Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Kinh tế quản lý tài nguyên nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.15 KB, 23 trang )

Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
KINH TẾ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC, KINH TẾ TÀI NGUYÊN
NƯỚC VÀ LUẬT VỀ NƯỚC
1.1. GIỚI THIỆU
Môn học này cung cấp góc nhìn của nhà kinh tế về việc phân phối tài nguyên nước
và các chủ đề có liên quan. Trong chương 1 này sinh viên được giới thiệu về tài nguyên
nước, luật nước và các khái niệm của kinh tế tài nguyên. Kinh tế là điều cực kì quan
trọng trong việc xác định phân phối tài nguyên nước: nước chảy tới đâu, bằng cách nào
và khi nào nước sẽ được trữ lại. Kinh tế học cũng hỗ trợ giải quyết vấn đề làm cách nào
xã hội có thể dịch chuyển nước từ điểm A sang điểm B, đặc biệt là khi điểm B không
phải là nơi có dòng nước tự nhiên chảy tới. Ngoài ra, vì xã hội có nhiều hoạt động kinh tế
đang gây ra ô nhiễm, kinh tế học cũng có vai trò quan trọng trong việc xác định các tiêu
chuẩn chất lượng cho nhiều loại nước và từ đó quyết định liệu ô nhiễm có cần được làm
sạch không và làm sạch bao nhiêu với chi phí cho trước.
Để hiểu rõ các vấn đề trong kinh tế tài nguyên nước, chúng ta phải luôn bắt đầu từ
các quy luật của lực hấp dẫn hay vật lý của nước. Ngoài ra, chính trị, thể chế và pháp luật
cũng dẫn tới việc bảo hộ một số nhóm lợi ích nhất định trong phân phối nước. Chẳng hạn
tại Mỹ, nông nghiệp thường dùng nước cho các mục đích sử dụng có giá trị thấp hơn
nhiều so với trong các lĩnh vực sử dụng khác, và điều này xảy ra là do các luật hiện hành
và ảnh hưởng chính trị mà những người sử dụng nước trong nông nghiệp đạt được. Việc
giải thích luật nước sẽ cho thấy rằng những người nắm giữ các quyền về nước đang có
quyền hạn rất lớn, điều này sẽ được thấy rõ ở các phần sau.
Ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống thể chế và luật lệ cũng cực kì quan trọng
trong phân phối nước. Tuy nhiên, để hiểu rõ sự liên hệ giữa thể chế và nước, ta cần biết
tất cả các đặc điểm của địa phương. Ví dụ, vấn đề về chất lượng nước được quan tâm ở
mọi quốc gia; nhưng ở từng quốc gia, bản chất của vấn đề này là khác nhau và nhận được
1
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
sự ưu tiên khác nhau. Cũng có những quan ngại về vấn đề khối lượng nước, đặc biệt ở
các nước khô hạn giống như vùng sa mạc miền tây nước Mỹ.


Ví dụ: tại Uzbekistan, Turkmenistan, Tajikistan, Kyrgyzstan và Kazakhstan; đây
là những nơi có dân số tăng và rác thải do tưới tiêu đã dẫn tới sự suy thoái của biển hồ
Aral - được tạo nên từ hai dòng sông Amu và sông Syr (Wines, 2002). Dưới khung quản
lý của Liên bang Sô Viết nhiều năm trước, các dòng sông được dẫn nước vào các kênh
đào và tưới nước cho những vùng sa mạc, vì vậy gạo và ngũ cốc đã trồng được ở
Kazakhstan. Ngày nay, vì không còn liên bang Sô Viết và nhiều điều đã thay đổi. Mỗi
quốc gia kể trên đã tranh giành nguồn cung nước đang cạn kiệt, và luật lệ hay các chức
năng thể chế không thể giúp giải quyết các vấn đề này.
Biển hồ Aral 1989 -2008 (wikipedia.com)
Một ví dụ khác là ở Ấn Độ năm 1992: chết chóc và hôi của xuất hiện sau khi bạo
loạn nổ ra do các tranh chấp liên quan tới sông Cauvery. Người Tamil Nadu và người
Karnataka đã tranh chấp nhiều năm nay về các quyền về nước trong dòng sông, tình trạng
này trở nên nghiêm trọng hơn khi người Karnataka xây các đập nước để tưới tiêu, trong
khi người Tamil Nadu tin rằng hành đồng này gây ra các ảnh hưởng tiêu cực lên việc tiếp
cận nguồn cung nước của họ. Một ví dụ khác rõ ràng và nổi tiếng hơn cả là các vấn đề
tranh chấp sông Jordan ở Trung Đông.
2
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Tranh chấp trên lưu vực sông Cauvery. Nguồn: />Những ví dụ trên cho thấy, luật về nước rất phức tạp. Và thể chế, các chức năng
của thị trường và luật nước khác nhau ở từng quốc gia, từng bang trong nước Mỹ, thậm
chí trong từng vùng ở một số bang, vì vậy phải xem xét thật kĩ lưỡng từng đặc điểm của
vùng được nghiên cứu để có thể giải quyết vấn đề phân phối nước.
1.2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.2.1. Nguồn cung nước của Trái Đất
Nguồn cung nước ngọt của thế giới chủ yếu nằm ở các chỏm băng và các dòng
sông băng (74% tổng lượng nước ngọt trên thế giới). Một phần nhỏ hơn nằm ở các dòng
sông và hồ (ít hơn 0.01%), trong khi 97.5% tổng lượng nước trên trái đất nằm ở đại
dương. Sự phân bố mưa không đồng đều giữa các vùng trên thế giới. Ví dụ, lượng mưa
trung bình năm tại 48 bang nằm ở vùng thấp của Mỹ là khoảng 30 inches/năm, nhưng có
khác biệt lớn giữa từng bang.

