Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT CỦA TRIỀU NHÀ NGUYỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.1 KB, 41 trang )

Mở đầu
Đối với một nớc nông nghiệp , vấn đề ruộng đất bao giờ cũng có ý nghĩa
hàng đầu . Từ thời xa xa , khi con ngời phát minh ra nghề nông trồng lúa , họ
cũng tìm đợc nguồn lơng thực chính nuôi sống họ và làm cơ sở cho sự phát triển
xã hội . Nói đến nghề nông trồng lúa , tức là nói đến ruộng đất . Vì vậy ,quản lý
và không ngừng mở rộng ruộng đất là những vấn đề sống còn của con ngời .
Nhng quản lý nh thế nào , mở rộng nh thế nào , tuỳ thuộc những quan hệ xã hội
đơng thời chi phối .
Khoa học Lịch sử Việt Nam từ lâu đã không chỉ dừng lại ở những vấn đề
chính trị và quân sự, mà còn bắt đầu đi sâu tìm hiểu vào những mặt kinh tế và
thiết chế xã hội. Phơng hớng đó chứng tỏ sự nhận thức đúng đắn và toàn diện
đối với lịch sử dân tộc theo quan điểm của Đảng. Đối với lịch sử nớc ta, dân tộc
ta, thế kỷ XIX có một vị trí đặc biệt. Đó là thế kỷ đã diễn ra bớc ngoặt quan
trọng từ chế độ phong kiến sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến thời cận đại.
Để hiểu sâu sắc thời kỳ cổ trung đại cũng nh cận đại, không thể không hiểu giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Bởi vì ở những năm đầu thế kỷ XIX, chế độ phong
kiến Việt Nam đã bộc lộ tất cả những đặc điểm và tính chất của nó. Nghiên cứu
giai đoạn đó không những để hiểu mà còn nhận biết chế độ phong kiến Việt
Nam trên đờng khủng hoảng của nó, đồng thời xác định đợc vai trò và trách
nhiệm của triều Nguyễn. Nghiên cứu chế độ ruộng đất nửa đầu thế kỷ XIX đ-
ơng nhiên cũng góp phần vào công việc nói trên, hơn nữa còn đem lại những lợi
ích trực tiếp khác, cũng rất quan trọng. Thực vậy, ruộng đất là t liệu sản xuất
chủ yếu, hay đặc trng của các xã hội tiền t bản, là một bộ phận nằm trong sức
sản xuất xã hội. Mác khẳng định chế độ sở hữu ruộng đất là cơ sở thực sự của
xã hội trung đại phong kiến , chế độ sở hữu ruộng đất là nhân tố xã hội chủ đạo
đã định ra phơng thức sản xuất và trao đổi trong xã hội . Bởi vậy muốn nghiên
cứu một hình thái kinh tế xã hội thì phải nghiên cứu chế độ ruộng đất . Nó
không những định ra phơng thức sản xuất mà định ra phơng thức trao đổi trong
xã hội
1
Ruộng đất bao giờ cũng chỉ tồn tại với t cách t liệu sản xuất nếu nó gắn liền


với con ngời và xã hội loài ngời. Vì vậy ruộng đất luôn luôn đặt dới các quan hệ
nhất định. Đó là các quan hệ sở hữu, quan hệ chiếm hữu, quan hệ phân phối sản
phẩm hay gọi chung là chế độ ruộng đất. Chế độ ruộng đất khác nhau theo
không gian và thời gian. Nói cách khác, mỗi dân tộc ở từng thời kỳ lịch sử có
những chế độ ruộng đất khác nhau nghĩa là từng giai cấp thống trị ở từng chế độ
xã hội nhất định đã thiết lập từng chế độ ruộng đất riêng, thể hiện cái quan hệ
sản xuất thống trị ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy nghiên cứu chế độ
ruộng đất là nghiên cứu quan hệ sản xuất chủ đạo của từng thời kỳ lịch sử. Do
đó nghiên cứu chế độ ruộng đất có thể cho phép định rõ tính chất cơ bản của
nhà nớc, của chế độ xã hội thiết lập trên đó, cũng nh bản chất của giai cấp cầm
quyền.
Nghiên cứu chế độ ruộng đất dĩ nhiên không thể chỉ dừng lại ở việc phân
tích từng loại sở hữu ruộng đất . Việc đó hoàn toàn thiết yếu nhng cha đầy đủ .
Rõ ràng nhà Nguyễn hay triều Nguyễn có những chính sách khác nhau đối với
các loại sở hữu ruộng đất khác nhau . Những khác biệt đó nhiều khi bề ngoài tỏ
ra đầy mâu thuẫn . Mặt khác ai cũng thừa nhận rằng các triều đại trớc Nguyễn
đều quy định nhiều chế độ ruộng đất . Nhng không một vơng quyền nào tuyên
bố trớc toàn dân một đờng lối chung hay một chính sách chung về ruộng đất
cả . Nhà Nguyễn cũng vậy , nguyên nhân của tình trạng ấy có thể do lề lối làm
việc cha khoa học , có thể ở sự giới hạn về ý thức giai cấp thống trị , cũng có thể
ở những lý do khác nữa . Song cần khẳng định là các nhà nghiên cứu hoàn toàn
cần thiết và có thể vạch ra đợc chính sách ruộng đất của một triều đại , căn cứ
vào những biện pháp cu thể của triều đại ấy . Chính sách đó không thể không
xuất phát từ lợi ích của hoàng gia và của giai cấp mà vơng triều ấy đại biểu ; từ
những yêu cầu của tình hình kinh tế xã hội ; từ các hậu quả của đấu tranh giai
cấp . Vậy thì chính sách ruộng đất của triều Nguyễn rút lại là chính sách nh thế
nào ? nguyên nhân , đặc điểm và tác động của nó đối với toàn bộ xã hội ra sao ?
Đó là những vấn đề cần làm sáng tỏ trong nội dung của bài tiểu luận .
2
Nội dung.

