ngựa bằng xe
máy để vận chuyển ngô.
Sau khi mang ngô về nhà họ phơi cho ngô khô và cho lên gác bếp bảo quản
để dùng dần. Bên trên chỗ bếp đun hàng ngày đồng bào H’mông thường làm một
sàn gác đan bằng phên tre bên dưới có xà gỗ đỡ dùng làm chỗ chứa ngơ. Theo
kinh nghiệm của đồng bào để ngô trên gác bếp như thế sẽ giúp ngơ ln khơ,
khơng bị mọt ăn vì bếp đun nấu ở phía dưới hàng ngày khói sẽ bay lên làm cho
mọt không thể ăn ngô được. Với khí hậu mùa đơng kéo dài, độ ẩm cao, ln có
sương mù nếu ngơ khơng để chỗ cao ráo như gác bếp thì ngơ dễ rất bị ẩm mốc.
Khói bếp cịn có tác dụng ln làm cho ngơ khơ khơng bị ẩm. Tuy nhiên người
ta cũng chú ý làm sàn cao không sát bếp để ngô không bị khô quá. Những bắp
ngô giống sẽ được treo cản thận hơn không để gần bếp quá dẽ bị khô quá khi
trồng ngô sẽ không nảy mầm và cũng không để cho bị ẩm ảnh hưởng đến chất
lượng của ngô giống. Giống ngô truyền thống của đồng bào thường để được lâu
hơn giống ngơ lai của nhà nước. Có thể để được từ 2 đến 3 năm. Cịn ngơ lai thì
chỉ để được trong vòng một năm, để lâu sẽ bị mọt.
Trước đây khi lúa không đủ ăn, bà con vẫn dùng ngô làm đồ ăn chính trong
gia đình. Ngơ để trên gác bếp khi nào ăn thì đồng bào lấy dần xuống tẽ ra và
dùng cối xay đá để xay ra ngô bột. Bột ngơ đó dưới bàn tay của người phụ nữ


9


trong gia đình sẽ trở thành món mèn mén (ngơ đồ) đặc biệt chỉ có ở người
H’mơng.
Ngơ là một loại cây gắn bó với người H’mơng từ xa xưa. Nó đã nuôi sống
người H’mông từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ở Cát Cát hiện nay người dân
khơng cịn ăn mèn mén nhưng cây ngô vẫn được người dân ưa trồng vừa để ăn
vừa để chăn nuôi. Giống ngô truyền thống vẫn được bà con trồng bên cạnh
nương ngô lai tuy số lượng khơng cịn nhiều như trước. Bên cạnh cây ngơ là cây
trồng khá quan trọng thì cây lúa ở Cát Cát được đánh gía là cây trồng quan trọng
nhất.
3. Cây lúa (chom plìa)
Cây lúa từ xưa đã gắn liền với những người dân miền xuôi. Việt Nam được
đánh giá là một trong những cáí nơi của cây lúa. Khi nhắc đến cây lúa là người
ta chỉ nghĩ đến người dân ở hai đồng bằng rộng lớn. Đó là đồng bằng sông Hồng
và đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng với người dân ở vùng cao thì cây lúa cũng
đóng vai trị khơng kém phần quan trọng. Nếu như ở đồng bằng nổi tiếng với
những cánh đồng thẳng cánh cị bay thì ở vùng cao lại nổi bật với những khu
ruộng bậc thang bao quanh các sườn đồi, sườn núi. Điển hình là những khu
ruộng bậc thang của người H’mơng. Cây lúa đã đóng vai trị quan trọng trong
đời sống của người H’mơng ở Cát Cát nói riêng và ở vùng cao nói chung.
Ở Cát Cát trước đây khơng chỉ có lúa nước ( plìa đê) trồng trên ruộng bậc
thang mà cịn có cả lúa nương ( plìa tê) trồng trên nương như trồng ngơ. Trước
đây khi đất cịn màu mỡ lúa cịn cho bơng to thì người dân vừa làm lúa ở ruộng
bậc thang vừa làm lúa ở trên nương. Khi nhà nước cấm phá rừng làm nương rẫy,
đất đã cằn lúa trồng trên nương không cho năng suất thì họ khơng trồng nữa.
Ngày nay ở Cát Cát khơng cịn trồng lúa nương. Lúa ở Cát Cát ngày nay chỉ có
lúa trồng trên ruộng bậc thang.

Theo quan niệm của đồng bào H’mơng ở đây thì giống lúa là do con chó
mang về. Con chó hay đi săn, chui rúc vào bờ bụi nên hay bị các hạt cỏ dại bám
vào lơng. Khi về đến nhà thì một số hạt rơi xuống gặp điều kiện thuận lợi đã nảy
mầm. Một thời gian sau người ta thấy những cây đó cho bơng, khi cắn ra thì thấy
ăn được. Từ đó người ta mới giữ lại và trồng cấy như bây giờ.

10


Trước đây có hai loại đó là lúa tẻ (plìa chồ) và lúa nếp (plìa pẩu ). Giống
lúa tẻ gồm có các loại sau: lửi khối (giống lúa này trồng ở nơi đất màu mỡ, ăn
ngon), nả lỉnh sí (trồng nơi đất nghèo dinh dưỡng, năng suất cao, ăn không
ngon), thóc đỏ (có màu đỏ, ăn khơ hơn lúa lai bây giờ nhưng lại có vị ngọt đậm
hơn, trồng ở chân ruộng bậc thang cao, ít màu mỡ, năng suất kém), thóc tàu bay
(Đây là giống lúa của Pháp thả xuống từ máy bay để nuôi sống những người làm
trong hệ thống tay sai của Pháp. Nhiều lúc không đùng nơi quy định rơi xuống
bản lảng của người H’mông và họ sử dụng giống lúa đó. Lúa đó cho năng suất
cao nhưng khơng ngon). Nhìn chung là giống lúa truyền thống có thân cao, thời
gian sinh trưởng dài hơn khoảng 20 ngày. Gié lúa thưa, vỏ hạt thóc dày hơn,
nhiều lơng hơn so với lúa lai. Vì vậy năng suất kém. Ngày trước trồng lúa đồng
bào rất ít khi gặp phải sâu bệnh. Giống lúa nếp truyền thống có các loại sau: pẩu
la và pẩu pang trang. Pẩu la trồng ở nơi đất tốt, màu mỡ, cần nhiều phân bón.
Khi nấu thành xôi rất ngon, thơm dẻo. Pẩu pang trang trồng ở nơi đất khơ ít màu
mỡ, ít phân bón, năng suất thấp, ăn không ngo, hạt gạo bị gãy. Giống lúa nếp
truyền thống so với lúa nếp lai bây giờ lại ăn ngon hơn, dẻo hơn, thơm hơn, thơì
gian sinh trưởng dài hơn. Tuy nhiên lúa nếp truyền thống cho năng suất kém.
Khi nhà nước đưa vào sản xuất giống lúa lai thì đồng bào đã chuyển dần sang
trồng lúa lai. Theo thói quen một số gia đình vẫn trồng một ít lúa truyền thống
cạnh lúa lai.
Cây lúa đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của đồng bào dân tộc