3
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Nguồn cung nước trên thế giới
1.2.2. Sự khan hiếm
Dù nước thường có chi phí hoặc giá thị trường rất thấp, nó lại mang tính khan
hiếm tương đối so với nhu cầu của dân số trong vùng và trong các địa điểm nhất định
(Revenga et al., 2000). Khi so sánh tài nguyên với cầu cho tài nguyên đó, các nhà kinh tế
và khoa học thường dùng khái niệm khan hiếm tương đối, thay vì khan hiếm tuyệt đối.
Miền Tây nước Mỹ cho chúng ta nhiều ví dụ về khái niệm khan hiếm tương đối:
Các cuộc tranh giành nước đã trở nên phổ biến tại Mỹ khi người Châu Âu nhập cư vào từ
phía đông và di cư sang phía tây. Việc tranh giành trở nên bạo lực khi cầu nước vượt xa
cung. Thông thường, trong lịch sử miền Tây, người dân sẽ quay trở lại miền Đông khi
hạn hán xảy ra hoặc khi có quá nhiều người tranh giành nguồn nước ít ỏi. Nhưng sau khi
hạn hán kết thúc, chính quyền Liên Bang lại khuyến khích người dân định cư ở miền
Tây. Và ngay khi người dân di chuyển về miền Tây, khan hiếm nước lại xảy ra, và hạn
hán lại xuất hiện; mùa màng, gia súc bị chết và dòng người nhập cư lại quay trở về.
4
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Bản đồ quan trắc hạn hán ở Mỹ (US Department of Agriculture, 2014)
Ngoài ra, khan hiếm nước là nguyên nhân của tình trạng sức khỏe nghèo nàn của
người dân tại các nước Châu Phi. Ở các chương tiếp theo, sinh viên sẽ thấy rằng trong
điều kiện khí hậu và nguồn cung nước tự nhiên giống nhau thì kinh tế là chìa khóa cho sự
khác biệt giữa các vùng nông thôn Châu Phi không thể tiếp cận nguồn nước uống sạch và
khả năng của các nước phát triển trong việc tiếp tục cung cấp nước cho dân số tăng
trưởng nhanh chóng.
Câu hỏi thảo luận: Nếu nước quý giá và quan trọng với xã hội, thì tại sao nó lại
có giá thấp như vậy? Và, nếu nước là một tài nguyên có giới hạn thì tại sao chính quyền
các nước phương tây lại có thể liên tục tìm ra nguồn cung nước thích hợp ngay cả ở
những vùng khô hạn với dân số tăng nhanh?
Câu trả lời các câu hỏi này là trung tâm của việc thấu hiểu các mâu thuẫn về nước

và vai trò của kinh tế học. Để bắt đầu hiểu được những vấn đề này, trước hết ta phải làm
quen với một số đặc điểm vật lý của nước, bao gồm việc nước được đo lường như thế
nào?
5
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
1.2.3. Dòng chảy và trữ lượng nước
Dòng chảy: sự di chuyển của nước trong sông, suối Dòng chảy sông ngòi luôn
thay đổi từng ngày thậm chí từng phút. Mưa tác động tới các dòng chảy trong một lưu
vực. Ngoài ra, dòng chảy mặt bị chi phối bởi các nhân tố khí tượng địa vật lý và địa hình.
Chỉ khoảng 1/3 lượng nước mưa rơi trên bề mặt đất chảy vào sông suối và quay trở lại
đại dương. 2/3 còn lại bị bốc thoát hơi hoặc thấm vào nước ngầm.
Trữ lượng nước: lượng nước có trong sông, hồ, ao, tầng nước ngầm Lượng
nước trong các sông và hồ luôn luôn thay đổi phụ thuộc vào lưu lượng vào và ra
1.2.4. Cung nước và lưu lượng
Lưu lượng (Runoff): lượng cung ròng nước mà ta có thể lấy/khai thác được
(Cech,2003). Lưu lượng không biểu thị lượng cung tiềm năng của nước, nó chỉ ước tính
lượng cung ròng dưới điều kiện hiện tại (Hirshleifer et al., 1960 ).
Bảng 1 thể hiện lượng nước sử dụng theo tỉ lệ lưu lượng tại 9 lưu vực sông.
Câu hỏi : Tại sao lượng nước sử dụng lại có thể lớn hơn tổng lưu lượng?
Bảng 1. Lượng nước sử dụng hàng năm theo tỷ lệ lưu lượng tại 9 lưu vực sông
Vùng %
Missouri 124.3
Arkansas, White, Red 225.3
Texac-Gulf 259.9
Rio Grande 180.6
Upper Colorado 112.3
Lower Colorado 238.3
Great Basin 158.1
Pacific Northwest 101.8
California 112.7