I. bối cảnh lịch sử
Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh đặc biệt
của đất nớc mà còn trong tình hình thế giới có nhiều biến chuyển lớn . Thắng
lợi của chủ nghĩa t bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực
dân và của sự giao lu buôn bán quốc tế . Sự phát triển nền kinh của chủ nghĩa t
bản đòi hỏi thị trờng để giải quyết việc tiêu thụ hàng hoá , nhân công , nguyên
liệu để cung cấp cho sự phát triển kinh té t bản chủ nghĩa . Để giải quyết nhu
cầu đó , các nớc t bản đẩy mạnh đi xâm lợc vũ trang . Chủ yếu tập trung ở khu
vực phơng Đông , đặc biệt ở Việt Nam từ thế kỉ XVIII các giáo sĩ phơng Tây
ngày càng đẩy mạnh xâm nhập vào Việt Nam để truyền đạo Thiên chúa , sang
thế kỉ XIX càng đợc đẩy mạnh khi nhà Nguyễn thành lập . Trong hoàn cảnh đó
đặt ra yêu cầu là phải chuẩn bị tiềm lực để sẵn sàng đối phó với cuộc xâm lợc
vũ trang của t bản Pháp : xây dựng tiềm lực cho quốc gia nhà nớc về kinh tế ,
quốc phòng . Về kinh tế đòi hỏi phải mở rộng quyền sở hữu ruộng đất cho nhà
nớc . Giải quyết an c lập nghiệp cho dân chúng , làm cho nông dân có ruộng để
cày cấy đảm bảo cho xã hội ổn định phát triển .
Trong khi đó từ giữa thế kỉ XVIII đầu XIX chế độ phong kiến ở nhiều
nớc phơng Đông bớc vào giai đoạn khủng hoảng . Một trong những nguyên
nhân dẫn đến khủng hoảng là do quan hệ bóc lột điạ tô phong kiến đã mâu
thuẫn sâu sắc với lực lợng sản xuất là nông dân mà nguyên nhân của tình trạng
đó chính là xuất phát từ vấn đề ruộng đất . Lúc này ruộng đất hầu hết tập trung
vào tay giai cấp địa chủ , nông dân ở các làng xã phải phụ thuộc chặt chẽ vào
địa chủ ( Theo số liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX cả
nớc có 3.945.225 mẫu ruộng thực trng , trong khi đó ruộng công thuộc quyền sở
hữu của nhà nớc chỉ còn chiếm 17,8% . Ruộng đất t hữu vào địa chủ chiếm
82,02% , đặc biệt ở Nam bộ ruộng đất t hữu chiếm tới 92% ) . Nh vậy quyền sở
hữu ruộng đất của nhà nớc bị thu hẹp nghiêm trọng , nguồn thu của nhà nớc từ
ruộng công làng xã không còn bao nhiêu . trong khi đó nhu cầu để ban cấp
3
ruộng đất cho quan lại , xây dựng quốc phòng ngày càng cao , đồng thời nông

dân đòi hỏi phải có ruộng cày để ổn định trật tự xã hội. Yêu cầu đặt ra lúc này
cho triều Nguyễn là phải giải quyết tình trạng đó .
Hơn thế nữa , khi nhà Nguyễn đợc thành lập thì liên tục diễn ra các
cuộc nổi dậy chống đối , đặc biệt là nông dân ( từ năm 1803-1858 có tới hơn
300 cuộc nổi dậy của nông dân ) . Điều đó thể hiện mâu thuẫn sâu sắc giữa nhà
Nguyễn , các vua triều Nguyễn với tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội
Việt Nam , đó là một hiện tợng cha từng xảy ra trong lịch sử Đậi Việt . Nguyên
nhân của hiện tợng đó là vì nông dân dới triều Nguyễn không còn ruộng đất để
cày cấy tiếp tục sinh sống ở làng quê , buộc họ phải bỏ làng mạc đi lu tán . Hiện
tợng lu tán diễn ra liên tục khắp nơi ở nửa đầu thế kỉ XIX
Trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt nh vậy đòi hỏi nhà Nguyễn cùng một
lúc phải giải quyết nhiều vấn đề , đặc biệt là về vấn đề ruộng đất . Tuy nhiên
những chính sách ban hành của nhà nớc phải vừa đảm bảo lợi ích cho việc củng
cố vơng quyền , dòng họ , giai cấp địa chủ vừa phải xoa dịu những mâu thuẫn
sâu sắc trong xã hội , đồng thời phải tăng cờng tiềm lực cho đất nớc về mọi mặt
để chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lợc vũ trang của t bản Pháp . Vậy chính sách
của nhà Nguyễn về ruộng đất ở nửa đầu thế kỉ XIX ? Tác động của những chính
sách đó đến tình hình kinh tế , chính trị , xã hội nh thế nào ? .
II. Những chính sách ruộng đất của nhà nớc Nguyễn
nửa đầu thế kỷ XIX
1. Tăng cờng quyền quản lý ruộng đất thông qua việc đo đạc và lập sổ địa
bạ:
Năm 1803, Gia Long bắt đầu cho lập lại địa bạ của các trấn ở Bắc Hà tức
là vùng Đàng Ngoài thuộc quyền cai trị của chúa Trịnh trớc đây . Tiếp đó các
năm 1832-1836, nhà Nguyễn lại mở rộng hơn nữa việc lập địa bạ ở các làng, xã.
Đến năm 1875 các làng xã Đờng ngoài đều có sổ địa bạ.
Năm 1810, Gia Long cho lập địa bạ từ Quảng Bình đến Ninh Thuận. Năm
1831, Minh Mạng cho đo đạc lại ruộng đất, lập sổ địa bạ lần thứ 2 ở các tỉnh từ
Ninh Bình đến Nghệ An. Đến năm 1836 lập địa bạ ở tất cả các tỉnh Nam kỳ.
4

