Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.16 KB, 85 trang )

cbhrjđejyjy
Đề tài: Giải quyết khủng hoảng
đồng ền chung châu Âu
1
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời của đồng EURO là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thúc
đẩy quá trình liên kết giữa các quốc gia Châu Âu về kinh tế chính trị, tiến tới một
cộng đồng Châu Âu thống nhất về mọi mặt. Đồng tiền chung ra đời đã khẳng định
được vị thế của nó trong việc hoàn thiện thị trường chung Châu Âu, góp phần xóa
bỏ những hàng rào phi thuế quan còn lại, tác động tích cực đến kinh tế, tài chính,
đầu tư của các quốc gia thành viên.
Tuy nhiên, trong suốt hơn một thập kỉ tồn tại, đồng tiền chung Châu Âu cũng
bộc lộ không ít yếu kém và có nguy cơ sụp đổ và nguy cơ này có thể trở thành hiện
thực khi khủng hoảng nợ công đang lan ra. Nguyên nhân chính xuất phát từ các
quốc gia trong khối eurozone với tỉ lệ nợ công cao khiến cho các nước này đang
phải chống chọi với một cuộc khủng hoảng nợ công đang lan rộng và có thể vượt ra
ngoài tầm kiểm soát. Sự đổ vỡ của đồng tiền chung có thể không kéo theo sự sụp đổ
của EU nhưng cũng làm đảo lộn cán cân kinh tế chính trị và môi trường hòa bình
của các quốc gia Châu Âu và rất có thể một cuộc suy thoái mới lại bắt đầu. Không
những thế, sự sụp đổ của eurozone sẽ tạo ra một cú sốc lớn cho nền kinh tế toàn thế
giới bởi mức độ liên kết tài chính, ngân hàng, đầu tư và thương mại ngày càng
mạnh. Như vậy, nguy cơ sụp đổ đồng tiền chung Châu Âu xuất phát từ cuộc khủng
hoảng nợ công đang lan rộng trong khối eurozone sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế
toàn cầu. Vậy những biện pháp mà cộng đồng Châu Âu cũng như quốc tế đã thực
hiện để cứu sống đồng euro cũng như vực dậy nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng
hoảng nợ công là gì? Liệu ASEAN có nên theo đuổi mô hình phát triển dựa trên
đồng tiền chung. Những bài học mà Việt Nam rút ra được trong việc kiểm soát
khủng hoảng nợ sẽ như thế nào?
Tại Việt Nam, nợ công đã đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn và cân đối
chi tiêu ngân sách nhà nước.Tình trạng nợ công của Việt Nam vẫn đang nằm trong


giới hạn cho phép tuy nhiên không thể chỉ nhìn vào tỉ lệ nợ công so với GDP để
đánh giá sự an toàn của nền kinh tế mà quan trọng là đánh giá dựa trên sức khỏe
của nền kinh tế.
2
Trong những năm trở lại đây, tỉ lệ nợ công liên tục tăng làm cho yêu cầu
nâng cao chất lượng quản lí nợ của Việt Nam cũng trở nên cấp thiết. Hơn nữa, cuộc
khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng có tác động lan truyền đến Việt Nam. Đứng
trước những thách thức đó, Việt Nam nên áp dụng chính sách và biện pháp gì để
ngăn chặn ảnh hưởng xấu của khủng hoảng nợ công Châu Âu đến Việt Nam cũng
như kiểm soát khủng hoảng nợ công tại Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã diễn ra gây ra những hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Chính vì
vậy, nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng là đối tượng nghiên cứu chính
trong bài để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Các nước trong cộng đồng chung Châu Âu đặc biệt các nước có tỉ lệ nợ công
cao.Thời gian nghiên cứu: cuộc khủng hoảng nợ công chính thức bùng nổ từ cuối
năm 2009 nên đề tài sẽ tập trung nghiên cứu cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu từ
thời điểm năm 2010 đến nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu để tài là làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về tác động
của khủng hoảng nợ Châu Âu, rút ra bài học và đề xuất những giải pháp giúp Việt
Nam kiểm soát khủng hoảng nợ.
5. Kết cấu của bài

CH
HH

ƯƯ

ƯƠ
ƠƠ
ƠN
NN
NG
GG
G1:
1:1:
1:C
CC

ơơ
ơs
ss
sở
ởở

l
ll

ýý
ýl
ll
lu
uu
uậ
ậậ
ận
nn
nv

vv
về
ềề
ềkh
khkh
khủ
ủủ
ủn
nn
ng
gg
gh
hh
ho
o
o
oả
ảả
ản
nn
ng
gg
gn
nn
nợ
ợợ
ợc
cc

ôô

ôn
nn
ng
gg
g

CH
HH

ƯƯ
ƯƠ
ƠƠ
ƠN
NN
NG
GG
G2:
2:2:
2:K
KK
Kh
hh
hủ
ủủ
ủn
n
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ CÔNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của khủng hoảng nợ công
1.1.1. Khái niệm nợ công và khủng hoảng nợ công

1.1.1.1.Kh
hh

áá
ái
ii
in
nn
ni
ii
iệ
ệệ
ệm
mm
mn
nn
nợ
ợợ
ợc
cc

ôô
ôn
nn
ng
gg
g
Trước hết, nợ công liên quan chặt chẽ đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách là khi các khoản thu vào ngân sách chính phủ không đủ
để bù đắp những khoản chi ra. Như vậy, ngân sách thâm hụt, nhà nước phải tài trợ

bằng nhiều cách khác nhau.
Nợ công là khoản nợ mà chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm
chi trả khoản nợ đó. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, nợ công không chỉ bao gồm những
khoản tiền mà nhà nước chính thức đi vay mà còn cả những khoản nợ tiềm tàng đối
với dân chúng như các khoản lương hưu, khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội hay các
khoản nợ do các tổ chức, công ty được nhà nước bảo lãnh.
Có nhiều cách tiếp cận về nợ công, trong đó, theo ngân hàng thế giới (WB),
nợ công được hiểu là nghĩa vụ của bốn nhóm chủ thể sau:
+ Nợ của ngân hàng trung ương
+ Nợ của chính phủ trung ương và các bộ, ban ngành
+ Nợ của các cấp chính quyền địa phương
+ Nợ của các tổ chức độc lập mà chính phủ sở hữu trên 50% vốn hay sự phê
duyệt ngân sách phải thông qua chính phủ, chính phủ là người chịu trách nhiệm trả
nợ khi tổ chức đó vỡ nợ.
Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của
khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó, khu vực tài
chính công bao gồm các tổ chức tiền tệ trực thuộc nhà nước, các tổ chức phi tiền tệ,
các doanh nghiệp quốc doanh. Khu vực phi tài chính công bao gồm chính phủ,
chính quyền địa phương và các doanh nghiệp phi tài chính của nhà nước.
Theo luật quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ
được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Trong đó:
4
Nợ chính phủ là các khoản nợ phát sinh trong các khoản vay trong nước,
nước ngoài được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, chính phủ hoặc các khoản
vay khác do bộ tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của
pháp luật được nhà nước thông qua. Tuy nhiên, nợ công không bao gồm khoản nợ
mà ngân hàng nhà nước phát hành để thực hiện chính sách trong từng thời kỳ.
Nợ được chính phủ bảo lãnh : là khoản nợ do doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước và nước ngoài dưới sự bảo lãnh của chính phủ. Như vậy,
nếu như các tổ chức này không trả được nợ thì chính phủ sẽ phải đứng ra trả nợ thay