Nguồn: (Vaux, 1986 )
6
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Đó là do khái niệm "dòng chảy trở lại (return flow)": khái niệm này có nghĩa là
lượng nước sử dụng trong hoạt động A sẽ quay trở lại dòng sông sau khi sử dụng. Dòng
chảy trở lại này có thể được sử dụng lại trong hoạt động B, C Nhờ có dòng chảy này
mà lượng nước được sử dụng có thể lớn hơn tổng lưu lượng.
1.3. VIỆC TIÊU THỤ VÀ SỬ DỤNG NƯỚC CỦA CON NGƯỜI
1.3.1. Các hình thức sử dụng nước của con người
Nước được con người sử dụng dưới nhiều cách khác nhau, và cho nhiều mục đích
khác nhau. Trước hết, chúng ta cần nước để tồn tại, và thức ăn của con người cũng có
nước làm nguyên liệu đầu vào. Chúng ta dùng nước trong nông nghiệp để trồng hoa màu
và cho gia súc uống. Nước còn được dùng trong các quy trình công nghiệp và trong sản
xuất, nước cũng được dùng để tắm gội và giặt giũ, chúng ta còn dùng nước để giải trí: ta
tưới nước cho các sân gôn và thảm cỏ, bơm nước cho hồ bơi, và bơm nước vào các đài
phun nước.
Lượng nước tối thiểu một người cần uống mỗi ngày là khoảng 2 lít nước và lượng
nước một người cần dùng mỗi ngày tương ứng với một tiêu chuẩn sống khỏe mạnh là
khoảng 87 lít (23 gallons).
Mục đích tiêu thụ cao nhất trong sinh hoạt gia đình là dành cho các mục đích
ngoài trời (Gelt, 1996).
7
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Tỉ lệ sử dụng nước sinh hoạt (www.awwa.org)
Lượng nước sử dụng trên đầu người tại Mỹ gấp 2 đến 4 lần một số nước ở Châu
Âu (Frederick, 1991). Việc sử dụng nước phụ thuốc nhiều yếu tố, một trong số đó là giá
nước người sử dùng phải trả. Giá nước khác nhau theo từng địa phương hay từng thời
điểm, và một số nhà cung cấp nước có thể sử dụng các khung giá khá phức tạp, các loại
giá nước sẽ được thảo luận tại chương 4.
1.3.2. Chuyển dòng (diversion): sự di chuyển không tự nhiên của nước mặt

Con người ngày nay thường định cư tại những nơi có rất ít nước. Con người làm
như vậy vì họ mong muốn những nơi định cư với nhiều lí do khác ngoài nguồn cung
nước, bao gồm cơ hội việc làm tốt và lương cao, khí hậu ôn hòa, và gần bạn bè hoặc
người thân.
Con người từ lâu đã không thõa mãn với sự phân phối của các nguồn nước tự
nhiên. Các thành tựu kĩ thuật đã dẫn tới kỹ thuật chuyển hướng dòng nước. Việc chuyển
hướng có thể ở quy mô nhỏ như trong 1 lưu vực, hoặc có thể giữa các lưu vực.
Ví dụ: dự án Colorado-Big Thompson, dự án này lấy nước từ đầu nguồn của sông
Colorado gần hồ Granby, bơm lên đồi và vượt qua 20.9 km đường ống tới phía đông của
núi Rocky. Sông Colorado có dòng chảy tự nhiên hướng về phía tây tiến tới Mexico,
nhưng qua dự án này, nước được chuyển tới các thành phố phía đông như Boulder và
Fort Collins.
8
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Dự án Colorado - Bigthompson (www.northernwater.org)
Những sự đổi hướng dòng nước như vậy có thể dẫn tới mâu thuẫn giữa các nhóm
người sử dụng nước trong lưu vực. Tất cả nông dân ở biên giới phía tây của Colorado và
núi Rocky đều cho rằng thỏa dụng của họ phải ưu tiên trước những nông dân ở phía đông
núi Rocky (nơi nước được bơm tới). Vì tình huống này mà một số bang đã ra luật nước
rằng không cho phép vận chuyển nước ra ngoài lưu vực (Wilkinson, 1985 ).
1.4. LUẬT NƯỚC
Bản chất của luật nước là để ngăn ngừa mâu thuẫn và thiết lập quyền sở hữu rõ
ràng. Một đặc điểm rất căn bản của luật là các quyền được giao cho một bên nào đó, và
nếu các quyền này bị vi phạm thì hình phạt sẽ được áp dụng. Rủi ro bị phạt có thể dùng
để răn đe những người muốn phớt lờ quyền lợi của những người khác trên một dòng
nước.
9
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Chúng ta sẽ bắt đầu với việc miêu tả mối liên hệ giữa luật pháp và kinh tế, vì một
hàng hóa có thể trở thành tài sản sở hữu thì phải được định nghĩa rõ ràng.