H’mơng. Nó khơng chỉ cung cấp lương thực ni sống con người mà cịn dùng
để nấu rượi một thức uống quen thuộc của người H’mơng. Bên cạnh đó nó cịn
dùng để chăn gà, lợn tuy số này khơng nhiều. Với những điều kiện thuận lợi như
đất đai màu mỡ, có đủ nước để canh tác, người dân ở Cát Cát trồng được nhiều
lúa nước nên không bị thiếu lương thực, không phải ăn mèn mén như đồng bào
H’mông ở Si Ma Cai. Đó cũng là lí do đồng bào H’mơng ở đây khơng cịn phải
trồng lúa nương.
3.1. Lúa nương ( plìa tê)
Lúa nương là giống lúa trồng trên nương khơng cần nước vẫn có thể trổ
bơng và cho thu hoạch. Giống lúa nương có lơng thóc dài, người dân cịn gọi là
giống lúa lơng lợn. Bà con dân tộc vùng cao từ lâu đã có kinh nghiệm trồng lúa

11


trên nương. Ngày nay ở Cát Cát tuy khơng cịn lúa nương nhưng những kinh
nghiệm về trồng lúa nương đồng bào ở đây vẫn nhớ rõ.
Trước đây khi còn trồng lúa nương thì vào khoảng tháng 2 sau những ngày
dài nghỉ vui tết vui hội, đồng bào đi tìm đất phát nương chuẩn bị cho vụ lúa mới.
Khi chọn đất để trồng lúa đồng bào chú ý không chọn đất ở nơi cao quá. Theo
kinh nghiệm của đồng bào thì nếu trồng lúa ở khu đất cao quá khí hậu lạnh thì
lúa sẽ bị lép, khơng cho hạt. Đất trồng lúa phải chọn kĩ hơn đất trồng ngô đất
nhất thiết phải có màu đen, tơi xốp, ẩm. Sau khi chọn được đất người ta cũng
đánh dấu khu đất của mình như chọn đất trồng ngơ. Sau đó cả gia đình sẽ đi phát
nương. Đợi đến khi cây cỏ khơ thì đi đốt và dọn sạch nương và tiến hành chọc lỗ
tra hạt. Khi đất cịn màu mỡ đồng bào H’mơng ở Cát Cát cịn làm nương du canh
thì họ khơng cày mà tra hạt ln.
Với lúa nương thì vào khoảng cuối tháng 4 âm lịch là họ tiến hành tra hạt.
Cũng như ngô họ sẽ chọn những cây rừng cầm vừa tay có đủ độ cứng và nặng để
khi chọc xuống đất tạo được lỗ để bỏ hạt thóc xuống. Mỗi gốc cách nhau khoảng

50 đến 60 cm. Khi đất tốt mỗi gốc lúa tra khoảng 4,5 hạt thóc đến lúc thu hoạch
được cây lúa phát triển tốt đẻ nhiều nhánh mỗi gốc phải cách nhau xa để cây lúa
có đât để phát triển. Khi tra hạt người đàn ông thường đi trước chọc lỗ, người
phụ nữ đi sau bỏ hạt. Khi tra hạt đồng bào thường tra từ thấp lên cao.
Với lúa nương thì cơng việc chăm sóc khá đơn giản sau khi tra hạt xong thì
cứ để cho cây lúa tự phát triển. Thi thoảng đồng bào đi thăm nương xem cây lúa
có mọc đều khơng. Khi lúa được 3,4 lá thì thì người ta tiến hành làm cỏ cho lúa
và vun đất vào gốc để cho cây lúa khơng bị đổ. Khi đó khơng có phân để bón,
đất cũng rất tốt khơng cần bón phân. Bốn xung quang nương lúa thì họ phát cây
cỏ bụi để cho những cây lúa cạnh nương khơng bị cớm nắng, có thể phát triển
bình thường. Sau khoảng gần một tháng đồng bào tiến hành làm cỏ lần 2 nếu có
nhiều cỏ thì dẫy cỏ, ít cỏ thì chỉ chỉ nhổ là xong. Khi lúa bắt đầu vào mẩy thì họ
làm bù nhìn để xua đuổi chim rừng về ăn thóc. Bù nhìn được làm bằng các cây
rừng nhỏ và quần áo cũ. Người ta sẽ lấy một cây rừng to khoảng bằng cổ tay, dài
hơn đầu người một chút và một cây khác ngắn bằng một nửa cây trước. Hai cây
này đặt vng góc với nhau, lấy dây rừng buộc thành hình chữ t. Cây ngắn sẽ
buộc gần đầu của cây dài, cách đầu của cây dài bằng từ đỉnh đầu tới vai của

12


người thật. Chỗ buộc giữa cây dài và cây ngắn sẽ chia đôi cây ngắn bằng hai
phần bằng nhau. Sau đó họ sẽ mặc quần áo cũ, đội mũ cho cây chữ t đó, rồi đem
cắm trên nương. Tuỳ theo độ rộng của nương mà làm nhiều bù nhìn hay ít bù
nhìn. Đồng thời làm lều canh ngay trên nương để đuổi thú rừng về phá hoại.
Vào khoảng tháng 9 những bông lúa nương ngả màu vàng báo hiệu lúa chín
(plìa xá) , lúc đó đồng bào bắt tay vào thu hoạch lúa. Bao giờ người ta cũng thu
lúa nương trước lúa cấy trên ruộng bậc thang. Khi cắt xong họ cho vào gùi mang
về nhà phơi. Sau khi phơi khô họ cũng để trên gác bếp như ngô để bảo quản.
Đồng bào H’mông ở Cát Cát làm những sào ngang gác bếp và xiên những túm