thế. Do vậy, đây được coi như một khoản nợ công tiềm ẩn.
Nợ của chính quyền địa phương: là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc được ủy quyền phát hành. Tất cả
các khoản nợ này phải được nhà nước phê duyệt.
Như vậy, qua 3 nhận định của Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới và của
Việt Nam, nợ công được hiểu một cách khái quát nhất là tổng khoản tiền do nhà
nước đi vay hoặc bảo lãnh đi vay trong nước và nước ngoài nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách và các hoạt động . Dù ở trên phương diện nào cũng phản
ánh trách nhiệm của nhà nước trong việc chi trả các khoản nợ này.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, nợ công còn là một khái niệm hết sức mới mẻ. Luật
quản lý nợ công của Việt Nam hẹp hơn so với thông lệ quốc tế khi Việt Nam chưa
tính đến khoản lương hưu phải trả và các loại trợ cấp xã hội khác. Để phản ánh nợ
công một cách hợp lý và hiệu quả, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng tỉ
lệ nợ công trên GDP.
Nợ công góp phần giải quyết nguồn vốn của chính phủ trong việc đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, nợ công góp phần thu hút khoản tiền nhàn rỗi
trong dân cư, khuyến khích nhân dân tiết kiệm, tăng đầu tư. Thông qua việc huy
động vốn này, nhà nước có được khoản tiền nhàn rỗi này để đầu tư nhằm đem lại
hiệu quả kinh tế cho cả khu vực tư và khu vực công. Nợ công còn tận dụng được
nguồn vốn của nước ngoài vào xây dựng đất nước cũng như thúc đẩy hoạt đông hợp
tác song phương giữa các nước.
Phân loại nợ công
5
Căn cứ vào mục đích của khoản vay:
+ Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách: việc chính phủ đi vay nợ để tài trợ cho
thâm hụt ngân sách là nhu cầu thiết yếu của các quốc gia khi nguồn thu trong nước
không đủ để trang trải cho những nhu cầu chi thiết yếu. Trong trường hợp này,
chính phủ có thể phát hành thêm tiền hoặc vay tiền. Việc phát hành thêm tiền
thường để lại hậu quả lên lạm phát nên đây là biện pháp không có lợi cho nền kinh
tế nếu bị lạm dụng quá nhiều. Hơn thế nữa, việc phát hành thêm tiền khiến cho dân

chúng nghĩ rằng thu nhập và mức sống thực sự tăng lên dẫn đến tăng tiêu dùng và
giảm tiết kiệm, đầu tư. Trên thực tế, việc tăng phát hành tiền không phản ánh đúng
sức khỏe của nền kinh tế đó. Bởi sức khỏe của nền kinh tế phụ thuộc vào tổng giá
trị sản phẩm mà nó tạo ra. Có thể thấy, khi thâm hụt ngân sách, nhà nước sẽ sử dụng
phương tiện đầu tiên là vay nợ. Trước hết, chính phủ sẽ vay nợ trong nước và nếu
như tiếp tục cần tiền hoặc cầu trái phiếu chính phủ trong nước đã cạn kiệt thì chính
phủ sẽ đi vay nước ngoài. Tuy nhiên, vay nợ nước ngoài cũng ảnh hưởng đến yếu tố
tỷ giá trong ngắn hạn và trong dài hạn. Như vậy, bất cứ khoản vay nợ nào cũng làm
ảnh hưởng đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của quốc gia đó.
Vay tài trợ các dự án kinh tế xã hội: một quốc gia muốn có một nguồn vốn
lớn mà thu ngân sách không thể đáp ứng được cần đến vay nợ. Các khoản vay này
thường là các khoản vay dài hạn . Lãi suất và gốc của khoản vay này được trả bằng
nguồn thu trong tương lai bao gồm nguồn thu từ ngân sách và nguồn thu từ chính
dự án được đầu tư từ nguồn vốn đi vay đó. Đối với các quốc gia đang phát triển,
việc vay vốn là vô cùng quan trọng để xây dựng cơ sở hạ tầng, kích thích kinh tế
phát triển. Tuy nhiên, các quốc gia cũng nên lưu ý đến việc vay nợ và tính toán đến
nguồn trả nợ .Bởi trên thực tế, có rất nhiều quốc gia không thể trả được gốc và lãi
các khoản nợ khi đáo hạn, dẫn đến tình trạng vỡ nợ của chính phủ.
+ Căn cứ vào điều kiện của khoản vay
Khoản vay thương mại quốc tế: đây là những khoản vay từ các thể chế tài
chính trên thế giới hoặc các quốc gia khác mà không có bất cứ ưu đãi nào. Các
khoản vay này dựa trên yếu tố cung cầu tiền tệ trên thị trường sẽ ảnh hưởng đến lãi
suất cho vay. Với điều kiện đó, các bên đi vay nếu như chấp nhận mức lãi suất đưa
ra sẽ được vay nợ. Như vậy, khoản vay thương mại quốc tế giống như việc kinh
6
doanh tiền tệ giữa các ngân hàng thương mại các nước với nhau. Đồng thời, bên đi
vay cũng không bị ràng buộc bởi các điều kiện khác ngoài điều kiện phải trả lãi và
gốc đúng hạn. Vì đây là khoản vay mang tính chất thương mại nên việc đàm phán
hoãn nợ cũng như giảm nợ là khó xảy ra.
Vay ưu đãi của chính phủ: Là khoản vay của các thể chế tài chính như IMF,

WB tài trợ cho các quốc gia đang phát triển nhằm kích thích sự phát triển kinh tế
của những quốc gia này cũng như trong công cuộc xóa đói giảm nghèo trên toàn cầu.
Các khoản vay này được ưu đãi cho quốc gia được vay trên phương diện lãi suất,
thời gian đáo hạn, thời gian ân hạn. ODA ( Official Development Assitance) là
khoản vay của khối nước các quốc gia phát triển OECD dành cho các nước đang
phát triển. Đặc điểm của khoản vay này bao gồm 2 phần: phần cho không và phần
được hưởng lãi suất thấp hoặc không có lãi suất. Bên cạnh đó, thời hạn của khoản
vay thường kéo dài từ 25 đến 40 năm, thời gian ân hạn từ 8-10 năm. Như vậy,
khoản vay này mang tính viện trợ là chính. Tuy nhiên, những quốc gia muốn có
được khoản vay này cần nhượng bộ một số quyền lợi cũng như điều kiện cho các
quốc gia cấp vốn. Trên thực tế, khoản vay này đang có xu hướng giảm xuống và
không ổn định, phân phối không đồng đều giữa các quốc gia.
+ Căn cứ vào thời hạn của khoản vay
Nợ ngắn hạn: các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ có thời
hạn từ 1 năm trở xuống
Nợ trung hạn: các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ có thời
hạn từ 1 đến 10 năm
Nợ dài hạn : nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ có thời hạn trên
10 năm.
Đặc điểm nợ công
Trước hết cần phân biệt nợ công với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ các
khoản nợ phải trả của một quốc gia bao gồm hai bộ phận là nợ của nhà nước và nợ
của tư nhân. Như vậy, nợ công là một bộ phận của nợ quốc gia. Có nhiều cách tiếp
cận khác nhau nhưng nợ công có những đặc điểm chung như sau:
+ Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm của nhà nước
7
Khác với các khoản vay nợ thông thường, khi người đi vay chỉ phải trả các
khoản nợ do mình đứng ra vay, nợ công được xác định là một khoản nợ mà chính
phủ phải có trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Trách nhiệm chi trả được
thể hiện dưới 2 góc độ : trực tiếp và gián tiếp. Trước hết, đó là các khoản nợ do