Nh vậy, đến năm 1836, cả nớc có 17640 làng xã đợc lập sổ địa bạ (chiếm
95,06% tổng số làng xã trong cả nớc. Trên cơ sở này, Nhà nớc bắt nhân dân
đóng thuế công điền. Chủ trơng lập sổ địa bạ trên cả nớc để lại nguồn t liệu quý
để nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX
và nửa đầu thế kỷ XX. Bằng cách đó, nhà nớc đã thống kê đợc toàn bộ ruộng
đất đang cầy cấy trong cả nớc; đồng thời Nhà nớc nắm đợc số ruộng đất và biết
đợc tổng thu ngân sách một năm là bao nhiêu:
Tổng diện tích đất: 3.949.255 mẫu (khoảng năm 1836) trong đó, tổng diện
tích ruộng: 3.396.584 mẫu.
Tổng diện tích đất: 552.671 mẫu.
Riêng về ruộng, tổng diện tích ruộng công chỉ còn: 580.363 mẫu, tức là
khoảng 17%, ngoài ra còn hơn 1.000.000 mẫu ruộng đất bỏ hoang.
Trong luật pháp của mình nhà Nguyễn có một số điều luật quy định cấm các
làng xã không đợc bán ruộng đất công. Nếu đã bán phải chuộc lại, lấy lại ruộng
đất trả cho ngời cày, ngời mua ruộng mất tiền. Nhà nớc chuyển một bộ phận
ruộng đất thuộc sự quản lý trực tiếp gọi là quan điền, quan trại thành ruộng đất
công để chia cho nông dân làm ruộng công.
Về chính sách khai hoang:
Đầu thế kỉ XIX , nhà Nguyễn đã đồng thời áp dụng cả 2 chính sách : khai
hoang những vùng đất mới và phục hồi những vùng đất bị bỏ hoá để khắc phục
thực trạng một bộ phận nông dân không có ruộng hoặc không đủ ruộng để cày
cấy , cũng nh một bộ phận không nhỏ ruộng đất lại bị bỏ hoang hoá . Tuy nhiên
vào giữa thế kỷ XIX, tuy có phục hoá và khẩn hoang thêm đợc một số ruộng
đất, nhng tình hình vẫn khó khăn. Theo Thợng th Bộ Hộ là Hà Duy Phiên:
Thừa Thiên, Quảng Trị ruộng công nhiều hơn ruộng t, Quảng Bình thì ruộng
công ruộng t bằng nhau. Còn các hạt khác thì ruộng t nhiều mà ruộng công ít,
tỉnh Bình Định lại càng ít hơn
1
.
Trớc hết có thể thấy rằng nớc Đại Việt từ thế kỷ X đến giữ thế kỷ XIX là

một quốc gia phong kiến hùng mạnh, xây dựng trên cơ sở kinh tế nông nghiệp
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Nxb Sử học, Hà Nội, 1963, tập 27, tr. 336.
5
trồng lúa nớc phát triển cao, một nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ ở
Đông Nam á. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp một mặt đòi hỏi phải cải
tiến kỹ thuật, cải thiện chất đất để thâm canh tăng năng suất, một mặt cũng
không kém phần quan trọng là phải đẩy mạnh công cuộc khai khẩn đất hoang,
không ngừng mở rộng diện tích canh tác mới. Tiến hành khai hoang là quy luật
phát triển của sản xuất nông nghiệp, đồng thời đáp ứng nhu cầu của dân số ngày
càng tăng. Đây là một nhiệm vụ tất yếu khách quan của quốc gia phong kiến
Đại Việt.
Từ bao đời nay, tổ tiên chúng ta đã thực hiện công cuộc khai hoang dới
nhiều hình thức phong phú, đa dạng nh khai hoang lập làng của nông dân, điền
trang của quý tộc, địa chủ, đồn điền của Nhà nớc. Trải qua hàng nghìn năm, sự
nghiệp lao động đó đã góp phần mở mang ruộng đất, xóm làng và nâng cao đời
sống con ngời.
Có thể nói khai hoang là một chính sách nông nghiệp tích cực bởi vì: thông
qua việc khai hoang, thái độ của Nhà nớc đối với vấn đề ruộng đất đợc thể hiện
rõ rệt.
Đầu thế kỷ XIX tiềm năng đất đai của nớc ta còn khá phong phú, kể cả ở
Nam Bộ và vùng duyên hải đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, tiềm năng đó có đợc
khai thác hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của Nhà
nớc. Các vua Nguyễn, từ Gia Long đến Tự Đức, đặc biệt là Minh Mạng đều rất
chú ý đến việc khai hoang. Ngay sau khi lên nắm chính quyền, Gia Long đã ra
lệnh cho các dinh ở Gia Định chia cấp ruộng hoang cho dân nghèo khai khẩn
cày cấy. Từ thời Minh Mạng để khuyến khích việc khẩn hoang, Nhà nớc mạnh
dạn ban hành các quy định thởng phạt thích đáng đối với quan lại các cấp trong
việc tổ chức nhân dân khai phá ruộng hoang. Chủ trơng trên đợc tiếp nối dới
thời Thiệu Trị và Tự Đức.