thóc vào đó. Khi nào ăn thì bỏ ra vị lấy thóc và cho vào cối giã gạo bằng sức
nước để lấy gạo ăn.
Với lúa giống (dum plìa) thì người lớn trong gia đình có kinh nghiệm sẽ
chọn. Họ sẽ chọn những bơng lúa to, mẩy, gié lúa dày cho nhiều hạt, cắt và để
riêng ra. Khi mang về nhà phơi họ cũng phơi riêng. Bảo quản trên gác bếp cũng
treo riêng không để gần bếp đun q sẽ làm cho hạt thóc khơ quá vụ sau không
nảy mầm được.
Đối với lúa nương hầu như khơng có nhiều nghi lễ kèm theo để bảo vệ cây
trồng. Hiện nay tại Cát Cát khơng cịn gia đình nào cịn trồng lúa nương. Một
phần do lúa trên ruộng bậc thang cho năng suất cao, một phần do đất trên nương
khơng cịn tốt lúa trồng trên nương khơng cho năng suất cao nên họ đã chuyển
sang trồng lúa trên ruộng bậc thang và bỏ trồng lúa nương.
3.2. Lúa nước (plìa đê)
Ruộng bậc thang có từ lâu đời ở Cát Cát nói riêng và ở Sa Pa nói chung.
Người H’mơng có nhiều kinh nghiệm trong canh tác ruộng bậc thang. Đồng bào
H’mông ở đây dựa theo những sườn núi có thể dẫn nước về để khai phá làm
ruộng. Khi mà chọn đất để làm nương trông ngô lúa người ta đã chú ý xem địa
hình chỗ đó có thể khai phá thành ruộng được không. Sau khi làm nương 1, 2
năm thì họ chuyển sang khai phá thành ruộng. Lúa trước kia khi cấy trên ruộng
bậc thang rất tốt. Mỗi gốc lúa khi thu hoạch được nắm vừa đầy một bàn tay.
Lúa câý trên ruộng bậc thang được đồng bào ở đây chăm sóc rất kĩ cả từ
khâu làm đất đến lúc cây lúa và thu hoạch. Nếu như đất để trồng ngô, lúa nương

13


được người dân chuẩn bị vào tháng 2 thì đất để cấy lúa nước lại còn phụ thuộc
vào thời tiết. Khi bào mưa to có nước thì đồng bào mới đi cày trên ruộng để giữ
nước. Cũng có nhiều gia đình có thời gian thì họ cày trước. thời gian cày vào
khoảng cuối tháng 2, khi nào có mưa thì đi bừa. Nếu như khai phá ruộng mới thì

người ta đã tổ chức khai phá vào đầu tháng 2. Vào thời điểm đó thì tất cả mọi
người đang nhàn rỗi, mới có thể giúp nhau đi khai phá ruộng được. Sau một vài
tháng nơng nhàn thì người ta đã có thể khai phá xong số ruộng mà họ dự định
làm, đến khoảng tháng 3,4 khi những cơn mưa đầu tiên đổ xuống thì họ có thể
cày bừa chỗ ruộng vừa khai phá để cấy trọng vụ mới.
Thông thường đồng bào cày một lượt, bừa hai lượt là có thể cấy được. Lần
cày đầu tiên vừa để vỡ đất, vừa để giữ nước không cho đất thấm đi. Cày lần đầu
người ta sẽ cày lật đất. Mặt đất mọc cỏ sẽ được úp xuống để cho cỏ nhanh thối.
Đường cày đạt độ sâu thích hợp (8- 10cm). Cách cày của người H’mông ở đây là
cày theo luống. Mỗi thửa ruộng sẽ chia thành các luống để cày cho dễ, và lấy chỗ
cho trâu quay đầu. Đầu tiên người ta sẽ cày một đường giữa ruộng để chia luống.
Ruộng hẹp thì mỗi luống 4 đến 6 đường cày. Ruộng rộng thì mỗi luống 6 đến 8
đường cày. Khi cày người ta cày từ trong ra ngoài, lần lượt từng đường cày một
đến khi hết ruộng thì thơi. So với vùng thấp thì cày trên ruộng bậc thang tốn
cơng hơn rất nhiều vì ruộng hẹp hay phải quay đầu trâu.
Người đàn ông H’mông khéo léo điều chỉnh cày đều tay không để lại
nhiều sống đất, rãnh cày tương đối bằng. Sau đó họ đi sửa bờ đắp lại những đoạn
vỡ để giữ nước được tốt hơn ngâm cho đất mềm ra. Bờ ruộng được vạc sạch cỏ
bờ bằng cuốc. Bờ của ruộng bậc thang thường bé vì địa hình, diện tích bề mặt
khơng cho phép đắp to nên người dân ở đậy đắp bờ rất cẩn thận. Sau khi vạc
sạch cỏ bờ họ lấy đất mới ở dưới ruộng đắp vào chân bờ, lấy chân dẵm kĩ xuống
cho đất chặt hơn. Nếu mặt bờ thấp thì họ sẽ đắp đất lên mặt bờ cho cao hơn. Khi
đất khơ lại thì bờ ruộng sẽ chắc không bị ngấm nước đi. Bờ tả li giáp với ruộng
trên cũng được đồng bào vạc sạch cỏ, trơ đất thịt ra.
Sau lần cày này có nhiều gia đình cắt cây ngải cứu làm phân xanh dấn
xuống ruộng cho đất mềm ra và tạo độ màu mỡ cho đất. Sau đó khoảng một tuần
đến 10 ngày thì bừa lần một để dập những cây cỏ mọc trên ruộng thối ra đồng
thời làm cho đất nhỏ ra để ngấm đủ nước và mềm ra. Trước khi cấy khoảng 2,3

14



ngày thì họ bừa lần hai để đất thật mềm có thể cấy được. Để có thể cày cấy được
phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Nếu trời có mưa thì mới có nước để làm ruộng.
Cũng có một số ruộng bắt được nước mạch chảy ra nhưng ít, nếu trời khơng mưa
thì cũng khơng đủ để cày cấy một diện tích lớn.
Ngay khi chuẩn bị cày, bừa là đồng bào H’mông ở đây đã chủ động đi sửa
lại đường mương, máng dẫn nước. Người H’mơng với bản tính chất phác, thật
thà, ln ơn hịa và đặc biệt ý thức tự giác của mọi nguời rất cao. Nhiều gia đình
chung một nguồn nước dẫn về ruộng nhưng không ai đợi ai đi lấy nước về. Ơng
chủ gia đình này đi sửa đường mương thì tự khác gia đình khác cũng đi sửa
cùng, không phải thúc dục. Những đoạn qua khe thì họ lấy cây tre để làm máng
bắc qua.
Trước khi cấy khoảng một tháng vào độ cuối tháng 3 đầu tháng 4 (âm
lịch) thì đồng bào gieo mạ (trì plìa.) Mạ gieo khoảng từ 35 ngày đến 40 ngày có
thể cấy được. Đất gieo mạ thường được chọn những khu ruộng đất mềm, không
bị cây che khuất. Ruộng gieo mạ được cố định, năm nào bà con cũng gieo ở khu
ruộng đó. Những chân ruộng để gieo mạ bao giờ cũng chọn gần nguồn nước, gần
nhà để dễ chăm sóc. Khu ruộng đó phải tránh đường trâu đi để trâu khơng phá
khu ruộng mạ đó. Sau khi cày xong người ta cịn đổ phân lên ruộng sau đó mới
bừa cho phân và đất trộn lẫn vào nhau. Sau khi bừa cho đất thật mềm, người ta
mới đánh luống. Đất để gieo mạ người ta gọi là diệc mạ (nà dìu) được cày bừa
kĩ, thật mềm. Họ làm thành các ô cao giữa các ơ có rãnh sâu chừng 10 đến 15 cm
để thoát nước chiều dài dọc theo bề rộng của ruộng, chiều rộng khoảng từ 1,2
đến 1,5 mét. Bề mặt được san phẳng và vun cao hơn so với rãnh. Nước đưa vào
ruộng mạ thường xấp xỉ so với bề mặt ruộng để có thể bám được chân rễ, đủ
nước để nó phát triển tốt.
Thóc để gieo mạ đã được lựa chọn kĩ từ vụ trước và bảo quản cẩn thận. Số
thóc giống này sau khi phơi khơ được mang ra trước gió để gió thổi cho bay
những hạt thóc lép, những hạt thóc rơi gần chân nhất sẽ được gom lại để làm