chính phủ hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ trực tiếp đi vay trong nước và
nước ngoài nhằm tài trợ cho các khu vực công. Bên cạnh đó, khi nhà nước đứng ra
bảo lãnh cho một đơn vị, tổ chức nào trong nước, thì khoản nợ đó cũng thuộc trách
nhiệm của chính phủ nếu như doanh nghiệp đó không có khả năng trả nợ. Nợ công
là hệ quả của việc nhà nước tiến hành vay vốn để tài trợ cho thâm hụt ngân sách lũy
kế. Thực chất của nợ công là do việc mất cân đối giữa thu, chi ngân sách. Các
khoản thu ít, các khoản chi nhiều dẫn đến ngân sách thâm hụt liên tục qua các năm.
Để tài trợ cho các hoạt động kinh tế, xã hội , chính phủ phải tăng cường đi vay nợ.
+ Nợ công bao gồm ba bộ phận: trong nước, nước ngoài và các thể chế tài
chính quốc tế.
Các khoản vay trong nước là các khoản vay từ người cho vay trong nước.Đối
với các khoản vay nợ trong nước, chính phủ có thể phát hành trái phiếu để tài trợ
cho khoản vay. Trái phiếu phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín
dụng vì trong trường hợp chính phủ không có khả năng để trả lãi và gốc của khoản
vay, chính phủ có thể tăng thuế, hoặc thậm chí in tiền để tài trợ cho khoản nợ này.
Như vậy, việc đi vay trong nước dễ dàng và nguy cơ vỡ nợ cũng không cao so với
việc đi vay nước ngoài
Đối với các khoản vay nước ngoài là các khoản vay từ người cho vay ngoài
nước: việc huy động được các khoản vay nước ngoài phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Trong đó, uy tín và khả năng tài chính của quốc gia đó là 2 yếu tố quan trọng. Cầu
trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ cũng phụ thuộc vào ngoại tệ có phải là đồng tiền
mạnh hay không. Bên cạnh đó, việc vay nợ ngoài với trái phiếu phát hành bằng
ngoại tệ cũng là một phương tiện tín dụng có rủi ro. Nguyên nhân là bởi chính phủ
có thể khan hiếm nguồn ngoại tệ để chi trả, và người nắm giữ trái phiếu phải đối
mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra, vay nợ nước ngoài trực tiếp từ các thể chế tài chính quốc tế như
IMF, Ngân hàng thế giới (WB) Hình thức vay nợ này thường được áp dụng cho
8
các hoạt động mang tính chất cộng đồng, hỗ trợ cho những nước nghèo, nước đang
phát triển cải thiện tình hình kinh tế, xóa đói giảm nghèo và thường dành cho các

nước có xếp hạng tín nhiệm thấp, gặp khó khăn trong việc phát hành trái phiếu, huy
động vốn.
+ Việc đánh giá nợ công và tỷ lệ nợ công là một yếu tố vô cùng quan trọng.
Đó là tỷ trọng của nợ trong nước , nợ nước ngoài trên tổng nợ công. Đối với bất cứ
quốc gia nào, tỉ lệ nợ trong nước trên nợ công cao cũng gặp ít rủi ro vỡ nợ hơn. Tỷ
lệ nợ công cũng không nên chỉ xét theo con số đơn thuần. Nếu chỉ chú trọng vào
những con số nợ công cao dễ gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư. Còn nếu tỷ lệ
nợ công còn trong mức an toàn mà sử dụng ngân sách lãng phí cũng tạo ra những
hiệu ứng xấu. Như vậy, phân tích tỷ lệ nợ công chúng ta phải xem xét tỉ lệ nợ trong
nước, nợ nước ngoài, các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc gia đó.
1.1.1.2.K
h
h
h

áá
ái
ii
in
nn
ni
ii
iệ
ệệ
ệm
mm
mkh
khkh
khủ
ủủ

ủn
nn
ng
gg
gh
hh
ho
oo
oả
ảả
ản
nn
ng
gg
gn
nn
nợ
ợợ
ợc
cc

ôô
ôn
nn
ng
gg
g
Khủng hoảng nợ công xảy ra khi thâm hụt ngân sách lũy kế đến một ngưỡng
nào đó vượt quá khả năng kiểm soát của chính phủ. Khi đó, quốc gia không có khả
năng thanh toán cả gốc và lãi của khoản nợ khi đáo hạn hoặc trong thời gian ân hạn

quy định dẫn đến hiện tượng vỡ nợ quốc gia.
Các tổ chức xếp hạng tín dụng định nghĩa khủng hoảng nợ công là vỡ nợ

chính phủ hay thất bại của chính phủ trong việc hoàn trả các khoản nợ công đầy đủ.

Theo Quỹ tiền tệ thế giới, IMF đã nhận định: khủng hoảng nợ công được xác định
trên các khoản nợ chưa trả được, dựa trên một trong hai điều kiện sau đây hoặc
đồng thời cả hai điều kiện cùng xảy ra:
+ Có những khoản nợ gốc hoặc lãi chưa hoàn trả hoặc hoàn trả dở dang song
phải khất lại nghĩa vụ trả nợ đối với chủ nợ như ngân hàng, tổ chức sở hữu trái
phiếu chiếm trên 5% tổng dư nợ.
+ Có một thỏa thuận gia hạn hoặc tái cơ cấu nợ với chủ nợ được liệt kê
trong Báo cáo phát triển tài chính toàn cầu (GDF) của ngân hàng thế giới (WB).
Theo cách định nghĩa của Moody’s Investors Services (2003), khủng hoảng
nợ công xảy ra khi một nền kinh tế đang phải đối mặt với những trường hợp sau:
+ Có sự ngừng hay hoãn trả lãi hay nợ gốc đến hạn hoặc thanh toán chậm trễ
9
+ Có sự hoán đổi không cân xứng khi nhà phát hành trái phiếu đề nghị người
giữ trái phiếu nắm giữ thêm một hoặc một số trái phiếu mới để giảm nghĩa vụ tài
chính hiện tại của người phát hành. Trong trường hợp này, chủ nợ tức người nắm
giữ trái phiếu không được nhận lại khoản tiền của mình khi trái phiếu đáo hạn mà
lại tiếp tục là chủ nợ đối với một trái phiếu mới sẽ đáo hạn trong tương lai. Điều này
xảy ra khi nhà phát hành trái phiếu không thể thanh toán số trái phiếu ban đầu. Sự
hoán đổi bất cân xứng ở đây là số trái phiếu được coi như công cụ nợ mới có mức
lãi suất coupon hoặc mệnh giá của trái phiếu mới thấp hơn trái phiếu được phát
hành ban đầu. Việc hoán đổi này có thể giúp người đi vay hay nhà phát hành có thể
tránh được những thiếu hụt trầm trọng trong việc trả gốc và lãi của khoản vay.
Theo tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia Standard and Poors ( Chambers
and Alexeeve) định nghĩa: khủng hoảng nợ công là việc không thanh toán được
khoản nợ gốc hoặc khoản lãi khi đến hạn trả hoặc trong thời gian ân hạn trong điều

khoản vay nợ ban đầu. Đối với trái phiếu, tiền mặt và hối phiếu bằng đồng nội tệ
hay ngoại tệ, người phát hành bị coi là rơi vào khủng hoảng khi không thanh toán
được gốc và lãi khi đến hạn hoặc phải ghi nhận thêm một khoản nợ mới với người
nắm giữ trái phiếu với điều khoản có lợi hơn cho nhà phát hành.
Theo cách đánh giá của tổ chức tiền tệ quốc tế ( IMF ), một quốc gia lâm vào
khủng hoảng nợ nếu:
+ Quốc gia đó bị Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước không có
khả năng hoàn trả nợ.
+ Phải xin vay từ IMF một khoản tiền lớn , vượt quá 100% hạn mức tín dụng
đề ra để tài trợ cho khoản nợ trên. Như vậy, nếu một quốc gia vay nợ với khoản tiền
lớn, bất thường từ IMF có thể là một dấu hiệu của khủng hoảng nợ công.
Dù đứng trên góc độ nào thì khủng hoảng nợ công xảy ra là do chính phủ của
quốc gia đó không thể trả được nợ và buộc phải tìm kiếm sự trợ giúp khác
1.1.2. Đặc điểm của khủng hoảng nợ công
Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm chung của
khủng hoảng nợ công.
10
+ Khủng hoảng nợ công mang bản chất là một cuộc khủng hoảng kinh tế và
làm suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài. Nếu khủng hoảng nợ công bùng nổ còn
gây ra những hậu quả nghiêm trọng hơn suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Xét cho
cùng, khủng hoảng nợ công xảy ra là do hoạt động phát hành trái phiếu hoặc vay
vốn nước ngoài tràn lan và không có nguồn chi trả gốc và lãi khi đáo hạn.
+ Khủng hoảng nợ công có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới:
nước phát triển và nước đang phát triển. Các quốc gia phát triển sử dụng nợ công
cho mục đích quân sự, quốc phòng còn các quốc gia đang phát triển sử dụng nợ
công cho mục đích xây dựng kinh tế, cơ sở hạ tầng. Dù với mục đích nào thì tình
trạng nợ công của các quốc gia cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Nếu như các
nước thuộc thế giới thứ ba (các quốc gia đang phát triển) thường xuyên phải trì
hoãn hoặc khất nợ thì khủng hoảng nợ hoàn toàn có thể xảy ra ở các nước đang phát
triển, nơi mà trình độ phát triển kinh tế tương đối cao và ổn định.