Đầu tiên, ta có thể xem nước là loại hàng hóa kinh tế nào? Về bản chất nước có
giá trị vì ta sử dụng nó. Nhưng các nhà kinh tế phân biệt giữa hàng hóa tư nhân và hàng
hóa không tư nhân. Hàng hóa tư có 2 đặc tính: tính cạnh tranh (rivalry) và tính loại trừ
(exclusion).
• Tính cạnh tranh có nghĩa là nếu tôi tiêu thụ một đơn vị hàng hóa thì người
khác không tiêu thụ được đơn vị hàng hóa đó nữa.
• Tính loại trừ có nghĩa là ta có thể ngăn một người sử dụng hàng hóa nếu họ
chưa trả tiền cho hàng hóa đó, có nghĩa là không có ngoại tác.
Hàng hóa công không có tính loại trừ: bạn tiêu thụ 1 đơn vị hàng hóa không dẫn
tới việc tôi không được tiêu thụ cùng đơn vị hàng hóa đó. Hàng hóa công cũng bao gồm
ngoại tác. Một công viên đầy hoa tạo ra lợi ích cho tất cả ai đi ngang qua và ngắm nhìn
hoa.
Một tài nguyên chung (common property resource) cũng bao gồm ngoại tác,
nhưng ngoại tác ở đây có thể được hiểu linh động. Ví dụ: một tầng nước ngầm là tài
nguyên chung và có thể bị khai thác nhanh quá mức làm cho những người sử dụng trong
tương lai không nhận được lợi ích.
Vậy nước là hàng hóa công cộng hay tư nhân? Nó có thể là cả hai, đặc biệt nếu
ta suy nghĩ theo nghĩa rộng về các dòng nước và các dịch vụ môi trường mà nước cung
cấp.
10
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Hàng hóa tư nhân có thể được áp dụng quyền sở hữu. Ví dụ: ngôi nhà là một tài
sản riêng được bảo vệ bằng quyền sở hữu thông qua luật pháp. Tuy nhiên, quyền về nước
không được định nghĩa cụ thể như quyền sở hữu một ngôi nhà. Thông thường, quyền về
nước là các quyền hợp pháp được sử dụng nước trong một thời gian nhất định. Sự khác
biệt giữa quyền sở hữu nhà với quyền nước quan trọng ở chỗ nếu một người không sử
dụng nước thì quyền đó có thể bị mất. Ngược lại, nếu một người sở hữu một ngôi nhà
nhưng không ở, quyền sở hữu vẫn tồn tại qua nhiều năm.
1.4.1. Luật cận sông - Riparian Law
Đất cận sông là mảnh đất nằm liền một nguồn nước mặt (surface water body).

Học thuyết cận sông bắt nguồn từ thế kỷ 16. Học thuyết này phát biểu rằng nước
trong một con sông hay dòng chảy thuộc về công cộng và không thể bị kiểm soát bởi tư
nhân. Tuy nhiên, Luật cận sông còn có nghĩa rằng nếu một người sống trên một mảnh đất
cạnh dòng sông và có quyền sở hữu mảnh đất đó, thì người có có quyền lấy và sử dụng
một lượng nước tương ứng với miếng đất.
Một người chủ đất cận sông có quyền dùng hoặc không dùng nước, và có hiệu lực
tại bất cứ lúc nào. Nhưng việc sử dụng nước phải được thực hiện trên mảnh đất người đó
làm chủ và nằm trong lưu vực đó.
Đến giữa những năm 1800, Luật Cận sông ở Mỹ đã phát triển để bao gồm các đặc
điểm sau:
11
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
• Đối với các dòng chảy mà tàu bè không đi lại được, quyền nước cận sông có giới
hạn tới giữa dòng
• Các dòng chảy mà tàu bè di chuyển được thuộc về công cộng và không được chặn
dòng chảy.
• Lượng nước bị vượt không được lấy khỏi dòng.
• Những người sở hữu đất cận sông nếu bị thiệt hại thì phải được bồi thường.
Một đặc điểm khác của Học thuyết Cận sông ngày nay liên quan tới mối liên hệ
giữa mảnh đất và quyền sử dụng nước: một người chủ đất không thể bán các quyền nước
của mình trừ khi mảnh đất đó cũng được bán theo.
Tại nhiều bang Học thuyết Cận sông đã được kết hợp với đặc điểm của Học thuyết
các quyền chung (Correlative Rights). Đặc điểm này căn bản nói rằng những người có
đất cận sông phải chia sẽ tổng dòng chảy của con sông và giới hạn việc sử dụng nước của
mình ở một tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên, tỷ lệ phân chia có thể không bằng nhau. Thông
thường lượng nước được sử dụng tùy theo mảnh đất cận sông mà người đó sở hữu.
Câu hỏi thảo luận: Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn sở hữu một mảnh đất và muốn sử
dụng nước, nhưng mảnh đất của bạn không nằm ở cạnh sông ? Liệu bạn có nghĩ rằng chỉ
có những người ở ven sông, hồ mới có thể sử dụng nước hay không?
1.4.2. Luật Chiếm hữu trước (Doctrine of Prior Appropriation)

Luật được phát triển để bổ trợ hay thay thế Luật Cận sông gọi là Học thuyết
Chiếm hữu trước, được sử dụng ở nhiền bang miền Tây cuối những năm 1800s.
Loại luật này một lần nữa lại liên quan tới hoạt động kinh tế và lịch sử phát triển ở
miền Tây. Năm 1848 cơn sốt vàng tại California bắt đầu, đưa hàng ngàn nhà thăm dò tới
vùng này. Công nghệ đào mỏ sơ khai đòi hỏi phải dùng nước để lọc vàng.
Năm 1983 từ vụ kiện giữa Irwin và Phillips, Tòa án tối cao California ra lệnh rằng
những người đào vàng có thể lấy nước từ dòng chảy dựa theo một hệ thống ưu tiên, bất
kể việc này có thể gây hại cho các bên ở hạ lưu. Mệnh lệnh này tạo ra Học thuyết Chiếm
hữu trước, và nhanh chóng được các bang gần đó áp dụng.
12
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Năm 1876 bang Colorado áp dụng khái niệm này và loại bỏ việc sử dụng học
thuyết Cận sông. Về căn bản thì học thuyết này có nghĩa là: đến trước, có quyền sử dụng
trước (first in time, first in right).
Dưới học thuyết Chiếm hữu trước, người sử dụng phải chứng tỏ rằng nước đang
được sử dụng trong một mục đích "có lợi" (beneficial use). Những mục đích có lợi
thường được định nghĩa trong đạo luật liên quan tới nước của các bang. Ví dụ ở bang
Nevada, nước cho chăn nuôi gia súc được coi là mục đích sử dụng có lợi (Crouter, 1987).
Nhiều bang trong học thuyết Chiếm hữu đề nghị thêm vào một đặc điểm khác gọi
là "sử dụng hoặc mất" (use it or lose it). Đặc điểm này rất khác với hệ thống Luật nước
cận sông. Chúng ta biết rằng rất nhiều người thợ đào vàng ở miền tây đã thất bại và thậm
chí còn bỏ đi. Khi làm như vậy, họ cũng bỏ đi quyền được lấy và sử dụng nước vào các
mục đích căn bản. Những người còn ở lại sau khi các thợ mỏ bỏ đi muốn được nhận
những quyền sử dụng nước bị từ bỏ, dẫn tới sự phát triển của luật nước cho phép họ nộp
hồ sơ để nhận quyền sử dụng nước.
Ngày nay một trong những vấn đề quan trọng trong luật nước liên quan tới việc
làm sao chuyển nhượng nước giữa các bên. Trong hệ thống Luật Cận Sông, quyền nước
phải đi kèm với quyền sở hữu đất; nhưng dưới Luật Chiếm Hữu Trước, quyền sử dụng
nước có thể được chuyển nhượng, và người bán quyền sử dụng nước có giữ lại mảnh đất
của mình.