giống. Người Kinh gọi đó là rê thóc, người H’mơng gọi đó là dang plei. Sau đó
được cho lên gác bếp để bảo quản. Khi nào gieo thì bỏ xuống ngâm cho nảy
mầm. Khi bỏ thóc giống xuống ngâm thì họ khơng loại bỏ hạt lép nữa. Đồng
bào cho thóc vào thùng gỗ ngâm nước khoảng 2 ngày để cho hạt thóc ngấm đủ

15


nước, trương to lên. Mỗi ngày họ lại thay nước một lần. Nước ngâm thóc là nước
ấm, khoảng 40 đến 500C. Đồng bào thường dùng tay để kiểm tra độ ấm của
nước, khi thấy vừa ấm tay là được. Sau đó vớt ra để ủ cho hạt thóc nảy mầm. Họ
ủ bằng cách là đánh đống vào một góc và phủ lá xoan hay là đào lên. Đó là cách
tăng nhiệt độ để giúp hạt dễ nảy mầm. Khi mầm mọc đều độ dài gần bằng rễ thì
đem gieo. Thời vụ gieo mạ dựa vào thời vụ cấy. Thường gieo vào đầu tháng 4.
Khi đó tiết trời đã ấm lên, mạ sẽ nhanh bén rễ hơn. Việc gieo mạ này chính là
sắp xếp cho lúa trổ bơng và chín vào tháng 10, tránh được giá lạnh của mùa
đông. Trước đây công việc gieo mạ thường đàn ông hay làm. Ngày nay thì phụ
nữ cũng tham gia nhiều hơn. Kỹ thuật gieo mạ: gieo úp tay, ném mạnh xuống
cho mầm bám vào đất. Gieo ngửa tay mạ lên không đều, thành vết. Mật độ gieo
mạ tương đối dày.
Sau khi mạ gieo được khỏang hơn một tháng là có thể cấy được. Một cây
mạ trưởng thành có thể có thể cấy, có chiều cao đến 30 cm, rễ dài 3 đến 4 cm.
Mạ để cấy phải đạt đủ ngày tuổi, không quá non mà cũng khơng q già. Mạ non
thì cây mạ khơng cứng, gió sẽ làm đổ, khi ra hạt năng xuất thấp. Mạ già thì cấy
xong lúa khơng đẻ nhánh. So với người Kinh ở vùng thấp thì đồng bào H’mông
ở đây để cây mạ dài ngày tuổi hơn. Ở vùng cao thời tiết lạnh hơn ở vùng thấp
nếu cấy mạ non quá sẽ không mọc lên được, phải để mạ dài ngày hơn so với
vùng thấp. Vào khoảng giữa tháng 5 là đồng bào chuẩn bị cấy. Họ thường cấy
lúa khi mà đã trồng ngô xong. Khi cấy lúa xong đi làm cỏ ngô là vừa. Ngày cấy
lúa cũng được bà con lựa chọn theo quan niệm tâm linh của mình. Thường thì

mỗi dịng họ lại có những cách chọn ngaỳ khác nhau. Ngày cấy lúa cũng giống
như ngày tra ngơ trên nương. Duy chỉ có họ Thào (quả) lại không kiêng ngày cấy
lúa mà lại chọn ngày ngâm thóc để gieo mạ. Họ Thào tránh ngày chơn cất tổ tiên.
Theo họ thì nếu ngâm thóc vào ngày chơn cất tổ tiên thì khi gieo sẽ bị chìm hạt
thóc xuống bùn khơng mọc lên được. Dịng họ Thào quan niệm chôn cất tổ tiên
vào nagỳ con trâu và con hổ là không tốt nên họ tránh những ngày này. Từ đó họ
chọn ngày trâu và ngày hổ để ngâm thóc gieo mạ là chắc chắn nhất. Nó sẽ khơng
bị trùng vào ngày chôn cất tổ tiên.
Công việc cấy lúa là của phụ nữ nhưng người đàn ông cũng phụ giúp bằng
cách đưa mạ ra ruộng. Trước đây đồng bào cấy rất thưa vì lúc đó đất tốt mỗi gốc

16


lúa đẻ ra rất to, khi gặt mỗi gốc vừa đủ một nắm tay. Mỗi cây lúa cách nhau
khoảng 45 đến 50 cm. Mỗi gốc cấy 4 cây mạ. Ngày nay theo kĩ thuật chung của
nhà nước phổ biến thì mỗi cây cách nhau 20 đến 25 cm. Mỗi gốc cấy từ 1 đến 2
cây mạ. Tuy nhiên mật độ cấy thưa hay dày phụ thuộc vào độ màu mỡ của đất:
ruộng tốt có thể cấy 25 khóm/ 1m 2, trung bình là 30 khóm / 1m 2, ruộng xấu là 40
khóm / 1 m2. Trước khi cấy đồng bào thường bón lót bằng phân hố học NPK.
Cũng có gia đình bón bằng phân chuồng trước khi lần bừa cuối cùng để cấy.
Ngày nay đồng bào H’mông ở đây quá phụ thuộc vào phân hố học nên việc bón
phân chuồng cho ruộng lúa là rất ít. Đồng bào thường cố gắng cấy xong trong
tháng 5 để đảm bảo đầu tháng 10 là thu hoạch xong hết như thế mới đảm bảo
năng xuất. Nếu cấy muộn quá thì cây lúa gặp phải thời tiết lạnh sẽ không cho
năng xuất. Đến tháng 10 là thời tiết ở đây bắt đầu lạnh lúc đó mà lúa chưa trổ
bơng thì năng xuất kém. Hâu cấy lúa cần nhiều công lao động nên đồng bào cũng
thường đổi công cho nhau để đảm bảo kịp mùa vụ. Nhà nào làm xong ruộng
trước thì cấy trước.
Với người H’mông tổ tiên là những người chết trong 3 đời trở lại. Họ tin