+ Mặc khác, do nợ công không phải là tài sản của nhà nước, thuộc quyền sở
hữu hay sử dụng của nhà nước mà ngược lại là một khoản nợ nên một khi khủng
hoảng nợ công đã diễn ra sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy không chỉ riêng lĩnh vực kinh
tế mà tất các các khía cạnh của xã hội.
+ Thâm hụt ngân sách phản ánh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Khi
khoản thâm hụt lớn khiến chính phủ phải tăng cường đi vay dưới sự đảm bảo của
mình. Do vậy, khi không thể trả được nợ , khủng hoảng nợ công sẽ xảy ra. Khủng
hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc gia xảy ra khủng
hoảng. Khi nợ công tăng cao, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi
đó nền kinh tế sẽ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ trên thế giới.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công
Mỗi quốc gia với nền kinh tế xã hội phát triển khác nhau sẽ có những yếu tố
khác nhau dẫn đến khủng hoảng nợ công. Tuy nhiên nguyên nhân chính gây ra
khủng hoảng nợ công ở tất cả các quốc gia đều gặp phải đó là hoạt động chi tiêu của
chính phủ lớn, trong khi đó nguồn thu từ ngân sách không đáp ứng được đầy đủ các
khoản chi tiêu dẫn đến thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn đi
vay không hiệu quả cùng với sự thiếu minh bạch về quản lý nợ công cũng là nguyên
nhân dẫn đến việc mất khả năng chi trả của chính phủ.
11
1.2.1. Thâm hụt ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một khái niệm được định nghĩa khác nhau trên thế
giới. Tại nước Nga, định nghĩa về ngân sách nhà nước như sau : Ngân sách nhà
nước là bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của
một quốc gia.
Tại Việt Nam, theo luật ngân sách nhà nước được quốc hội thông qua vào
ngày 16/12/2002, ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước
trong dự toán đã được chính quyền nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước. Như vậy, dù nhìn ở góc độ nào thì ngân sách nhà nước cũng phản ánh các
quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền

tệ tập trung của nhà nước.
Thâm hụt ngân sách hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước. Là tình trạng
khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính
hoàn trả của ngân sách nhà nước. Chỉ tiêu phản ánh thâm hụt ngân sách nhà nước
thường được sử dụng là tỷ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng thu trong ngân
sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
1.2.1.1.Sự
ựự
ựgi
gigi
gia
aa
at
tt

ăă
ăn
nn
ng
gg
gm
mm
mạ
ạạ
ạn
nn
nh
hh
ht

tt
tr
rr
ron
onon
ong
g
g
gc
cc
ch
hh
hi
ii
t
tt
ti
ii

êê
êu
uu
ut
tt
từ
ừừ
ừn
nn
ng
gg


ââ
ân
nn
ns
ss

áá
ác
cc
ch
hh
hc
cc
củ
ủủ
ủa
aa
ac
cc
ch
hh

íí
ín
nn
nh
hh
hph
phph

phủ
ủủ

Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách
nhà
nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước. Đối với bất kỳ quốc gia nào,
việc chi ngân sách nhà nước đều liên quan đến hai khoản chi sau: chi tích lũy và chi
tiêu dùng. Chi tích lũy là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất, chi đầu tư phát
triển và tăng tiềm lực cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi tiêu dùng
bao gồm những khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương
lai, bao gồm chi cho các khoản hành chính sự nghiệp, chi quốc phòng , an ninh Có
rất nhiều các quốc gia trên thế giới đã quá chú trọng đến chi tiêu dùng mà đặc biệt
là chi cho quân sự. Những khoản chi này thường rất lớn gây tốn kém cho ngân sách
12
1.2.1.2.Cá
áá
ác
cc
cn
nn
ngu
gugu
guồ
ồồ
ồn
nn
nt
tt
th
hh

hu
uu
uc
cc
ch
hh
ho
oo
on
nn
ng
gg

ââ
â
n
nn
ns
ss

áá
ác
cc
ch
hh
hn
nn
n
h
h

h

àà
àn
nn

ưư
ướ
ớớ
ớc
cc
ct
tt

ăă
ăn
nn
n
g
g
g
gc
cc
ch
hh
h

ậậ
ậm
mm

mh
hh

ơơ
ơn
nn
nn
nn
nh
hh
hu
uu
uc
cc
cầ
ầầ
ầu
uu
uc
cc
c
h
h
h
hi
ii
i
Các nguồn thu về ngân sách bao gồm các nguồn thu thường xuyên về thuế,
phí và lệ phí. Nếu như có thâm hụt ngân sách xảy ra, nhà nước sẽ thực hiện các
nguồn thu khác để bù vốn về cho ngân sách. Các hoạt động chủ yếu là đi xin viện

trợ từ nước ngoài, đi vay và cuối cùng là bán các tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Ở
đây đề cập đến nguồn thu cho ngân sách nhà nước là thuế, phí và lệ phí. Khoản thu
từ thuế, phí, lệ phí là khoản thu chính, thường xuyên và mức độ ổn định phụ thuộc
và chính sách thuế của nhà nước trong từng thời kỳ. Nếu như chính phủ áp dụng
chính sách tài khóa mở rộng, tăng cường chi tiêu chính phủ, giảm nguồn thu vào
ngân sách bằng việc giảm thuế nhằm kích thích nền kinh tế phát triển. Ngược lại,
nếu chính phủ muốn áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt, các nguồn thu từ thuế,
phí, lệ phí sẽ tăng lên, các khoản chi tiêu giảm đi. Do đó, trong từng thời kỳ, các
quốc gia sẽ áp dụng các chính sách tài khóa khác nhau và các nguồn thu từ ngân
sách cũng vì thế mà không ổn định. Trong trường hợp chính phủ áp dụng chính sách
tài khóa mở rộng sẽ làm thâm hụt ngân sách càng nghiêm trọng hơn khi các hoạt
động thu không đáp ứng nhu cầu của các hoạt động chi tiêu.Bên cạnh chính sách tài
khóa ảnh hưởng đến nguồn thu của chính phủ, thì các nhân tố ảnh hưởng đến thu
ngân sách còn bao gồm GDP, tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế, tiềm năng tài
nguyên thiên nhiên của đất nước.
+ Nhân tố GDP bình quân đầu người: chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia, khả năng tiết kiệm và đầu tư của cả nền kinh tế.
Nếu GDP bình quân đầu người của một quốc gia cao thì các khoản thu về ngân sách
quốc gia đó cũng cao tương ứng. Bởi khi đó, người dân sẵn sàng cho chi trả nhiều
hơn đối với nghĩa vụ hơn là những quốc gia có GDP bình quân đầu người thấp. Như
vậy, đây là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách của một
quốc gia. Trong giai đoạn kinh tế giảm sút kéo theo sự sụt giảm về GDP bình quân
đầu người sẽ kéo theo sự sụt giảm về thu ngân sách.Ngược lại, kinh tế phát triển
luôn là những tín hiệu tốt cho chính phủ của mỗi quốc gia.
+ Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế: đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
đầu
tư phát triển trong nền kinh tế. Nếu như tỷ suất doanh lợi càng cao khiến cho GDP
13
nguồn thu vào ngân sách càng nhiều. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia do quá nôn nóng
trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển, nhà nước áp dụng nhiều biện pháp tăng thu