Trong khoảng thời gian 1802-1858, nhà Nguyễn đã ban hành 46 quyết định
khai hoang, áp dụng chủ yếu cho miền đồng bằng Nam Bộ (54%). Lực lợng
khai hoang đợc huy động bao gồm cả binh lính (11%), tù phạm (39%) và nhân
dân (50%). Các phơng thức khẩn hoang gồm đồn điền (39%), dinh điền (8,7%),
6
t nhân đợc Nhà nớc cấp vốn (41, 3%) và t nhân khai khẩn tự do (11%). Kết quả
khai hoang, 56% số quyết định cho đất đai khai khẩn đợc thành sở hữu t nhân,
còn lại thuộc sở hữu Nhà nớc (37% thành ruộng do Nhà nớc quản lý trực tiếp,
11% thành ruộng công làng xã)
1
.
Nhìn vào các số liệu thống kê trên ta thấy công cuộc khai hoang dới triều
Nguyễn phát động khá rầm rộ, huy động mọi lực lợng, áp dụng nhiều hình thức
tổ chức. Tuy nhiên không phải địa phơng nào và nhất là cách giải quyết quan hệ
ruộng đất sau khai hoang nào cũng đều phát huy tác dụng nh nhau.
Đồn điền là hình thức khai hoang kết hợp kinh tế với quốc phòng. Ngay từ
cuối thế kỷ XVIII Nguyễn ánh đã thi hành chính sách lập đồn điền ở Nam Kỳ
dới hai hình thức: đồn điền do binh lính khai khẩn (trại đồn điền) và đồn điền
do dân khai khẩn (hậu đồn điền). Loại đồn điền thứ hai từng bớc bị quân sự hoá
thời Gia Long. Đầu thời Minh Mạng (năm 1822), Nhà nớc quyết định chuyển
toàn bộ hậu đồn điền thành trại đồn điền. Đồn điền tập trung chủ yếu ở Nam
Bộ. Địa điểm lập đồn điền thoả mãn hai điều kiện: nơi xung yếu về quân sự và
có tiềm năng đất đai để khai hoang. Lực lợng làm đồn điền (loại trại đồn điền)
chủ yếu là binh lính, ngoài ra còn có một số tù phạm đợc Nhà nớc cấp phát
nông cụ. Sản phẩm làm ra phần lớn nộp kho đồn điền. Mục đích kinh tế là cố
gắng đảm bảo cho binh lính các đồn điền tự cấp về lơng thực. Ngời lính làm
đồn điền, về mặt nghĩa vụ họ phải tăng thêm cờng độ lao động nhng quyền lợi
cá nhân thì không đợc chú ý thoả đáng. Vì thế dẫn đến hiện tợng binh lính bỏ
trốn khỏi các đồn điền, hiệu quả của việc khai hoang ruộng đất vì thế rất hạn
chế. Sau năm 1853, dờng nh nhận thức đợc thực trạng này, nhà Nguyễn quyết

định cho ngời khai khẩn và sản xuất ruộng đồn điền, ngoài phần tô nộp cho Nhà
nớc (2 hộc/năm, thấp hơn 1 hộc so với mức tô của dân lập ấp) họ đợc hởng toàn
bộ sản phẩm làm ra. Do quyền lợi cá nhân đợc chú ý nên sản xuất tỏ ra nhiệt
tình hơn, kết quả khai hoang vì thế cũng đợc tăng lên nhanh chóng: chỉ một
năm sau khi áp dụng hình thức này, theo báo cáo của Nguyễn Tri Phơng, số ng-
ời làm đồn điền lên đến 12.500 ngời. Việc đồn điền đang có kết quả triển vọng
1
Thống kê theo sách Đại Nam thực lục chính biên và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ.
7
tốt thì thực dân Pháp xâm lợc, tình hình kinh tế-xã hội chuyển sang một thời kỳ
mới.
Doanh điền là hình thức khai hoang chủ yếu ở vùng duyên hải Bắc Bộ dới
thời Tự Đức. ở Bắc Bộ chỉ trong thời gian một năm (từ tháng 3/1828 đến tháng
3/1829) dới sự tổ chức và lãnh đạo của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, hai
huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình) đã ra đời với tổng diện tích
khai khẩn đợc là 33.590 mẫu
1
. Bản điều trần của Nguyễn Công Trứ Khẩn
ruộng hoang để yên nghiệp dân nghèo đã nêu lên một cách đầy đủ về xuất
phát điểm, mục đích cũng nh biện pháp để thực hiện hình thức khai hoang này:
Đời làm ăn xa, chia ruộng định của , dân có nghiệp thờng cho nên ở yên nơi
làng mạc, không có gian tà. Ngày nay những dân nhèo túng, ăn dng chơi không,
khi cùng thì họp nhau trộm cớp, cái tệ không ngăn cấm đợc. Trớc thần đến Nam
Định, thấy ruộng bỏ hoang ở các huyện Giao Thuỷ, Chân Định mênh mông bát
ngát, hỏi ra thì dân địa phơng muốn khai khẩn nhng phí tổn nhiều không đủ
sức. Nếu cấp tiền công thì có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn, nhà nớc
phí tổn không mấy mà cái lợi tự nhiên sẽ vô cùng. Phàm các hạt xét thấy những
dân du đãng không bấu víu vào đâu, đều đa cả về đây. Nh thế thì đất không bỏ
hoang, dân đều làm ruộng, phong tục kiêu bạc lại thành thuần hậu
1

. Bản điều
trần này cũng nói rõ về mục đích khẩn hoang: giải quyết ruộng đất cho dân thì
họ mới yên ổn làm ăn, không tụ họp nhau mà nổi loạn. Hơn nữa lại đáp ứng đợc
lợi ích thuế khoá do kết quả khẩn hoang đem lại, một vấn đề nan giải của nhà n-
ớc phong kiến lúc đó. Trong bản điều trần khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ cũng
trình bày các biện pháp cụ thể để triển khai công việc: Cho những ngời địa ph-
ơng giàu có chia nhau trông coi làm, mộ đợc 50 ngời thì làm một ấp, cho làm ấp
trởng, đều tính đất chi cho. Cấp cho tiền công để làm nhà, làm cửa, mua trâu bò
nông cụ, lại lợng cấp cho tiền gạo lơng tháng trong hạn sáu tháng, ngoài hạn ấy
thì làm lấy mà ăn, 3 năm thành ruộng đều chiếu lệ t điền mà đánh thuế
2
.
1
Đại Nam Thực lục chính biên, tập 9, Hà Nội, 1964, tr. 123-124-220.
1
Đại Nam Thực lục chính biên, tập 9 đệ nhị kỷ, Nxb Khoa học xã hội, 1964, tr. 33-34.
2
Đại Nam Thực lục, sđ d, tr. 33-34.
8
Doanh điền là một hình thức khẩn hoang dới thời Nguyễn đợc Nhà nớc cấp
một phần nhu phí cho dân khai hoang
3
:
Đơn vị Số đinh Tiền mua
trâu bò
Tiền mua
nông cụ
Tiền làm
nhà
Tổng cộng