rằng tổ tiên đã chết sẽ che chở cho con cháu. Họ coi tổ tiên là loại ma lành luôn
phù hộ cho con cháu, bảo vệ con cháu và các vật ni, cây trồng trong gia đình.
Chính vì vậy sau khi cấy xong đồng bào thường làm lễ cúng báo với tổ tiên để tổ
tiên phù hộ cho cây luá phát triển tốt không bị sâu bệnh, khơng bị chim chóc phá
hoại, cho vụ lúa được bội thu.
3.2.1. Lễ cúng khi cấy xong (pẩu giằng)
Lễ cúng này chỉ có ở họ Vàng và họ Thào, họ Sùng cịn họ Mã và họ Lù
khơng có.
Tên gọi: lễ cúng khi cấy xong (pẩu giằng)
Thời gian diễn ra lễ cúng là vào thời điểm sau khi cấy xong. Cả 3 họ Vàng
và họ Thào, họ Sùng đều không chọn ngày, nhà nào cấy xong thì làm lễ. Khi nào
sắp xếp được cơng việc gia đình tiện ngày nào thì họ làm ngày đó.
Địa điểm: Diễn ra tại gia đình. Lễ cúng khi cấy xong có quy mơ bó hẹp
trong từng gia đình.

17


Mục đích của lễ cúng: Thơng báo với tổ tiên là gia đình đã cấy xong lúa
cầu mong tổ tiên phù hộ cho vụ lúa năm nay được bội thu, cây lúa phát triển tốt,
không bị sâu bọ phá hoại, không bị hạn hán, bông lúa to, mẩy, nhiều hạt. Với
quan niệm ma tổ tiên là ma lành. Sau khi mất đi tổ tiên luôn phù hộ cho con cháu
khỏe mạnh làm ăn tốt, mùa màng bội thu, gia súc thì đầy chuồng nên sau khi cấy
xong đồng bào thơng báo với tổ tiên, mời tổ tiên về ăn con gà và cầu mong tổ
tiên phù hộ cho vụ lúa bội thu.
Lễ vật: Cũng như nhiều lễ cúng khác lễ vật của cúng này là gan gà (xà
cay), cơm ( mó ), rượi (chớ), hương (sằng), bát canh gà (tỉ cồ cày). Con gà này
khi cúng chỉ lấy gan gà để cúng. Từ nước luộc gà người ta chế biến thành một
bát canh gà bằng cách cho thêm vài miếng thịt gà vào và nêm đầy đủ gia vị.
Những gia đình có điều kiện có thể mổ thêm lợn. Nhìn chung nó cịn phụ thuộc

vào kinh tế của từng gia đình. Những gia đình có điều kiện thì mổ lợn, mổ gà
mời anh em họ hàng đến ăn một bữa. Những gia đình khơng có điều kiện thì có
thể chỉ cần mổ một con gà để làm lí là xong. Trong một con gà người ta chỉ dùng
gan gà để cúng đó là do xuất phát từ quan niệm đây là bộ phận chính của con gà,
quan trọng nhất, ngon nhất. Chính vì vậy họ dùng để dâng cúng lên tổ tiên. Nó
cũng là việc thành kính, đề cao tổ tiên cầu mong tổ tiên phù hộ cho gia đình
mình.
Yêu cầu lễ vật: Con gà để cúng không yêu cầu gì khắt khe. Gà nào cũng
được, trống mái tùy ý, màu sắc không quan trọng.
Người chủ lễ: Ở họ Vàng người chủ lễ là ơng chủ gia đình. Ở họ Thào
(quả) thì phải là người anh cả trong gia đình làm chủ lễ cúng. Trong một gia đình
có nhiều anh em trai dù đã lấy vợ ra ở riêng thì gia đình nhà người em cúng đều
phải nhờ người anh cả đến cúng cho gia đình mình. Ở họ Thào thì người ta quan
niệm chỉ có anh cả mới được cúng tổ tiên. Các gia đình người em có thờ tổ tiên
thì cũng khơng được cúng tổ tiên, trọng trách đó phải thuộc người anh cả. Nhưng
dù thế nào thì ở cả dịng họ Vàng và họ Thào (quả) thì người chủ lễ vẫn là người
đàn ông. Theo quan niệm của người H’mơng thì người đàn ơng trong gia đình
mới có quyền cúng các ma, làm chủ các nghi lễ trong gia đình, cịn người phụ nữ
thì khơng được phép cúng các ma, không tham gia các công việc liên quan đến
nghi lễ cả ở trong gia đình và cộng đồng. Trong gia đình người phụ nữ cịn kiêng

18


đến gần bàn thờ chứ chưa nói gì đến việc làm chủ một lễ cúng. Điều này đã trở
thành một luật bất thành văn của người H’mông, ăn sâu bám rễ vào trong suy
nghĩ của họ.
Thành phần tham dự lễ cúng: Bao gồm những thành viên trong gia đình,
những anh em họ hàng gần nhà được mời đến ăn cơm cùng gia đình. Ở dân tộc
H’mơng qua hệ dịng họ bao giờ cũng được đề cao hơn hàng xóm. Làng bản của

người H’mông không mấy khi sống cộng cư với các dân tộc khác. Và trong một
thơn thì mỗi một dòng họ lại cư trú, chiếm lĩnh một khoảng riêng, sống quay
quần bên nhau. Những người cùng họ với nhau đã được coi là anh em, có thể
chết trong nhà của nhau. Người ta quan niệm cùng họ là cùng ma. Trong một
làng bản của người H’mơng thì những anh em cùng họ sống quây quần bên
nhau, cộng với cách mưu sinh là làm nông nghiệp, tự cung tự cấp, khơng có nhu
cầu giao lưu với bên ngồi. Từ những quan niệm về dòng họ và cách cư trú và
mưu sinh đã làm thắt chặt mối quan hệ dòng họ của đồng bào H’mơng. Chính vì
quan niệm này đã lí giải phần nào việc trong tất cả lễ cúng của người H’mông
người ta chỉ mời anh em trong họ đến dự chứ khơng mời hàng xóm. Khác với
các dân tộc ở vùng thấp như người Kinh, Tày, Thái thì quan hệ hàng xóm được
quan tâm hơn. Người Kinh có câu “bán anh em xa mua láng giềng gần” để chỉ
tầm quan trọng của hàng xóm, láng giềng.
Q trình chuẩn bị nghi lễ: Để chuẩn bị cho nghi lễ này thì ông bà chủ lên
kế hoạch là làm lễ to hay nhỏ. Cuối cùng sự quyết định làm lễ cúng như thế nào
là do ơng chủ gia đình. Trước đây với cuộc sống tự cung tự cấp trong một gia
đình người H’mơng họ có thể làm ra tất cả các lễ vật thì việc chuẩn bị rất đơn
giản. Gà họ ni được không phải đi mua. Người H’mông nuôi gà mục đích
chính là mổ phục vụ các nghi lễ trong gia đình. Bình thường họ rất ít mổ để ăn.
Rượu họ cũng tự nấu được. Khi nấu mẻ rượi để chuẩn bị cho lễ cúng, lúc cất
rượi họ đã chủ định để riêng ra một chai nhỏ. Cịn hương thì đi đổi những gia
đình trong làng có nghề truyền thống làm hương. Người ta thường mang một con
gà hay chai rượu đi đổi. Ngày nay thì cũng có nhà tự nấu rượi nhưng số lượng
đấy ít. Đa phần các gia đình đi mua rượi ngồi chợ về và khơng được nếm trước.
Ở Cát Cát gần trung tâm thị trấn Sa Pa nên việc đi lại mua đồ cũng thuận tiện.
Người ta có thể để buổi sáng hơm diễn ra lễ cúng đi chợ mua các thứ cần thiết