vào ngân sách. Việc tăng thu ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân.
Chính vì vậy, phải có một chính sách phù hợp cân đối giữa thu và chi sao cho cả
nhà nước và người dân đều được hưởng lợi.
+ Đối với các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên thì nguồn thu về ngân
sách tăng cao. Nguyên nhân thường là do bán tài nguyên, khoáng sản cho các
quốc gia khác- Đây là một hiện tượng rất phổ biến ở các quốc gia đang phát triển.
Tuy nhiên, nhà nước nên chú trọng đến vấn đề này bởi ngân sách sẽ chỉ tăng cao
trong một thời gian ngắn, khi những tài nguyên còn dồi dào. Khi tài nguyên thiên
nhiên cạn kiệt, nguồn thu chính phủ không còn, nhà nước phải cầu viện đến nguồn
thu khác. Mặt khác, việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bừa
bãi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên và các yếu tố kinh tế, xã
hội khác.
+ Bên cạnh đó, các nguồn thu về ngân sách chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
những hiệp ước mà quốc gia đó tham gia. Nếu một quốc gia tham gia vào tổ chức
thương mại thế giới thì quốc gia đó phải đáp ứng đủ các điều kiện về cắt giảm các
khoản phí, thuế hải quan nhằm tiến tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất với các
nguyên tắc không phân biệt đối xử, tự do hóa mậu dịch .
Như vậy, khoản thu về ngân sách chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Chính phủ cần những biện pháp phù hợp trong từng giai đoạn để nguồn thu ngân
sách vẫn đù bù đắp nhu cầu chi tiều của chính phủ mà không gây ra gánh nặng cho
dân chúng.
1.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn vay thấp
Các quốc gia đều mong muốn đi vay để tài trợ cho các hoạt động phát triển
kinh tế cũng như bù đắp thâm hụt ngân sách của mình. Những quốc gia đang phát
triển được khuyến khích vay tiền để tài trợ cho các khoản nợ và tiến hành các dự án
phát triển tài chính quốc gia , đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật
như đường xá, kè đập. Tuy nhiên, khi nắm vốn trong tay thì không phải quốc gia
nào cũng biết sử dụng vốn hiệu quả. Việc chi tiêu vào những nhu cầu chưa thực sự
14
cần thiết, những hành vi vung tay quá trán là những biểu hiện tiêu biểu nhất của


việc sử dụng vốn không hiệu quả.
Việc sử dụng vốn vay không phù hợp với thời hạn của khoản vay là một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay. Một số quốc gia áp
dụng chính sách vay ngắn hạn để tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn. Khi áp dụng
chính sách này, nếu như lãi suất thị trường tăng lên, chính phủ phải đối mặt với các
nguy cơ về rủi ro lãi suất khi có sự chênh lệch về cấu trúc kỳ hạn. Như vậy, lãi suất
thực trả tăng cao khiến cho chi phí của khoản vay nợ cao hơn, trong khi đó hiệu quả
đầu tư không thay đổi sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của chính phủ. Bên cạnh
đó, nếu sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn, chính phủ sẽ ảnh hưởng bởi tình
trạng thiếu vốn, khi mà khoản nợ đã đến hạn trả mà dự án chưa hoàn thành. Vì vậy,
dự án dở dang, phải chờ đợi thêm nguồn vốn mới cũng là một vấn đề cần chú ý.
Yếu tố khác dẫn đến việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả là do sự lãng phí
trong việc sử dụng nợ công . Chính phủ các quốc gia sử dụng vốn dàn trải trong
nhiều dự án cho nhiều ngành nghề dẫn đến mọi dự án đều dở dang, đói vốn và
thời gian hoàn thành kéo dài, chậm đi vào hoạt động. Như vậy, chi phí đầu tư
càng tăng cao.
1.2.3.Sự thiếu minh bạch về quản lý nợ công
Đối với các quốc gia phát triển, khi mà mọi điều kiện về cơ sở vật chất, hạ
tầng phát triển tương đối cao thì tình trạng nợ công cao là do thói quen chi tiêu của
dân chúng cũng như chính phủ. Người dân thường có thói quen chi tiêu nhiều hơn
các nước đang phát triển, chính phủ cũng vì thế mà không mấy quan tâm đến tỷ lệ
nợ công. Nếu chính phủ buông lỏng trong quản nợ công cùng sự lãng phí, thất thoát
trong chi tiêu dẫn đến tỷ lệ nợ công ngày càng tăng cao.
Đối với các nước đang phát triển, do nhu cầu vốn cao, chính phủ phải vay nợ
nhiều nhưng không có sự giám sát chặt chẽ, hiệu quả sử dụng vốn kém sẽ gây ra hiện
tượng mất khả năng thanh toán. Các khoản đầu tư được giải ngân, nhiều chính phủ
không chú trọng đến việc giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích.Ví dụ, một
khoản vốn được tài trợ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng lại được sử dụng vào mục đích
chi tiêu dùng. Như vậy, việc lơ là trong quản lý nợ công của chính phủ đã tiếp tay

cho
15
hoàn thiện. Bên cạnh đó, các chính phủ khi cấp vốn cho các dự án không tính đến
khả

năng thanh toán và nguồn trả nợ. Như vậy, quá trình đi vay của nhiều nước đang
phát

triển không tính toán đến những lợi ích về kinh tế thu được cũng như bỏ ra.
Cùng với sự thiếu hiệu quả trong hoạt động đầu tư là nạn tham nhũng hoành
hành, trốn thuế, buôn lậu Cơ chế xin cho dự án đã tạo ra thất thoát ngân sách
không nhỏ. Khi các khoản vay cho chi tiêu trong nước vượt quá một ngưỡng giới
hạn nhất định và đến một thời điểm nhất định thì chính phủ phải trả những khoản nợ
đó. Tuy nhiên do khả năng giám sát quản lý các khoản nợ công kém, nhà nước
không thể chi trả được các khoản nợ, các khoản nợ ngày càng tăng cao đến mức
chính phủ một nước phải thừa nhận không đủ khả năng chi trả thì khủng hoảng nợ
công xảy ra.
1.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đối với nền kinh tế.
1.3.1.Tác động đến các chỉ số kinh tế vĩ mô

1.3.1.1.Lạ
ạạ
ạm
mm
mph
phph
phá
áá
át
tt

t
Trước hết, lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục của mức giá
chung hoặc có thể hiểu là sự suy giảm sức mua của đồng nội tệ. Theo cách hiểu này,
mức giá trung bình của tất cả các mặt hàng đều tăng lên liên tục trong một thời gian
kéo dài được gọi là lạm phát.
Có hai nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát do cầu kéo và lạm phát chi phí
đẩy. Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi nền kinh tế tiêu dùng nhiều hơn những gì sản
xuất ra được hay tổng cầu tăng trong khi đó tổng cung đã đạt mức tối đa. Lạm phát
do chi phí đẩy là lạm phát xảy ra khi một loạt các chi phí trong nền kinh tế tăng lên,
chủ yếu là nguyên vật liệu, thuế và hàng hóa tiêu dùng. Có thể nói, lạm phát là nguy
cơ đối với người nắm giữ tiền tệ.
Khi một quốc gia đối mặt với khủng hoảng nợ mà nguyên nhân chính là do
thâm hụt ngân sách, quốc gia đó sẽ phải đối mặt với tình trạng lạm phát tăng cao.
Nguyên nhân là vì quốc gia đó cần một lượng ngoại tệ lớn để hoàn trả gốc và lãi đi
vay, cầu về ngoại tệ tăng khiến giá trị đồng ngoại tệ lên giá so với đồng nội tê. Nói
cách khác, đồng nội tệ đang mất giá tương đối so với đồng ngoại tệ. Đồng nội tệ
mất giá, giá cả tăng cao khiến chi phí sản xuất cũng tăng cao tương ứng, ảnh hưởng
16
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, lạm
phát cao làm ảnh hưởng đến tâm lý của người dân. Dân chúng sẽ không tin tưởng
vào giá trị của đồng nội tệ, tăng cường tiêu dùng hoặc đầu tư vào các tài sản khác
như vàng, bất động sản thay vì tiết kiệm để đầu tư trong tương lai.Việc người dân
quay lưng lại với đồng nội tệ càng làm cho tình hình kinh tế trở nên bất ổn hơn.Như
vậy, lạm phát tăng cao làm cho các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên
khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về sức mua tương lai của họ bị
giảm sút và mức sống của họ cũng vì thế mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích
các hoạt động đầu tư mang tính trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất .
Ví dụ, khi lạm phát tăng cao, nếu ngân hàng không tăng lãi suất cao hơn mức tăng
của lạm phát thì người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà thay vào đó là đầu cơ
vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao Lạm phát tăng cao còn đặc biệt ảnh

hưởng xấu đến những người có nguồn thu nhập danh nghĩa cố định như công chức
và hưu trí. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ giảm sút đáng kể.
Lạm phát tăng cao do chính phủ tăng vay nợ trong nước bằng cách phát hành
trái phiếu cũng khiến lãi suất trong nước tăng. Lãi suất tăng làm nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp bị thắt chặt hoặc phải chấp nhận chi phí lãi vay cao. Khi đó, giá thành
và giá bán sản phẩm sẽ tăng lên tương ứng. Cứ như vậy, giá bán tăng cao lại gây ra
lạm phát, gây gánh nặng cho nền kinh tế.
1.3.1.2.Tố
ốố
ốc
cc
cđộ
độđộ
đột
tt