Lý 50 ngời 300 quan 40 quan 100 quan 440 quan
ấp
30 ngời 180 quan 24 quan 60 quan 264 quan
Trại 15 ngời 90 quan 12 quan 30 quan 132 quan
Giáp 10 ngời 60 quan 8 quan 20 quan 88 quan
Nh vậy hình thức khai hoang do Nhà nớc đứng ra tổ chức và cấp vốn (trong
công cuộc khai hoang thành lập hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn mỗi ngời đợc cấp
hai quan tiền làm nhà, 6 quan tiền mua trâu cày, 0,8 quan mua dụng cụ, tính ra
cứ 5 ngời đợc cấp một con trâu, 1 cái bừa, 1 cái cày, 1 cái thuổng, 1 cái cuốc, 1
cái liềm) và mặt khác là vai trò cá nhân của ngời đứng ra lãnh đạo công cuộc
khai hoang (Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phơng đều là những ngời có năng
lực đặc biệt, rất có tâm huyết với công việc). Ruộng đất khai khẩn đợc hoặc
theo tỷ lệ t điền quân cấp (huyện Kim Sơn) hoặc trích 25% làm t điền thế
nghiệp (huyện Tiền Hải) hoặc thành sở hữu t nhân (Nam Kỳ). Việc giải quyết
ruộng đất nh thế rõ ràng đã mang lại quyền lợi tơng đối thoả đáng cho ngời khai
hoang, trở thành động lực thúc đẩy công cuộc khẩn hoang phát triển. Chủ trơng
này của nhà nớc là nguồn động viên và hỗ trợ quan trọng cho công cuộc khai
hoang. Trong quá trình thực hiện, với t cách là nhà doanh điền sứ- ngời trực tiếp
tổ chức và chỉ đạo khai hoang- Nguyễn Công Trứ còn đề ra những chính sách và
biện pháp thích hợp để kết hợp kinh phí có hạn của nhà nớc với sự đóng góp của
nhân dân, tận dụng tài lực, vật lực của những ngời có của trong nông thôn và
sức lao động của nông dân nghèo khổ, trong đó có cả những ngời đã tham gia
khởi nghĩa chống triều đình (nh cuộc khởi nghĩa của nông dân do Phan Bá
Vành lãnh đạo).
T nhân tự đứng ra khai khẩn là hình thức khai hoang chiếm tỷ lệ cao nhất
trong các quyết định khai hoang của Nhà nớc (52,3%). Tuy nhiên, các quyết
định này thờng đợc ban hành một cách lẻ tẻ thể hiện thái độ khuyến khích nông
3
Sđ d, tr. 33-34.
9

dân triệt để khai thác nguồn lợi đất đai nhất là tại các địa phơng mà họ sinh
sống. Sử sách của nhà Nguyễn không thấy chép về kết quả của việc khai hoang
theo hình thức này, vì thế không có cơ sở đánh giá hiệu quả của nó so với các
hình thức khai hoang khác.
Hình thức khẩn hoang doanh điền của nhà Nguyễn thực hiện ở đồng bằng
Bắc Bộ đã thu đợc những thành quả đáng khích lệ: mùa thu năm 1828, huyện
Tiền Hải ra đời với diện tích khai hoang đợc là 18.970 mẫu và số đinh 2.350 ng-
ời. Huyện đợc chia đặt thành 7 tổng với 14 lý, cũng chính thức đợc ghi vào sổ
sách của nhà Nguyễn với 7 tổng, 60 lý, ấp trại. Số ruộng khẩn hoang đợc là
14.620 mẫu chia cấp cho dân nghèo 1.250 ngời. Tổng Hoành Thu (Giao Thuỷ-
Nam Định) bắt đầu đợc khai khẩn vào tháng 3/1828 đến đầu năm sau thì căn
bản hình thành với 14 ấp, trại, giáp có 380 mẫu ruộng và 301 đinh. Tổng Ninh
Nhất cũng đợc thành lập với 9 làng, ấp, trại, giáp có 345 xuất đinh và 4120 mẫu
ruộng đất.
Nh vậy, chỉ trong vòng 2 năm, hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn và hai tổng
Hoành Thu, Ninh Nhất đợc lập nên với 16 tổng, 154 lý, ấp, trại. Số ruộng đất
khẩn hoang đợc là 38.095 mẫu và 4.264 đinh. Đó là một thành quả rất lớn, đáng
đợc đánh giá cao dới thời Minh Mạng.
Tại Nam Bộ việc doanh điền đã đợc bắt đầu từ tháng 6/1853 tới tháng
7/1854 đã có 124 ấp mới ra đời ở các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Gia Định và
Định Tờng
1
Công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác đợc mở rộng dới thời
Nguyễn, trong đó đạt hiệu quả hơn cả là ở thời Minh Mạng và đầu thời Tự Đức
gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phơng. Tuy nhiên ứng
với mỗi phơng thức khai hoang là một quan hệ sở hữu khác nhau và kết quả
thực tế cũng phụ thuộc nhiều vào cách giải quyết quan hệ sở hữu đó.
Hình thức khai hoang nữa là Nhà nớc cho phép quan và dân có khả năng đợc
đứng ra chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang. Nhà nớc cung cấp tiền, công cụ cho
ngời đi khai hoang. Ruộng đất khai hoang đợc biến thành ruộng đất công, ngời