19



như gia vị, thức ăn, hương, rượi. Gà của nhà khơng đủ để mổ thì họ có thể mua
thêm thịt lợn hoặc các đồ ăn khác. Con gà dự định để mổ cúng tổ tiên họ đã nhốt
sẵn từ tối hơm trước. Các thành viên trong gia đình cùng nhau làm đồ lễ để cúng.
Người thi đun nước làm gà, người thì nấu cơm….Nếu nhà nào mổ lợn mà gia
đình ít người thì họ nhờ anh em trong họ gần nhà đến làm giúp. Khi mà làm
xong thì ơng chủ gia đình sẽ cho trẻ con trong nhà đi mời anh em trong họ đến
dự lễ và uống rượi. Người H’mơng khơng cầu kì khi mời mọi người đến dự lễ
cúng. Trẻ con đến nhà và nói là bố mẹ mời sang uống rượi là xong, khơng cần
trịnh trọng đích thân ơng chủ gia đình đến từng nhà mời từ hơm trước. Trong khi
cho trẻ con đi mời thì ở nhà ơng chủ gia đình sắp lễ và tiến hành nghi lễ.
Cách hành lễ và nội dung bài cúng: Ông chủ gia đình múc cơm vào một
cái bát to, cắt một miếng gan gà, múc một bát canh, lấy một chai rượu, tất cả đặt
lên bàn thờ. Một cái ghế được kê ra trước bàn thờ và ông chủ gia đình sẽ ngồi
trên ghế đó để cúng mời tổ tiên về . Trong những dịng họ ở Cát Cát thì dịng họ
nào cũng có bàn thờ cố định kê ở sát vách hậu khi cúng người ta chỉ việc sắp lễ
lên không cần phải lập bàn thờ. Đầu tiên ông chủ gia đình sẽ cắm hương ở bàn
thờ 4 nén, lần lượt đến cột nhà chính 1 nén, cửa chính 1 nén, ở hai bếp mỗi bếp
một nén, các cột phụ mỗi cột một nén. Dịng họ Thào (quả) ngồi cắm hương ở
các vị trí trên cịn cắm hương vào chân giường hai vợ chồng chủ nhà. Vì họ
quan niệm vợ chồng chủ nhà đóng vai trị trụ cột trong gia đình.
Việc cắm hương vào các vị trí trên có ý nghĩa là thông báo với các ma về
việc gia đình làm lễ cúng sau khi cấy xong và mời các ma cùng ăn với gia đình,
cầu mong các ma phù hộ cho gia đình. Như đã nói ở phần đầu người H’mơng
quan niệm cột chính, cửa chính, hai bếp nấu, buồng vợ chồng chủ nhà là những
bộ phận có linh hồn và có khả năng bảo vệ cho con người, gia súc, mùa màng.
Họ coi đây là những ma lành. Chính vì thế trong các lễ cúng người ta thường
cắm hương vào những bộ phận đó để mời các ma này về ăn cùng gia đình và bảo
vệ cho gia đình. Ma cột chính tượng trưng cho sức mạnh gia đình thơng qua
người đàn ơng. Đây là nơi linh thiêng trong gia đình. Có thể nói nó là linh hồn
của ngôi nhà cả về vật thể và tâm linh. Theo quan niệm của người H’mơng thì

cột chính là bộ phận chính trong nhà, có nhiệm vụ là nâng đỡ và bảo vệ ngôi nhà
không bị xâm phạm, bảo vệ các thành viên trong gia đình được bình an, khỏe

20


mạnh. Đây cịn là đường đi ra ngồi của các loại ma trong gia đình. Trong lễ
cúng khi cấy xong ơng chủ gia đình cắm hương vào cột chính mục đích là mời
ma cột chính về ăn cùng và phù hộ cho gia đình. Làm như vậy ma sẽ khơng tức
giận mà làm cho gia đình ốm đau hoặc gặp khó khăn. Ma cửa chính là một loại
ma tốt phù hộ cho gia đình đó chăn ni tốt, làm ăn suôn sẻ, ngăn ma ác vào
trong nhà làm hại gia đình, bảo vệ của cải và các hồn trong gia đình, ngăn khơng
cho hồn các thành viên trong gia đình bỏ đi. Cũng như ma cột chính việc căm
hương vào cửa chính là để thơng báo hơm nay gia đình có lễ cúng mời ma cửa
chính về ăn, cầu cho ma bảo vệ của cải và các hồn trong gia đình. Người
H’mơng quan niệm có ma ngự trị trong bếp, ln bảo vệ bếp, bảo vệ cho người
trong gia đình khơng ngã vào bếp. Ma bếp cịn liên quan đến việc sinh nở của
phụ nữ và phù hộ cho chăn ni. Mỗi lần trong nhà có lễ cúng. Việc người chủ
gia đình cũng cắm hương vào hai bếp cũng với mục đích mời ma bếp về ăn và
cầu mong cho bếp cháy đều, không bị tắt lửa. Người ta cho rằng mỗi khi cúng gì
trong gia đình mà khơng mời ma bếp thì khi nhóm lửa đun nấu dù củi khô bếp
cũng không lên lửa.
Sau khi cắm hương ông chủ gia đình sẽ ngồi vào ghế và bắt đầu bài cúng.
Câu đầu tiên bao giờ cũng là : “Hù pù zìa” – Mời ơng bà . Đầu tiên ơng sẽ rót
rượu ra chén mời từng vị tổ tiên về uống rượu. Vừa rót rượu ơng chủ gia đình sẽ
đọc tên lần lượt các vị tổ tiên từ cao xuống thấp. Dòng họ Vàng và họ Thào (bố)
mời 3 đời về ăn gồm bố mẹ, thế hệ ngang bằng, con. Dòng họ Thào (quả), họ
Sùng mời 4 đời về gồm ông bà, bố mẹ, thế hệ ngang bằng, con. Sau khi mời
uống rượi thì ơng chủ nhà sẽ mời các vị tổ tiên ăn cơm. Vừa đọc tên các vị tổ
tiên ông vừa lấy muôi múc cơm đổ lên bàn cạnh chén rượu vừa rót. Sau mời ăn