ăă
ăn
nn
ng
gg
gt
tt
tr
rr

ưư
ưở
ởở
ởn

nn
ng
gg
gG
GG
GD
DD
D
P
PP
P
GDP ( Gross Domestic Product )- tổng sản phẩm quốc nội : là tổng giá trị
bằng tiền của toàn bộ hàng hóa, dịch vụ mà một quốc gia sản xuất trong vùng lãnh
thổ của nước đó, dù là do người trong nước hay người nước ngoài cư trú tại quốc
gia đó tạo ra trong một thời gian nhất định, thường là một năm.
Công thức tính GDP:
GDP = C + I + G + X – IM
Trong đó:
C : là tiêu dùng của dân cư
I : đầu tư, là giá trị của toàn bộ hàng hóa dịch vụ được đưa vào quá trình tái sản xuất

nhằm tạo ra thu nhập quốc dân
17
X : giá trị xuất khẩu

IM : giá trị nhập khẩu
Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, nhu cầu vay tiền để trả nợ của chính phủ
tác động trực tiếp đến các thành phần cấu thành nên GDP. Đặc biệt, thu ngân sách
nhỏ hơn chi ngân sách khiến cho G < 0. Do đó, GDP giảm như một hệ lụy tất yếu.
Bên cạnh đó, khủng hoảng nợ cũng làm cho chỉ số I giảm đáng kể. Bởi I là

đầu tư của khu vực tư nhân, tuy nhiên việc đầu tư này khác với đầu tư mang tính
đầu có tích trữ vào thị trường chứng khoán. Khủng hoảng nợ gây ra lạm phát , giá
cả đi vay vốn tăng cao làm cho hoạt động sản xuất bị đình trệ. Hơn nữa, trong điều
kiện kinh tế bất ổn, nhà đầu tư chắc chắn sẽ không dám mạo hiểm khi đầu tư quá
nhiều tài sản vào hoạt động sản xuất. Lúc này hoạt động sản xuất chỉ mang tính cầm
chừng và duy trì. Khi đó, chỉ số I giảm mạnh, ảnh hưởng đến nhân tố GDP.
Ngoài ra, khủng hoảng nợ còn ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư quốc tế và
hoạt động xuất nhập khẩu.
1.3.1.3.Đ



ầu
uu
ut
tt

ưư
ưqu
ququ
quố
ốố
ốc
cc
ct
tt
tế
ếế
ế
Khi khủng hoảng nợ xảy ra, chính phủ phải huy động vốn bằng cách phát

hành trái phiếu để vay vốn trên thị trường mở. Khi cung trái phiếu chính phủ tăng
cao trong khi đó cầu trái phiếu không tăng lên tương ứng sẽ dẫn đến tình trạng giá
trái phiếu giảm, lãi suất trái phiếu phải tăng lên để bù đắp những đòi hỏi về lãi suất
hoàn vốn của nhà đầu tư. Khi lãi suất trái phiếu tăng dẫn đến lãi suất thị trường tăng.
Các nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc huy động vốn sẽ dẫn đến đầu tư trong nước
cũng như quốc tế giảm. Số lượng dự án có thể không đổi tuy nhiên lượng vốn sẽ
không được dồi dào như trước. Đồng thời, nhà đầu tư ở một quốc gia đang có nguy
cơ vỡ nợ sẽ khó huy động được nguồn vốn từ các ngân hàng nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào quốc

gia có khủng hoảng nợ cũng là một điều khó khăn. FDI ( Foreign Direct Investment)

là hàm số phụ thuộc vào quy mô thị trường của nước mời gọi thị trường. Đối với

quốc gia đang xảy ra khủng hoảng nợ, các nhà đầu tư sẽ lo ngại vấn đề tính hiệu quả

của dự án đầu tư nếu đầu tư vào quốc gia này. Tình hình kinh tế bất ổn kèm theo
nhiều ảnh hưởng xấu đến tâm lý của nhà đầu tư. Hay nói cách khác là sự mất lòng
18
tin của nhà đầu tư vào nền kinh tế đó. Phần đông các công ty đầu tư vào các nước
để khai thác tiềm năng, lợi thế về chi phí, trong đó thường là yếu tố lao động, và
nguyên vật liệu rẻ. Khi lạm phát tăng cao do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng nợ,
chi phí nhân công và nguyên vật liệu cũng tăng lên. Như vậy, nếu như trước khủng
hoảng nợ công, lợi thế về lao động và giá thành nguyên vật liệu là yếu tố quyết định
đến mức đầu tư nước ngoài thì khi khủng hoảng nợ công xảy thì lợi thế này đã
không còn. Do đó, nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm.
Bên cạnh đó, chi phí tăng cao sẽ kéo theo lạm phát tăng nguyên nhân do chi
phí đẩy. Cứ như vậy sẽ tạo thành một vòng xoáy giữa chi phí và lạm phát. Nhà đầu
tư phải cần nhắc kỹ càng trước quyết định đầu tư.
1.3.1.4.Xu

uu
uấ
ấấ
ất
tt
tn
nn
nh
hh
hậ
ậậ
ập
pp
pkh
khkh
khẩ
ẩẩ
ẩu
uu
u
+ Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền. Cũng giống như bất kỳ
hàng hóa nào trên thị trường, tỷ giá hối đoái được xác định dựa trên cung cầu tiền tệ
trên thị trường ngoại hối. Chính phủ phải vay nợ trong nước hoặc nước ngoài để tài
trợ cho khoản nợ đó. Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài thì về dài hạn sẽ làm cho tỷ
giá hối đoái tăng lên do nhu cầu ngoại tệ để chi trả gốc, lãi của khoản vay.
Khi một quốc gia xảy ra khủng hoảng nợ công, lạm phát tăng cao dẫn đến
giá trị đồng nội tệ suy giảm do người dân mong muốn các tài sản nước ngoài nhiều
hơn, cầu ngoại tệ tăng cao đẩy tỷ giá tăng.
Bên cạnh đó, tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào tâm lý của dân chúng, giới đầu tư,