1
Đại Nam Thực lục chính biên, tập 28, Hà Nội, 1973, tr. 46-47.
10
đi khai hoang nộp thuế cho Nhà nớc, để lại một bộ phận ruộng đất cho làng ấp.
Ngời đứng ra chiêu mộ đợc hởng một phần lợi ích do khai hoang đem lại. Nhà
nớc thởng cho ngời có công tổ chức đi khai hoang và phạt các quan sở tại ở địa
phơng để ruộng đất hoang hoá.
Quyền lợi của ngời tổ chức khai hoang nh sau:
Đối với dân: chiêu mộ đợc 30 ngời, khai hoang đợc 1 làng, ấp mới đợc miễn
thuế công điền, thuế thân và miễn phục vụ lao dịch suốt đời. Mộ đợc 50 ngời đ-
ợc thởng hàm chánh cửu phẩm và chức bá hộ. Mộ đợc 100 ngời thì đợc thởng
hàm chánh bát phẩm, kiêm chức tổng lý. Dân mộ khai hoang đợc miễn đóng
thuế ruộng thuế đinh trong 10 năm.
Đối với quan chức:
Lý trởng: huy động dân sở tại khai hoang đợc 300 mẫu thì đợc Nhà nớc th-
ởng 20 quan tiền; 200 mẫu thởng 16 quan tiền; 50 mẫu thởng 10 quan tiền và đ-
ợc Nhà nớc ghi vào thành tích chung để tính trong các phần khảo khoá. Nếu xã
trởng để ruộng đất hoang hoá trong xã 50 mẫu bị phạt 100 gậy.
Chánh tổng: tổ chức khai hoang đợc 100 mẫu đợc thởng 50 quan. Nếu bỏ
ruộng hoang 100 mẫu bị phạt 100 trợng, kèm theo cách lu.
Quan tỉnh: tổ chức khai hoang đợc 800 mẫu đợc thăng ngay một cấp.
Hình thức khai hoang lập đồn điền:
Đồn điền đợc Nhà Nguyễn coi trọng và đẩy mạnh cả trong thế kỷ XIX do đó
đem lại nhiều kết quả góp phần quan trọng mở rộng quyền sở hữu ruộng đất của
Nhà nớc, tăng thêm thu nhập, mở rộng diện tích sản xuất và kích thích nông
nghiệp phát triển , giải quyết quân lơng, xây dựng kinh tế và quốc phòng, đặc
biệt ở vùng biên giới và hải đảo.
Hình thức cụ thể:
Nhà Nguyễn khác các triều đại trớc, đồn điền đợc chia làm 2 loại: binh đồn
điền và dân đồn điền. Thời Gia Long (1802- 1829), ông thực hiện 2 giai đoạn

sau:
11
Binh đồn điền: lực lợng khai hoang là quân lính. Sản phẩm thu đợc nhập kho
chung của Nhà nớc để làm lơng thực nuôi quân. Ruộng đất khai hoang đợc
thuộc quyền sở hữu trực tiếp của Nhà nớc. Nhà nớc mở rộng diện tích sản xuất.
Dân đồn điền: lực lợng khai hoang là dân làng do Nhà nớc chiêu tập đi khai
hoang, nhân dân các làng xã không có điều kiện khai hoang đợc biên chế thành
quân đội. Đây là chính sách quân sự hoá dân đồn điền. Ngời cày ruộng hàng
năm nộp su thuế cho Nhà nớc nhẹ hơn thuế công điền. Mỗi ngời mỗi năm nộp 2
hộc thóc. Các hàng lão, bệnh tật 1 năm nộp 1 hộc. Từ năm 1810, dân đồn điền
toàn vùng Nam bộ đợc quân sự hoá 100% thành hơng binh (nh dân quân).
Thời Minh Mạng, binh đồn điền dọc biên giới Việt Nam- Cam-pu-chia và
các đảo. Khi không có chiến tranh, ngời khai hoang tiến hành làm ruộng, luyện
tập quân sự. Đây là lực lợng quân sự để tham gia đánh giặc.
Nhà Nguyễn có chủ trơng chính sách khuyến khích ngời khai hoang trong
đồn điền tiếp tục mở rộng khai hoang.
Khai hoang đồn điền ở Khánh Hoà: thời Minh Mạng khai hoang đợc 140
mẫu, chính quyền thởng 100 quan tiền; ở Vĩnh Long khai hoang đợc 260 mẫu,
chính quyền thởng 250 quan tiền; ở Biên Hoà khai hoang đợc 300 mẫu chính
quyền thởng 400 quan tiền. Năm 1836, Minh Mạng có chủ trơng đem các thủ
phạm tổ chức thành quân đội đi khai hoang lập đồn điền do Nhà nớc cấp kinh
phí.
Để khuyến khích nhân dân lập đồn điền, Nhà nớc chỉ thu 50% hoa lợi, ngời
sản xuất giữ lại 50% tổng số hoa lợi thu hoạch. Những nơi đất xấu, Nhà nớc cho
phép ngời lập đồn điền đợc hởng 100% hoa lợi, mục đích để họ yên tâm ở lại
những nơi xung yếu. Quy mô, phạm vi trên cả nớc, đặc biệt là ở vùng đất mới,
nhất là biên giới Cửu Long- Cam-pu-chia. Điểm mới của chính sách khai hoang
này là nhà Nguyễn kết hợp làm kinh tế, tham gia mở rộng diện tích với nhiệm
vụ quốc phòng, biến thành những nơi đồn trú, khi có biến động là có lực lợng
đối phó trong khi Nhà nớc cha đa quân kịp thời đến đợc.