1.4.3. Hệ thống luật nước kết hợp
13
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Ngày nay hầu hết các bang ở Mĩ không có hệ thống luật cận sông hay chiếm hữu
thuần túy mà kết hợp cả hai. Trelease (1979) báo cáo rằng có 9 bang với luật chiếm hữu
thuần túy: Alaska, Arizona, Colorado, Idaho, Montana, Nevada, New Mexico, Utah và
Wyoming. Việc giải thích chặt chẽ Học thuyết chiếm hữu trước cũng gọi là Học thuyết
Colorado.
Mười bang (California, Kansas, Mississippi, Nebraka, North Dakota, Oklahoma,
Oregon, South Dakota, Texas và Washington) có học thuyết California, đây là sự kết hợp
của học thuyết cận sông và thuyết chiếm hữu. Bên cạnh hai nhóm này, các bang còn lại
chủ yếu dùng học thuyết cận sông, nhưng luật của mỗi bang lại phức tạp hơn vì có hệ
thống "giấy phép quản lý" (administrative permits) và luật bơm nước (nước ngầm). Một
điểm cơ bản của các bang có thuyết Cận sông đó là quyền nước gắn liền với quyền đất,
cho nên quyền nước không thể được chuyển nhượng trừ khi đất cũng bị bán.
1.4.4. Luật tài nguyên nước việt nam
Luật bảo vệ môi trường 1993 và Luật bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2005
Luật bảo vệ môi trường năm 1993 xác định các trách nhiệm và quyền quản lý liên
quan đến khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong đó có đất ngập nước. Luật qui
định những sắp xếp thể chế bao gồm các cơ quan quản lý, các cơ quan bảo vệ môi trường
và các cơ quan quản lý địa phương. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của luật
này là đã đưa ra những yêu cầu về đánh giá tác động môi trường.
Luật bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2005 lần đầu tiên chính thức hóa luật Đánh
giá tác động môi trường chiến lược trong Luật Việt Nam và củng cố các cơ sở cho sự
tham gia của địa phương trong cả quá trình đánh giá tác động môi trường và đánh giá tác
động môi trường chiến lược.
Luật tài nguyên nước (LWR) 1998
Luật này cung cấp các cơ sở cho:
Thiết lập các chính sách, nguyên tác và khuôn khổ cơ bản cho việc qui hoạch, khai
thác, sử dụng, bảo tồn, bảo vệ, điều tiết và quản lý tất cả các tài nguyên nước cho phát

triển toàn diện, tổng hợp và bền vững.
14
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Xác định các quyền và trách nhiệm của Chính phủ, người sử dụng nước và công
chúng trong việc sử dụng và bảo vệ các tài nguyên nước và các thủy công trình.
Mô tả thẩm quyền quản lý và trách nhiệm thực thi luật này trong đó có hợp tác,
truyền thông và điều phối các bộ và cơ quan khác nhau của Chính phủ, các tỉnh, người sử
dụng nước và công chúng.
Luật này cũng đưa ra những điều khoản về việc thành lập Hội đồng Tài nguyên
nước Quốc gia và tổ chức lưu vực sông tại các lưu vực sông chính, nhằm mục đích hài
hòa công tác quản lý nước, cung cấp những cơ chế lập kế hoạch, qui hoạch, sử dụng và
bảo vệ các nguồn tài nguyên nước thông qua giấy phép sử dụng nước và giấy phép xả
nước thải. Luật cũng cung cấp những phương tiện để giám sát, đánh giá và cưỡng chế thi
hành luật.
Tuy nhiên, các quyền về nước không được xác định và thiếu trầm trọng các dữ
liệu về bảo vệ môi trường dẫn đến việc quản lý chất lượng nước không hiệu quả. Luật
này cần được xem xét lại.
Luật tài nguyên nước (sửa đổi) 2012
Nhằm bảo vệ, khai thác hiệu quả, phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia,
tạo động lực phát triển bền vững ngành kinh tế nước nhiều thành phần phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…, ngày 21/06/2012, Quốc hội đã chính
thức thông qua Luật Tài nguyên nước, số 17/2012/QH13.
Trong đó, đáng chú ý là quy định tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nước để
phát điện có mục đích thương mại; phục vụ hoạt động kinh doanh, dịch vụ, sản xuất phi
nông nghiệp; trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản tập trung với
quy mô lớn sẽ phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước do Chính phủ quy định, căn cứ vào chất
lượng của nguồn nước, loại nguồn nước, điều kiện khai thác, quy mô, thời gian khai thác
và mục đích sử dụng nước.
Bên cạnh đó, nhằm thực hiện chủ trương chống lãng phí trong khai thác, sử dụng