ngân hàng, hay là những người đóng vai trò vào quá trình hình thành cung cầu thị
trường ngoại hối. Tâm lý của nhà đầu tư cùng kỳ vọng về tỷ giá hối đoái tương lai
cũng ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái hiện tại. Tại thời điểm khủng hoảng nợ xảy ra,
tâm lý các nhà đầu tư và dân chúng không ổn định, họ cho rằng tỷ giá hối đoái sẽ
tăng lên trong tương lai do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Do vậy, ngay tại
thời điểm hiện tại, dân chúng và nhà đầu tư đã đổ xô đi mua ngoại tệ khiến cho tỷ
giá tăng lên hay đồng nội tệ giảm giá.
+ Xuất khẩu
Xuất khẩu là việc đưa hàng hóa bao gồm hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu
hình ra nước ngoài và thu về ngoại tệ. Khủng hoảng nợ tác động làm cho lạm phát
19
trong nước tăng cao, khiến cho giá trị của đồng nội tệ suy giảm. Giả sử rằng tại thời
điểm đó, tỷ giá hối đoái không đổi, thì hàng hóa dịch vụ trong nước trở nên đắt hơn
so với hàng hóa dịch vụ ở nước ngoài. Khi đó, dân chúng sẽ đổ dồn sang tiêu dùng
hàng nước ngoài nhiều hơn, trong khi đó dân chúng các quốc gia khác sẽ không sử
dụng hàng của nước đang khủng hoảng bởi giá thành cao. Kim ngạch xuất khẩu
của nước đó giảm đi đáng kể, tỷ giá sẽ tăng lên ngay sau đó.
Trường hợp khác, khi khủng hoảng xảy ra, yếu tố tỷ giá hối đoái được điều
chỉnh ngay khi giá trị đồng nội tệ giảm. Khi đó, giá trị hàng hóa xuất khẩu tính bằng
ngoại tệ giảm, kích thích tăng khối lượng xuất khẩu dẫn đến tăng giá trị xuất khẩu
tính bằng nội tệ.
+ Nhập khẩu: có hai trường hợp xảy ra dựa trên cách đánh giá sự thay đổi
của tỷ giá hối đoái. Lạm phát làm cho giá trị đồng nội tệ giảm, với điều kiện tỷ giá
hối đoái hiện tại không thay đổi sẽ làm nhu cầu sử dụng hàng nước ngoài tăng cao.
Khi đó, kim ngạch nhập khẩu của nước đang chịu khủng hoảng tăng . Ngay sau đó,
tỷ giá sẽ tăng lên tương ứng.
Nếu trường hợp đánh giá ngay tỷ giá hối đoái tăng do đồng nội tệ bị mất giá,
chi phí nhập khẩu trở nên đắt hơn. Do vậy, kim ngạch nhập khẩu giảm đi tương ứng.
Như vậy, nếu xét trên góc độ lạm phát ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập
khẩu với giả thiết là tỷ giá chưa thay đổi thì khủng hoảng nợ xảy ra làm cho xuất

khẩu giảm, nhập khẩu tăng, làm cho cán cân vãng lai bị thâm hụt nghiêm trọng. Bên
cạnh đó, ảnh hưởng của hoạt động xuất nhập khẩu làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên
tương ứng, tác động cộng gộp càng làm cho tỷ giá tăng mạnh hơn. Vì vậy, đồng nội
tệ ngày càng bị mất giá.
Nếu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái được đánh giá ngay khi khủng hoảng nợ
xảy ra thì kim ngạch xuất khẩu tăng, kim ngạch nhập khẩu giảm.
1.3.2.Tác động đến hệ thống tài chính
1.3.2.1.Tă
ăă
ăn
nn
ng
gg
gt
tt
tr
rr

ưư
ưở
ởở
ởn
nn
ng
gg
gt
tt

íí
ín

nn
nd
dd
dụ
ụụ
ụn
nn
ng
gg
g
Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên của các khoản cho vay trong khối

nhân, cá nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng. Khủng hoảng nợ công khiến chính
phủ phải tăng cường vay nợ trong nước và nước ngoài. Cung trái phiếu chính phủ
20
dồi dào trong khi đó cầu trái phiếu không tăng cao tương ứng khiến lãi suất trái
phiếu chính phủ tăng cao, khiến yêu cầu về lãi suất trên thị trường cũng phải tăng
theo. Khi lãi suất tăng cao, hầu hết các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp
cận với nguồn vốn cũng như phải trả chi phí cao hơn cho nguồn vốn. Chi phí vốn
tăng lên cao khiến giá thành sản phẩm cũng tăng theo. Các doanh nghiệp sẽ phải
hoạt động cầm chừng hoặc ngừng hoạt động. Lãi suất tăng cao, chi phí nguyên vật
liệu tăng mạnh làm cho hoạt động kinh tế bị ngưng trệ. Nếu như hoạt động kinh tế
bị ngừng trệ có thể gây ra các khoản nợ xấu cho ngân hàng.
1.3.2.2.Th
hh
hị
ịị
ịt
tt
tr

rr

ưư
ườ
ờờ
ờn
nn
ng
gg
gc
cc
ch
hh
hứ
ứứ
ứn
nn
ng
gg
gkh
khkh
kho
oo

áá
án
nn
n
Có thể nói thị trường chứng khoán là một phong vũ biểu của nền kinh tế.
Nếu thị trường chứng khoán phát triển thì nền kinh tế đó đang trên đà tăng trưởng

và ngược lại. Phân tích chứng khoán bao gồm việc phân tích cung cầu của chứng
khoán đó. Lạm phát là yếu tố hàng đầu quyết định đến giá trị các khoản đầu tư
chứng khoán. Rủi ro xuất phát từ lạm phát là một trong những rủi ro cơ bản trong
đầu tư chứng khoán.
Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của mỗi quốc
gia. Khủng hoảng nợ công làm cho hoạt động sản xuất, đầu tư của các doanh nghiệp
bị đình trệ, gây ảnh hưởng xấu đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp đó.
Khi đó, giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng vì thế mà bị sụt giảm, đặc biệt với các
doanh nghiệp vốn đang sụt giảm khó có khả năng phục hồi.
Khủng hoảng nợ công làm lạm phát tăng – một biểu hiện bất ổn của nền kinh
tế. Chính phủ không có những động thái hiệu quả để kiềm chế lạm phát đang leo
thang từng ngày cũng có thể gây ra khủng hoảng niềm tin của nhà đầu tư. Khi đó,
thị trường chứng khoán không đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư sẽ dẫn đến
tình trạng không đầu tư hoặc bán tháo chứng khoán. Như vậy, cung chứng khoán sẽ
lớn hơn gấp nhiều lần so với cầu chứng khoán và thị trường diễn ra tình trạng kém
thanh khoản trầm trọng.
Trước hết, ảnh hưởng của khủng hoảng nợ lên giá trái phiếu được phân tích
21
Trong đó:
Po : giá trái phiếu đầu kỳ
Pn: giá bán trái phiếu cuối kỳ n

Cn: lãi suất coupon thời kỳ n
YTM: lợi suất khi đáo hạn của trái phiếu
Khủng hoảng nợ khiến lạm phát tăng cao, chính phủ buộc phải sử dụng
những biện pháp thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Khi đó, mức lãi suất chung
trên thị trường có xu hướng tăng . Nhà đầu tư yêu cầu lãi suất khi đáo hạn YTM
cũng phải tăng lên. Do quan hệ nghịch biến giữa giá và lợi suất của trái phiếu, giá
trái phiếu trên thị trường giảm xuống và để tránh rủi ro này, nhà đầu tư nắm giữ trái
phiếu có xu hướng bán ra trái phiếu hoặc cơ cấu lại danh mục đầu tư. Hệ quả là thị

trường trái phiếu diễn ra tình trạng bán tháo trái phiếu gây ảnh hưởng tiêu cực tới
thị trường đấu thầu và huy động vốn trái phiếu.
Đối với thị trường cổ phiếu có thể giải thích theo mô hình cổ phiếu tăng trưởng đều
của Gordon:
Trongđó:
PV : giá trị hiện tại của cổ phiếu

Do : Cổ tức thời kỳ đầu
g: tốc độ tăng trưởng cổ tức
Ke: lợi suất yêu cầu khi đầu tư vào cổ phiếu
Do lạm phát xảy ra yêu cầu chính phủ phải thực thi chính sách tiền tệ thắt
chặt, lãi suất trên thị trường có xu hướng tăng. Khi lãi suất thị trường tăng, nhà đầu
tư yêu cầu lợi suất cao hơn đối với cổ phiếu hay ke phải tăng lên. Khi đó hiệu
( Ke – g ) tăng. Trong khi đó giá cổ tức thời kỳ đầu không thay đổi, tốc độ tăng
trưởng cổ tức không đổi dẫn đến giá cổ phiếu giảm xuống. Khi giá cổ phiếu giảm
trong thời gian kéo dài dẫn đến suy thoái do các hoạt động bán trước cổ phiếu để
phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
22
Khủng hoảng nợ công còn ảnh hưởng lớn đến tâm lý của nhà đầu tư. Các nhà
đầu tư cảm thấy giá trị các khoản vốn đầu tư của họ vào chứng khoán bị sụt giảm do
ảnh hưởng của lạm phát cũng là một yếu tố khiến thị trường chứng khoán trở nên
kém hấp dẫn. Vì vậy, nhà đầu tư thay vì đầu tư vào chứng khoán sẽ gửi tiền tiết
kiệm do lãi suất đã được các ngân hàng điều chỉnh tăng để đảm bảo lãi suất thực tế
dương. Ngoài ra, việc đầu tư vào bất động sản và giá vàng cũng là một trong những
lựa chọn của giới đầu tư khi thị trường chứng khoán không ổn định. Như vậy, khi
khủng hoảng nợ xảy ra thì nhà đầu tư quan tâm đến tính an toàn hơn là tính sinh lời
của khoản đầu tư.
1.3.2.3.Th
hh
hị