cơm thì ơng chủ nhà mời ăn gà. Ông cũng vừa lầm rầm đọc tên các vị tổ tiên vừa
lấy miếng gan bầu tí một đặt lên đống cơm vừa đổ lên bàn. Và cuối cùng là mời
các vị tổ tiên ăn canh. Ông chủ gia đình lấy mi múc canh đổ lên chỗ cơm và
gan gà. Trong lễ cúng này ông chủ gia đình cầu xin các vị tổ tiên hãy phù hộ cho
vụ lúa vừa cấy xong được bội thu, cây lúa mọc tốt, không bị sâu bệnh, không bị
hạn hán, bông lúa to và mẩy. Theo quan niệm của ngươi H’mông thì tổ tiên là
ma lành ln phù hộ cho con cháu về mọi mặt từ sức khỏe đến mùa màng, gia

21


súc được bội thu và khỏe mạnh. Họ tin tưởng sau lễ cúng này tổ tiên nghe được
lời cầu xin của con cháu mà phù hộ cho mùa màng sẽ bội thu.
Kiêng kị trong nghi lễ: Các đồ lễ dâng cúng tổ tiên không được nếm trước
dù chỉ là một chút. Họ quan niệm nếu người sống mà ăn trước tổ tiên thì đồ lễ
dâng cúng đó tổ tiên sẽ không nhận, sẽ bị quở trách, làm cho mùa màng không
tốt tươi, cây lúa sẽ không phát triển, mất mùa. Ở dịng họ Thào quả thì chỉ người
chủ lễ mới khơng được ăn trước cịn những người trong gia đình như người già,
trẻ con thì được ăn trước thoải mái. Họ giải thích là người chủ lễ đã đại diện gia
đình mời tổ tiên thì chỉ người đó khơng được nếm thức ăn trước.
Sau khi kết thúc nghi lễ ông chủ gia đình sẽ hạ đồ lễ xuống mời anh em họ
hàng ăn cơm. Thức ăn mà đổ lên bàn sẽ bỏ ra cho chó mèo ăn. Thức ăn cịn lại
trong bát to sẽ được xếp vào mâm của ông chủ nhà và các thành viên lớn tuổi
trong dòng họ. Những người đàn ông và người già trong họ sẽ ngồi ở mâm cơm
gần bàn thờ. Ơng chủ gia đình ngồi thẳng chỗ bàn thờ tổ tiên đối diện với cửa
chính, tiếp theo là người già trong họ. Cịn phụ nữ sẽ ngồi bên ngoài, xa với bàn
thờ tổ tiên.
Lễ cúng khi cấy xong mục đích là báo với tổ tiên là gia đình đã cấy xong,
mời tổ tiên về ăn với gia đình cầu mong tổ tiên phù hộ cho vụ lúa được bội thu.
Ngày nay gia đình nào cũng cịn duy trì lễ cúng này. Quy mơ buổi lễ làm to hay

nhỏ phụ thuộc vào kinh tế của từng gia đình. Có nhiều gia đình chỉ cần mổ một
con gà để cúng tổ tiên không nhất thiết mời anh em họ hàng đến.
Sau lễ cúng này đồng bào tiếp tục chăm sóc lúa bằng cách là giữ nước
trong ruộng cho đủ để tạo điều kiện cho cây lúa phát triển tốt nhất. Các gia đình
tự giác phân chia nước cho đều khơng bao giờ có chuyện nhà này khơng nước
mà nhà kia có nước. Năm nào hiếm nước thì cũng khơng có sự tranh giành nhau.
Mọi nhà đều có ý thức tơn trọng nhau. Họ cùng nhau bảo vệ nguồn nước dẫn về
ruộng, làm mương, dẫn máng về ruộng, sửa sang lại khi chúng bị hỏng. Khơng
có sự tranh cãi về nguồn nước chung. Mọi người chung sống hịa thuận bảo vệ
nhau. Ngày nay tính cách này đã có đơi phần biến đổi do những tác động của nền
kinh tế thị trường.

22


Trước đây đồng bào khơng bón phân và cũng khơng làm cỏ lúa chỉ lấy dao
phát phát cỏ ven bờ để cho cỏ không gây cớm nắng cho lúa. Ngày nay thì đồng
bào làm cỏ để sục bùn cho bộ rễ của lúa phát triển, đồng thời bón phân hóa học
cho lúa 2 lần. Lần 1 sau khi cấy 15 đến 20 ngày kết hợp làm cỏ. Lần 2 vào lúc
lúa làm đòng.
Sau khi cấy, trong những lần đi thăm ruộng đồng bào chú ý nếu lúa không
mọc được, lá bị vàng do thiếu nước, trong đám ruộng có nhiều cây bị chết, lá rụi
đi thì sẽ làm lễ cúng. Theo quan niệm của người H’mơng thì có vị thần bảo vệ
cây lúa không bị sâu bệnh và hạn hán nên các dịng họ có nghi lễ cầu xin vị thần
bảo vệ cây lúa.
3.2.2.Lễ cúng khi lúa bị bệnh, hạn hán (chừ pừ là).
Lễ cúng khi lúa bị bệnh, hạn hán này chỉ có họ Mã, họ Lý, họ Thào (bố),
họ Sùng. Còn các dòng họ khác như họ Lù, họ Thào (quả), họ Vàng khơng có.
Tên gọi: Lễ cúng khi lúa bị bệnh, hạn hán (chừ pừ là).
Thời gian diễn ra lễ cúng: Họ Mã vào 16 tháng 6 hàng năm. Họ Thào (bố)

chọn ngày mão trong tháng 6. Vì họ cho rằng con mèo là vật ni thân thiện
trong nhà, khơng ăn nhiều thức ăn vì vậy khơng tốn thức ăn ni nó. Họ Sùng
cúng vào ngày 7, 17 tháng 8 hàng năm. Họ Lý cúng vào tháng 6, khơng chọn
ngày cụ thể. Gia đình thấy tiện ngày nào thì cúng ngày đó.
Địa điểm: Cúng tại khu ruộng lúa bị bệnh. Bốn xung quanh khu ruộng của
gia đình đều có thể dựng bàn thờ để cúng. Có thể là khoảnh đất bằng sát mép bờ
hoặc có thể là trên bờ ruộng. Nếu cả khu ruộng chỉ có một mảnh bị bệnh thì
người ta dựng bàn thờ ở mảnh ruộng đó. Người ta chỉ cần một chỗ nhỏ để có thể
dựng được bàn thờ và người đứng cúng. Cịn chỗ luộc chín con gà có thể xa hơn
một chút. Họ Thào (bố) cúng tại chỗ nước bắt đầu chảy vào ruộng của nhà mình.
Vì đối với họ Thào (bố) quan niệm rằng tất cả những gì xảy ra đối với khu ruộng
là do thần nước chảy về ruộng nhà mình.
Mục đích lễ cúng: Theo quan niệm của người H’mơng thì có vị thần bảo
vệ cây lúa khơng bị sâu bệnh và hạn hán nên trong lễ cúng này các dòng họ cầu
xin vị thần bảo vệ cây lúa. Tuy nhiên mỗi dịng họ lại có những quan niệm khác