tài nguyên nước, Luật cũng khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng tiết kiệm nước thông
15
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
qua việc quy định ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả như: Miễn,
giảm thuế và cho phép vay vốn ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư sử dụng nước
tuần hoàn, tái sử dụng nước, thu gom, sử dụng nước được khử muối từ nước lợ, nước
mặn, đầu tư thiết bị, công nghệ tiết kiệm nước…
Luật này thay thế Luật Tài nguyên nước, số 08/1998/QH10 và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2013.
Luật Tài nguyên Nước bao gồm 10 chương và 79 điều. Trong Luật Tài nguyên
Nước không nêu rõ về quyền sở hữu Nước, thay vào đó, tài nguyên Nước được định
nghĩa tại Điều 2. là:
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước
biển thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quyền sử dụng, khai thác Tài nguyên Nước được nêu tại Mục 2. Chương IV trong
đó liệt kê các trường hợp được phép khai thác sử dụng hoặc phải đăng ký, xin phép để
khai thác sử dụng Tài nguyên Nước. Tuy nhiên, trong Luật không nêu rõ về thời hạn hay
lượng nước được sử dụng khi được cấp giấy phép. Điều này cũng có thể dẫn tới việc lãng
phí khi sử dụng tài nguyên nước một cách không hiệu quả.
Chiến lược Tài nguyên Nước tới năm 2020
Chiến lược tài nguyên nước tới năm 2020 nhằm mục đích đa dạng hóa các hợp tác
quốc tế trong quản lý tài nguyên nước thông qua các chương trình đa phương và song
phương bằng cách tăng cường đối tác với các cơ quan tài trợ quốc tế và các Tổ chức phi
chính phủ. Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước thành viên Ủy ban sông Mê Kông
cũng được đề xuất cùng với việc khởi động hợp tác trong lưu vực sông hồng và các sông
khác.
Chính phủ đã có kế hoạch tham gia tích cực vào các diễn đàn Quốc tế và khu vực,
nhấn mạnh trao đổi thông tin, chia sẽ kinh nghiệm và tham gia vào các buổi semina, các
công ước
Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia 2001 - 2010

16
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia (NSEP) là một khung quản lý môi trường
cho giai đoạn 2001 - 2010. Chiến lược được xây dựng dựa vào quá trình tham vấn tích
cực trong vòng 3 năm, luôn cuốn sự tham gia rộng rãi của các bộ, chính quyền các tỉnh,
các viện nghiên cứu, các Tổ chức phi chính phủ, các tổ chức đa phương và song phương,
và các bên hữu quan khác. Chiến lược tiếp tục khuyến khích tăng cường năng lực và phát
triển thể chế, lồng ghép các cân nhắc môi trường vào các quá trình ra quyết định và lập
kế hoạch, quy hoạch chính thống.
Mục tiêu chung của NSEP là bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm tăng cường chất
lượng cuộc sống và sức khỏe của nhân dân và bảo đảm phát triển bền vững của đất nước,
Điều đó bao gồm giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ, bảo tồn và đảm bảo sự dụng bến
vững tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học và cải thiện chất lượng môi trường tại
đô thị, nông thôn và các khu công nghiệp (Cục môi trường, 2001).
Định hướng Chiến lược cho Phát triển bền vững (2004)
Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Định hướng chiến lược cho Phát triển Bền vững
(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) ở Việt Nam vào tháng 8 năm 2004. Kế hoạch sẽ
được thực hiện trong gia đoạn 5 năm từ 2005 - 2010. Chương trình Nghị sự xác định 19
lĩnh vực ưu tiên cho phát triển bền vững được chia làm 3 nhóm:
• Kinh tế
• Xã hội
• Môi trường
Để hỗ trợ thúc đẩy các chính xác, phân phát và thực hiện chương trình nghị sự
này, một cuốn cẩm nang về thực hiện phát triển bến vững ở Việt Nam đã được xuất bản.
Chiến lược Quốc gia vể Cấp nước nông thôn và Vệ sinh 2000 - 2020
Chiến lược Quốc gia về Cấp nước Nông thôn và Vệ sinh (NRWSS) được Bộ xây
dựng, phối hợp với các bộ ngành liên quan và sự hỗ trợ của Cơ quan Hợp tác Phát triển
Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), chuẩn bị và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào
tháng 8 năm 2000.
17

Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
NRWSS cùng với Chiến lược Phát triển Nông thôn nhằm đạt dược những mục
đích sau:
Cải thiện sức khỏe của người dân nông thôn.
Cải thiện điều kiện sống.
Giảm ô nhiễm môi trường từ chất bài tiết của con người và gia súc.
Chiến lược mô tả các mục tiêu chủ chốt và khung thời gian để đạt được những
thành quả trong giai đoạn đến năm 2020, trong đó có kế hoạch hành động chi tiết cho giai
đoạn đến năm 2005. Những hợp phần chính của chiến lược đang được thực hiện, các hoạt
động truyền thông và giao dục môi trường và thúc đẩy sự tham gia ngày càng lớn của các
bên có liên quan. Chiến lược cũng cung cấp định hướng về vai trò của Chính phủ trong
ngành này.
1.5. KINH TẾ, THỊ TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN NƯỚC
Kinh tế học chủ yếu quan tâm tới sự khan hiếm tương đối và việc phân phối những
gì xã hội muốn. Sự khan hiếm tương đối bao gồm cung của bất kì tài nguyên hay hàng
hóa nào, và mong muốn của xã hội đối với tài nguyên/hàng hóa đó.
Ví dụ: rất nhiều tài nguyên quan trọng ở những năm 1800s, như kim loại hay
khoáng sản, ngày nay còn rất ít, nhưng xã hội không quá bận tâm về chuyện này. Tại
sao? Bởi vì nhu cầu của xã hội đối với những tài nguyên này, ví dụ đồng hoặc thiếc, đã bị
thay thế bởi những tiến bộ kĩ thuật.
Vấn đề khan hiếm chỉ được nhà kinh tế học quan tâm khi cung thiếu tương đối so
với cầu. Một vấn đề quan trọng ở đây là sự thay thế, nghĩa là khả năng để con người
chuyển từ một tài nguyên này sang tài nguyên khác. Nước không có hàng hóa thay thế
đối với một số mục đích sử dụng như uống. Với các mục địch sử dụng khác, ví dụ như
trang trí đài phun nước, thì nước có thể dễ dàng được thay thế. Ở một số cách sử dụng
khác như tưới tiêu thâm canh thì việc thay thế nước có thể khó hơn, nhưng vẫn khả thi
nếu tìm ra giải pháp kỹ thuật.
Từ lâu kinh tế học đã được sử dụng để đánh giá chi phí và lợi ích của các dự án
nước. Đầu những năm 1950s, ủy viên của Cục khai hoang Mỹ, Micheal Straus, đã khai
18

Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
báo trước Quốc hội rằng "tiêu chuẩn thứ hai dù luật khai hoang không yêu cầu, đó là
trình bày lợi ích và chi phí được ước tính ". Rõ ràng nước có vai trò rất quan trọng trong
bất kì nên kinh tế nào. Các nhà kinh tế học của vùng đã cố gắng để mô hình hóa vai trò
đó, cụ thể hóa vai trò của nước như là một yếu tố đầu vào trong công nghiệp, nông
nghiệp và đô thị (Gray and McKean, 1975 ).
Những nhà kinh tế quan tâm tới việc liệu một phân phối tài nguyên nước cụ thể có
thật sự hiệu quả không, và nếu không thì làm sao có thể cải thiện phân phối này theo
hướng hiệu quả. Các nhà kinh tế thường không quan tâm về việc liệu một phân phối tài
nguyên có công bằng hay không. Trong khi có nhiều nghiên cứu kiểm định tính hiệu quả
trong sử dụng nước thì có khá ít nghiên cứu kiểm định tính công bằng hay bình đẳng
(ngoại lệ là Dudek và Horner, 1981). Một phần vì cách nhìn như vậy, nhiều nhà kinh tế
nước xem thị trường nước là giải pháp cho các vấn đề phân phối nước (Colby et al.,1993
).
Thị trường thật sự cần được phát triển để tạo điều kiện cho việc chuyển nhượng
nước hiệu quả giữa các bên. Việc thảo luận về thể chế nước ở trên cho thấy rằng phân
phối thường phụ thuộc vào các quyền nước trong một bang, và ít phụ thuộc vào kinh tế.
Các nhà kinh tế đã đề xuất từ nhiều rằng, nếu có thể, nước nên được tự do giao dịch
(Anderson, 1967 ), chuyển từ mục đích sử dụng thấp nhất và xấu nhất, lên mục đích sử
dụng cao nhất và tốt nhất (Howe et al., 1986a). Theo nghĩa đơn giản, trong một thị trường
nước tự do hoạt động, nước có thể được chuyển nhượng tạm thời (hoặc thuê) hay được
mua và bán vĩnh viễn, và các quyền nước có thể được mua bởi bất kì người nào sẵn lòng
trả tại mức giá cho trước trong thị trường.
Loại chuyển nhượng hay giao dịch này thực tế đang xảy ta ở mức độ nhất định. Ví
dụ: tại bang Oregon, một nhóm bảo tồn và một người chăn gia súc đã khuyến khích tính
hiệu quả trong một giao dịch thị trường (Middaugh, 1995). Nhóm Oregon Water Trust đã
thuê quyền sử dụng nước từ những người chăn gia súc để làm tăng lượng nước trong
dòng chảy tại nhánh sông Buck Hollow Creek, thuộc con sông Deschutes, để bảo đảm
môi trường sống quan trọng cho loài cá quý hiếm tại đây. Tại Colorado, Quận bảo tồn
19

Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
nước Bắc Colorado đã khuyến khích việc cho thuê nước trong ngắn hạn từ cuối 1950s
(Howe et al., 1986b).
Tại các bang khác của Mỹ, các nhóm như Quỹ bảo vệ môi trường và hội Bảo tồn
thiên nhiên đã thực hiện các thỏa thuận để mua các quyền nước trong dòng chảy. Ngoài
ra còn có những bang đang thực hiện thương lượng với nhau, ví dụ như thỏa thuận giao
dịch giữa Nevada và Arizona. Trong thỏa thuận này, nước mà bang Nevada tích trữ trong
lưu vực nước ngầm của Arizona sẽ không được bơm lên và sử dụng khi cần thiết. Thay
vào đó, Arizona đồng ý để xây dựng một ngân hàng thặng dư nước ngầm. Nevada sẽ thu
thập các tín dụng để sử dụng trong tương lai và khi nào Nevada muốn dùng nước thì
Arizona sẽ đưa cho họ lượng nước tương ứng từ phần được chia trong sông Colorado,
còn Arizona thực tế sẽ dùng lượng nước ngầm thặng dư.
Lưu vực sông Colorado
Dù những ví dụ về giao dịch quyền nước thành công, một số cơ quan kinh tế vẫn
không muốn để thị trường nước hoạt động và còn tồn tại nhiều rảo cản. Thứ nhất, vì cấu
trúc thể chế và pháp luật liên quan tới tác động lên bên thứ ba, số lượng người tham gia
hợp pháp trong một thị trường nước khá nhỏ (Saleth et al., 1991). Vấn đề này được diễn
tả trong đồ thị 1.1
20
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Trong đồ thị 1.1, dòng sông là đường liền nét, các nông dân là các chữ hoa và các
đường chấm là các điểm lấy nước từ việc chuyển dòng vào kênh/mương. Trong đồ thị,
địa điểm của các chữ in hoa là những nơi có để đặt máy do dòng chảy. Giả sử rằng những
nông dân này biết rõ về tổng cung nước có thể lấy, đồng thời quyền nước được thực thi
nghiêm ngặt và được định nghĩa dưới dạng mục đích sử dụng tiêu thụ. Trong trường hợp
này một thị trường nhỏ/thưa thớt vẫn có thể xuất hiện. Tại sao?
Ta hãy xem một sự chuyển nhượng nước từ A sang D. Nếu nước tại điểm D có thể
bảo đảm nhu cầu lấy nước ban đầu của D, cộng với lượng nước mua từ A, cộng với
lượng nước mà E lấy, thì việc chuyển nhượng nước sẽ không ảnh hưởng tới quyền nước
của E. Nhưng nếu dòng chảy gần D chỉ có thể đáp ứng nhu cầu lấy nước ban đầu của D

và E, thì E sẽ phản đối. Đây là một trường hợp của hạn chế trong dòng chảy ràng buộc.
Seleth et al. đã đề xuất một giải pháp để ngăn chặn loại chuyển nhượng này trong điều
kiện kinh tế bình thường, đó là mô hình lý thuyết trò chơi đa phương.
Không phải lúc nào nước cũng dịch chuyển khi người ta cần nó. Lund (1993) báo
cáo rằng từ 1981 đến 1989, khoảng 17% đơn chuyển nhượng nước tạm thời ở California
21
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
đã bị từ chối; tương tự, hơn 20% đơn chuyển nhượng ở Wyoming đã bị bác bỏ từ 1975
đến 1984. MacDonnel et al (1994) kết luật rằng chỉ loại bỏ các trở ngại luật pháp về
chuyển nhượng nước cũng sẽ không tạo ra thành công trong việc thay đổi phân phối nước
ở miền Tây. Họ cũng trích dẫn chi phí cơ hội và tác động lên bên thứ ba là các rào cản
khi thực hiện chuyển nhượng.
Những vấn đề thực tế này đỏi hỏi cơ chế giao dịch phải xem xét cẩn thận thời gian
chuyển nhượng, và tính khả thi. Vẫn còn rất nhiều việc phải nghiên cứu trước khi thị
trường nước tự do hoạt động có thể trở nên phổ biến.
22
Kinh Tế Quản Lý Tài Nguyên Nước
Tài liệu tham khảo
Anderson, R. L., 1967, Windfall gains from transfer of water allotments within the
Colorado-Big Thompson Project: Land Economics, p. 265-273.
Cech, T. V., 2003, Principles of water resources: History Development, Management,
and Policy, New York, John Wiley and Sons, 388 p.:
Colby, B. G., Crandall, K., and Bush, D. B., 1993, Water right transactions: market
values and price dispersion: Water Resources Research, v. 29, no. 6, p. 1565-1572.
Gray, S. L., and McKean, J. R., 1975, An economic analysis of water use in Colorado's
economy, Colorado State University Fort Collins.
Hirshleifer, J., DEHAVEN, J., and MILLIMAN, J., 1960, Water Supply: Economics,
Technology: AND POLICY, p. 109-101.
Howe, C. W., Schurmeier, D. R., and Shaw, W. D., 1986, Innovative approaches to water
allocation: the potential for water markets: Water Resources Research, v. 22, no.

4, p. 439-445.
Lund, J. R., 1993, Transaction risk versus transaction costs in water transfers: Water
Resources Research, v. 29, no. 9, p. 3103-3107.
Revenga, C., Brunner, J., Henninger, N., and Kassem, K., R Payne (2000) Pilot Analysis
of Global Ecosystems: Freshwater Systems: World Resources Institute,
Washington, DC, USA.
Saleth, R. M., Braden, J. B., and Eheart, J. W., 1991, Bargaining rules for a thin spot
water market: Land Economics, p. 326-339.
Shaw, W. D., 2005, Water resource economics and policy : an introduction, Cheltenham,
UK; Northampton, MA, USA, E. Elgar.
Vaux, H. J., 1986, Economic factors shaping western water allocation: American Journal
of Agricultural Economics, v. 68, no. 5, p. 1135-1142.
Wilkinson, C. F., 1984, Western water law in transition: U. Colo. L. Rev., v. 56, p. 317.
Wines, M., 2002, Grand Soviet scheme for sharing water in Central Asia is foundering:
New York Times, v. 9, p. 14.
23

×