ịị
ịt
tt
tr
rr

ưư
ườ
ờờ
ờn
nn
ng
gg
gb
bb
bấ
ấấ
ất
tt
tđộ
độđộ
độn
nn
ng
gg
gs
ss
sả
ảả
ản

nn
n
Bất động sản bao gồm nhà cửa, đất đai, các công trình xây dựng gắn liền với
đất đai. Nhu cầu về nhà ở là nhu cầu cơ bản thiết yếu , do vậy, cầu về nhà ở sẽ tăng
lên tương ứng với tốc độ tăng của thu nhập khi mức thu nhập đã vượt quá mức giới
hạn về cầu lương thực và thực phẩm. Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, GDP bình
quân đầu người sẽ giảm, cầu về nhà ở cũng giảm theo. Khi đó, thị trường bất động
sản đóng băng. Đối với các dự án bất động sản trả góp thì đây chính là nguồn nợ
xấu cho ngân hàng.
Mặt khác, khi khủng hoảng nợ xảy ra, các nhà đầu tư có nhu cầu nắm giữ bất
động sản để tránh sự trượt giá khi nắm giữ nội tệ, giảm thiểu rủi ro của lạm phát.
Chính vì vậy, rất khó đánh giá được sự dịch chuyển của cầu bất động sản trong điều
kiện kinh tế khủng hoảng.
1.3.3.Tác động lên các lĩnh vực khác
1.3.3.1.Đờ
ờờ
ời
ii
is
ss
số
ốố
ốn
nn
ng
gg
gx
xx

ãã

ãh
hh
hộ
ộộ
ội
ii
i
Nợ công làm các hoạt động kinh tế, xã hội bị giảm đi đáng kể về mặt số
lượng và chất lượng. Nếu chính phủ tiến hành vay nợ từ trong dân chúng bằng cách
phát hành trái phiếu, lãi suất để trả cho trái phiếu này cũng xuất phát từ nguồn thuế,
phí, lệ phí thu được từ người dân. Điều này gây ra sự phân phối lại thu nhập trong
xã hội. Người giàu phải trả nhiều khoản thuế hơn để chi trả lãi suất trái phiếu mà
chính phủ phát hành. Người bị đánh thuế chắc chắn sẽ giảm chi tiêu, tăng tiết kiệm.
Như vậy, ảnh hưởng của nợ công làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng.
23
Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài để tài trợ cho khoản thâm hụt ngân sách,
lãi suất và gốc phải trả cũng là điều đáng lưu ý. Người dân sẽ phải chịu khoản thuế
cao hơn trong tương lai để trả lãi vay nước ngoài. Do vậy, gánh nặng nợ nần luôn
đè nặng lên vai dân chúng.
Gánh nặng lên thế hệ tương lai
Xét cho cùng, nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Khi nhu
cầu chi lớn hơn khoản thu về ngân sách khiến thâm hụt ngân sách xảy ra. Để trang
trải cho khoản nợ này, chính phủ phải đi vay. Khi khoản vay đến hạn trả nợ gốc và
lãi thì chính phủ phải tăng cường thu thuế của người dân. Như vậy, nợ công là sự
lựa chọn thời gian đánh thuế: hiện tại hay tương lai
Có ý kiến cho rằng, gánh nặng nợ công dành cho thế hệ hiện tại bởi khoản
vốn tích lũy của họ nằm trong trái phiếu chính phủ. Khi khủng hoảng nợ công xảy
ra, chính phủ không còn khả năng thanh toán gốc và lãi của khoản vay khi đáo hạn.
Tuy nhiên, chính phủ sẽ không để cho trường hợp vỡ nợ xảy ra. Và thế hệ tương lai
lại tiếp tục gánh khoản nợ này. Như vậy, thế hệ tương lai phải tiết kiệm trong chi

tiêu khi thu nhập thực tế của họ bị giảm sụt giảm nghiêm trọng hay nói cách khác,
gánh nặng nợ công chính là sự giảm trợ cấp cho thế hệ tương lai. Hậu quả của việc
sụt giảm thu nhập của thế hệ tương lai là sự sụt giảm về chất lượng cuộc sống.
Bên cạnh đó, nợ công khiến lãi suất thị trường nội địa tăng cao do hoạt động
phát hành trái phiếu của chính phủ, đầu tư tư nhân giảm, hoạt động sản xuất bị đình
trệ, thất nghiệp tăng cao, kinh tế tăng trưởng chậm hơn. Như vậy, tỷ lệ nợ công cao
gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho cả thế hệ hiện tại và tương lai.
1.3.3.2.Lĩ
ĩĩ
ĩn
nn
nh
hh
hv
vv
vự
ựự
ực
cc
ckh
khkh
khá
áá
ác
cc
c
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia đối mặt với khủng
hoảng nợ công phải đối mặt với nhiều hệ quả khác
Khủng hoảng nợ công buộc chính phủ phải thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô
để ổn định nền kinh tế cũng như trang trải các khoản nợ xấu. Đối với một quốc gia,

trong điều kiện kinh tế bình thường, để giữ vững cho kinh tế ổn định là một điều
khó, nhưng đối với một quốc gia đang khủng hoảng nợ lại càng khó khăn hơn. Khi
đối mặt với khủng hoảng nợ, quốc gia đó trước hết phải áp dụng biện pháp tăng
24
cường thu về ngân sách, tiết kiệm trong chi tiêu. Những biện pháp này đều mang
tính bắt buộc và có thể gây ra hiệu ứng xấu cho nền kinh tế. Nguyên nhân là bởi
người dân cũng như chính phủ đã quen với việc chi tiêu nhiều, khi buộc phải thực
hiện các biện pháp tiết kiệm chi tiêu, tăng thuế sẽ gây áp lực lên xã hội.
Bên cạnh đó, những yếu tố ảnh hưởng đến kinh tế đều có thể gây ra những
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính trị. Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, quốc gia
đó có nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị. Khi một quốc gia
muốn hoãn nợ hay vay tiền từ quốc gia khác để trả nợ, chính phủ sẽ phải nhượng bộ
nhiều điều kiện về kinh tế, chính trị cho quốc gia đó. Như vậy, suy giảm độc lập về
chính trị cũng là một hệ lụy tất yếu của khủng hoảng nợ công. Các quốc gia phải
chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc thắt chặt chi tiêu,
tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội và hơn nữa là cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản
lý, thay đổi các định hướng kinh tế Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào khoản
vay nước ngoài cũng làm giảm vị thế của cuộc gia trong các mối quan hệ kinh tế
song phương, đa phương với các quốc gia khác.
Một điều đáng lo ngại nhất của khủng hoảng nợ công đó là làm tổn hại đến
hệ số tín nhiệm quốc gia. Trong đó, hệ số tín nhiệm quốc gia là hệ số đánh giá khả
năng thanh toán và khả năng tài chính của quốc gia đó đối với khoản tiền nghĩa vụ
bao gồm gốc và lãi của các công cụ nợ mà chính phủ quốc gia đó phát hành.
Nguyên nhân căn bản là do mất lòng tin của nhà đầu tư vào hệ thống tài chính quốc
gia. Dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng nợ là quốc gia đó vay nợ tràn lan, khả
năng sử dụng vốn vay yếu kém, khoản cho vay không có khả năng thu hồi, các nhà
đầu tư không thể đặt đồng tiền của họ vào những nơi không những không sinh lời
mà còn có khả năng mất vốn. Do vậy, khả năng thu hút vốn đầu tư cũng như thực
hiện các giao dịch thương mại với nước ngoài cũng trở nên khó khăn.

×