23


nhau về vị thần này. Họ Mã cầu xin vị thần bảo vệ cây lúa làm cho lúa không bị
sâu bệnh phá hoại, được phát triển tốt, bông lúa to, được mùa. Nước được chảy
mãi cung cấp đủ nước cho cả khu ruộng. Họ Sùng, họ Lý thì chỉ cầu xin thần bảo
vệ cây lúa sao cho lúa không bị con giun, con dế ăn, không bị sâu bọ phá hoại,
lúa bông to, nhiều hạt và được mùa. Họ Thào (bố ) thì lại cầu xin thần nước đừng
nóng q hay lạnh quá, bảo vệ cho cây lúa phát triển tốt, khơng bị sâu bệnh và
năm đó được mùa..
Người chủ lễ: Ơng chủ gia đình (tư chứ chấy). Nếu ơng chủ gia đình
khơng biết cúng thì nhờ người già trong họ mà am hiểu phong tục đến cúng giúp.
Cũng như phần trên đã nói sở dĩ người chủ lễ là ông chủ gia đình là do quan
niệm phân công công việc trong gia đình của dân tộc H’mơng thì người đàn ơng

đóng vai trị quyết định trong gia đình. Là người đứng ra cúng các loại ma trong
nhà, chọn đất chọn hướng làm nhà, phân công công việc trong gia đình cho các
thành viên, quyết định những việc chi tiêu lớn. ….Còn người phụ nữ làm những
việc như làm nương, se lanh, dệt vải, chăm sóc gia đình và con cái, chăn nuôi gia
súc, lấy củi….Đặc biệt không được cúng ma nhà, khơng được khiêng người chết
đi chơn. Nói chung những việc liên quan đến lễ nghi, ngoại giao với xã hội là họ
khơng được phép tham gia. Vì vậy nên người chủ lễ là ơng chủ gia đình.
Nếu ơng chủ gia đình khơng biết cúng thì họ mời người già trong họ mà
am hiểu phong tục, biết cúng đến cúng giúp. Trong cộng đồng người H’mơng thì
mỗi dịng họ lại có cách cúng ma khác nhau, có những quan niệm khác nhau. Vì
vậy chỉ có người trong họ mới biết cái lí của dịng họ mình. Trong dịng họ của
người H’mơng những người già mà hiểu lí lẽ, có uy tín được mọi người rất nể
phục. Khi mà gặp việc gì khó giải quyết họ hay đến hỏi ý kiến người già này.
(Điều này cũng giống như người Kinh có tinh thần trọng lão). Điều đó lí giải tại
sao người ta lại nhờ người trong họ mà hiểu phong tục, biết cúng thì được nhờ
đến cúng giúp.
Thành phần tham dự: Ngồi người chủ lễ ra thì cịn có 2, 3 người đi giúp,
có thể là con trai trong nhà hoặc anh em trong họ. Chỉ những người cùng họ mới
hiểu lí lẽ, quan niệm của dịng họ mình nên mới được nhờ đi phụ giúp lễ cúng.

24


Lễ vật: một con gà trống màu đỏ, nặng khoảng trên 1.5kg, nuôi được
khoảng 8, 9 tháng, rượu, hương, giấy bản (tiền vàng của người âm/). Kiêng gà
trắng, gà mái. Dòng họ Mã, họ Lý, họ Sùng 4 chén rượu, 4 que hương, 4 tờ giấy
bản. Thào (bố) 3 chén rượu, 3 que hương, khơng có giấy bản.
Q trình chuẩn bị: Về lễ vật. Trước đây với cuộc sống tự cung tự cấp
trong một gia đình người H’mơng họ có thể làm ra hầu hết các lễ vật thì việc
chuẩn bị rất đơn giản. Gà họ nuôi được không phải đi mua. Hơm sau làm lễ thì

tối hơm trước gia đình chọn con gà trống màu đỏ đẹp nhất trong đàn gà rồi nhốt
lại. Người H’mơng ni gà mục đích chính là mổ phục vụ các nghi lễ trong gia
đình. Rượu họ cũng tự nấu được. Khi nấu mẻ rượi để chuẩn bị cho lễ cúng, lúc
cất rượi họ đã chủ định để riêng ra một chai nhỏ. Hương và giấy bản thì đi đổi
trong làng những nhà làm giấy bản và hương . Hôm đi cúng người ta chuẩn bị
nồi để đun nấu, dao, bật lửa mang theo. Tất cả lễ vật và đồ dùng để đun nấu cho
vào gùi để mang ra ruộng. Củi để đun thì họ kiếm ngay khu rừng gần ruộng,
không nhất thiết phải mang từ nhà đi. Trước đây rừng còn nhiều củi dễ kiếm nên
khơng phải mang từ nhà đi. Bây giờ thì có gia đình chuẩn bị sẵn củi ở nhà mang
theo.
Đối với người chủ lễ nếu ông chủ nhà không cúng được thì hơm trước
diễn ra lễ cúng ơng chủ gia đình đi nhờ người già đến cúng giúp. Khi đi nhờ
người già trong họ ông chủ nhà không cần phải mang lễ vật gì đi theo. Người
được nhờ sẽ vui vẻ nhận lời nếu khơng bận việc gì quan trọng. Họ cảm thấy vui
và hãnh diện khi mà có người trong họ đến nhờ cúng giúp. Điều đó cịn chứng tỏ
ơng có uy tín và được mọi người trong họ quý mến.
Về địa điểm: Do cúng tại ruộng nên địa điểm cũng nhỏ hẹp. Hàng ngày đi
thăm ruộng ông chủ nhà đã chú ý xem có chỗ nào có thể đặt được bàn thờ để
hôm mang lễ vật ra cúng họ khơng phải tìm chỗ đặt bàn thờ. Hoặc có thể hôm đi
cúng ra đến ruộng người chủ lễ mới tìm địa điểm cúng. Địa điểm để cúng khơng
phải san gạt gì miễn sao có thể dựng được bàn thờ.
Cách thức hành lễ: Mỗi dịng họ lại có cách thức cúng bái khác nhau do
có những quan niệm khác nhau.

25


×