Tóm lại, các chúa Nguyễn cũng đã thực hiện chính sách phát triển sở hữu
nhà nớc về ruộng đất. Đến khi Nguyễn ánh lên ngôi kể từ năm 1802, với t cách
12
là ngời nối nghiệp dòng họ Nguyễn, lại với đầu óc thủ cựu câu nệ cổ nghiệp,
Nguyễn ánh xây dựng một bộ máy quân chủ quan liêu chuyên chế tập trung
còn nặng nề và cồng kềnh hơn trớc, do đó còn tiến hành chính sách phát triển sở
hữu nhà nớc mạnh hơn trớc. Nhất là về miền Nam, kể từ Bình Thuận trở vào, là
miền đất mới mẻ, vừa nhiều đất hoang màu mỡ. Chính quyền họ Nguyễn cần
phải đợc nhanh chóng đứng vững và cắm sâu ở miền này. Chính sách phát triển
sở hữu nhà nớc về ruộng đất với chế độ đồn điền là hình thức duy nhất có thể
vừa trấn trị biên giới về mọi mặt, lại vừa đảm bảo cung cấp nhiều tiền của cho
công quỹ nhà nớc.
Cuối cùng chính sách của Nhà nớc Nguyễn đối với ruộng đất theo hình thức
khẩn hoang doanh điền một mặt phản ánh xu thế phát triển tất yếu của lịch sử
đó là xu hớng t hữu hoá ruộng đất ở nửa đầu thế kỷ XIX nhng mặt khác nó cũng
tạo điều kiện cho sự củng cố kinh tế sở hữu t nhân, góp phần ổn định sản xuất
nông nghiệp và do đó về mặt khách quan nó cũng thúc đẩy nền kinh tế hàng
hoá phát triển.
2. Chính sách ban cấp ruộng đất cho các quan chức và quân lính:
Kể từ giữa thế kỷ XVI, họ Nguyễn xuất hiện trên chính trờng với t cách một
thế lực bè phái và chia cắt đất nớc. Thế lực họ Nguyễn càng mạnh bao nhiêu thì
tính chất phân biệt chia cắt đất nớc càng hằn sâu bấy nhiêu. Trong vòng hơn
200 năm, các chúa Nguyễn không những củng cố và xây dựng miền Thuận
Quảng thành một hậu phơng vững chắc cho triều đại mình, mà còn mở rộng
lãnh thổ xuống phía Nam bằng các cuộc xâm lợc vũ trang và không vũ trang.
Công việc mở rộng và đứng vững đợc trên những mảnh đất mới ấy rõ ràng đã
thành hiện thực. Điều đáng lu tâm là họ Nguyễn đã lợi dụng đợc một hoàn cảnh
thuận lợi thực sự. Miền Thuận Quảng cũ cũng dễ làm nông nghiệp đối với một
trình độ sản xuất nào đó. Toàn bộ hoàn cảnh kinh tế xã hội tự nhiên của vùng
đất ấy là nguyên nhân hay điều kiện quyết định mà họ Nguyễn giành đợc trong

tay để thực hiện mu đồ lớn của dòng họ. Vì vậy cuộc chiếm trị phơng Nam đợc
kết hợp với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Nhng điều cần đặc biệt chú
ý là, công cuộc phát triển sản xuất nông nghiệp này diễn ra theo phơng hớng,
13
hay theo phơng thức xác lập quan hệ địa chủ tá điền. Hình thức sở hữu địa chủ
và sở hữu nhà nớc chiếm vai trò mở đầu và chủ đạo. Các đồn điền và các ấp mộ
là tổ chức định c đầu tiên và đa số ở những miền đất mới. Phơng thức đó đợc
nhà Nguyễn chủ động thực hiện một cách có ý thức, để tạo ra một hậu thuẫn
chính trị, đúng hơn là một cơ sở giai cấp xã hội đông đảo cho chính quyền nhà
Nguyễn. Giai cấp đó là giai cấp địa chủ lớn nhỏ, vốn xuất thân từ dòng họ
Nguyễn, hay số các tay sai của dòng họ này đợc hởng những đặc quyền đặc lợi
của chính quyền Nguyễn ban cho. Vì vậy, trong một thời gian dài, sự thống trị
của họ Nguyễn đợc củng cố và tăng cờng rõ rệt. Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp
Đàng Trong phát triển đúng lúc thơng nghiệp và thủ công nghiệp phồn thịnh
trên toàn quốc; kinh tế hàng hoá đã tiến lên một trình độ mới, khiến cho sự phân
hoá giai cấp và quan hệ địa chủ tá điền nhanh chóng đi tới đỉnh cao của nó. Sự
bần cùng hoá của nông dân, cùng với sự đình trệ của sản xuất nông nghiệp bắt
nguồn từ tình trạng ngời trực tiếp cày cấy không có ruộng đất trong tay, lại trở
thành điều kiện kìm hãm thơng nghiệp và thủ công nghiệp. Tuy vậy trong 30
năm cuối thế kỷ XVIII, tình hình kinh tế nói chung không có gì thay đổi lắm d-
ới thời Tây Sơn, nhất là dới quyền của Thái Đức hoàng đế và Đông Định Vơng.
Nếu Nguyễn Huệ không mất sớm thì chắc chắn lịch sử chứng kiến những biến
đổi mới mẻ trên con đờng tiến lên của nó.
Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng
Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn ánh tự đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà
Nguyễn. Thành lập và thống trị trong thế kỷ XX, nhà Nguyễn thừa hởng đợc
thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống trị đất
nớc, làm chủ một giải lãnh thổ từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Các vua nhà
Nguyễn từ Gia Long (1802-1819), Minh Mạng (1820-1840) đến Thiệu Trị
(1841-1847), Tự Đức (1848-1833) kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống

trị, bảo vệ chế độ phong kiến. Vấn đề ruộng đất đợc đặt ra cấp thiết vì nông
nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ yếu. Trong nông nghiệp chế độ ruộng đất là một
vấn đề lớn không chỉ liên quan đến quốc gia, đến dân tộc, mà còn liên quan đến
giai cấp, đến chế độ xã hội; không phải đặt ra một lần cho mãi mãi về sau mà đ-
14
ợc thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. ở nửa đầu thế kỷ XIX, chế độ ruộng đất
Việt Nam vẫn đang ở chặng đờng đầu của quá trình phát triển tiến hoá. T hữu
hoá vẫn còn là một xu thế dù nó đã ở những bớc đi cuối cùng. Phân hoá và tập
trung ruộng đất, dù ở nơi này nơi khác đã đạt trình độ khá cao nhng trên bình
diện cả nớc vẫn cha đạt đến mức triệt để và sâu sắc. Một thực trạng ruộng đất
nh vậy vừa phản ánh kết quả của toàn bộ quá trình phát triển của chế độ ruộng
đất Việt Nam đến lúc này vừa là kết quả không thể không tính đến tác động của
chính sách Nhà nớc.
Chính sách ruộng đất của Nhà nớc trong nông nghiệp thể hiện vai trò của
Nhà nớc trong chế độ ruộng đất nói chung. Vai trò có tích cực hay không là phụ
thuộc vào chính sách đợc ban hành có dựa trên cơ sở thực tế khách quan và phù
hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử hay không.
Đối với nhà Nguyễn, chính quyền nhà nớc là quyền lợi số một và trớc hết.
Trong những trờng hợp mâu thuẫn giữ quyền lợi của dòng họ, tức chính quyền
nhà nớc, với quyền lợi giai cấp địa chủ thì nhà Nguyễn sẵn sàng đặt quyền lợi
dòng họ lên trên. Trong thực tế có những trờng hợp này tất nhiên không phải là
phổ biến. Còn trong những điều kiện bình thờng, đờng lối chính sách của nó về
mọi mặt mfa chủ yếu là kinh tế, cũng không thể nào không phục vụ dòng họ và
giai cấp địa chủ. Tuy vậy, đờng lối chính sách cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu
chiến lợc đó không những cần phải linh hoạt để phù hợp với thực tế từng lúc
từng nơi mà còn có thể sai hay đúng tuỳ theo kẻ nắm quyền có tài năng hay
không? Do đó, chính sách cụ thể thể hiện nhiều phơng pháp khác nhau để tiến
tới cùng một mục tiêu chiến lợc. Đánh giá chính sách của nhà Nguyễn cũng
phải dựa vào quan điểm này để sự nhận xét đợc khách quan, không sa vào
khuyết điểm phi lịch sử.

Do bản chất giai cấp và đặc điểm hình thành dòng họ nh nói trên, kể từ năm
1802, nhà Nguyễn đã ban hành và thực hiện một đờng lối chung về ruộng đất
nh sau:
15
1. Cùng với việc ra sức mở rộng diện tích ruộng đất bằng nhiều hình
thức khẩn hoang, chú ý trớc hết đến việc duy trì bảo vệ và phát triển sở hữu nhà
nớc và sở hữu làng xã.
2. Tích cực tranh đoạt ruộng đất công làng xã và dùng quyền lực pháp chế
biến nó thành cơ sở cho thiết chế quân chủ tập quyền phong kiến chuyên chế
trên nguyên tắc sở hữu kết hợp nhà nớc với làng xã.
3. Đồng thời luôn luôn quan tâm thích đáng và đầy đủ đến việc tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của sở hữu địa chủ.
4. Ngoài ra, đối với sở hữu nhỏ tự canh, chỉ khi nào cần khuyến khích để
đảm bảo quyền lợi dòng họ thì mới cho phát triển; còn nói chung phải hạn chế
trong những giới hạn nhỏ hẹp cả về thiết chế pháp lý lẫn điều kiện thực tế.
Về cơ bản dới triều Nguyễn chỉ còn tồn tại một loại ruộng đất ban cấp là
ruộng thờ (tự điền), Ruộng đất đợc Nhà nớc ban cấp cho các quan chức cao cấp,
các hình thức ban cấp ruộng đất khác đều bị bãi bỏ.
Điểm giống của chính sách này so với các triều đại trớc là Nhà nớc đều sử
dụng ruộng đất để ban cấp cho quan lại. Nhng điểm khác là ruộng đất ban cấp
không chỉ có ruộng đất công làng xã mà có một bộ phận ruộng đất thuộc quyền
quản lý trực tiếp của Nhà nớc gọi là quan điền quan trại. Ruộng đất đợc Nhà n-
ớc ban cấp rất ít. Ruộng này để cho các quan lại làm ruộng cúng tế, thừa tự.
Việc ban cấp ruộng thừa tự đợc thực hiện rải rác trong nhiều năm, chủ yếu
dới thời Gia Long (thời Minh Mạng chỉ có hai lần cấp tự điền vào năm 1842 và
1829). Tổng số ruộng đất nhà Nguyễn lấy ruộng đất ban cấp làm tự điền cho
các quan chức cao cấp là 14330 mẫu. Kết quả thống kê các lần ban cấp ruộng
thờ cho thấy tính chất hạn chế của chính sách này: trong suốt nửa thế kỷ số
ruộng ban cấp chỉ có 14.330 mẫu
2

(dới thời Lê Sơ một thân vơng cũng đợc cấp
tới 1.790 mẫu ruộng lộc). Trờng hợp đặc biệt là họ Lê đợc cấp 10.000 mẫu nhng
đến năm 1817 cũng rút xuống chỉ còn 100 mẫu.
Ngời đợc cấp tự điền là một vài thân vơng, các tớc công, hầu (16%), hai họ
Lê, Trịnh (72%), các lăng miếu, chùa chiền (12%). Ruộng đất để ban cấp bao
2
Đại Nam Thực lục chính biên, tập 3, 4, 7, 9, Hà Nội, 1963, 1964.
16

×