Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tình huống về tội cướp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.41 KB, 14 trang )

I. Vụ án
A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi
chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng không được, chúng
ra một cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng nhựa.
Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi hóng
mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút súng ra dọa:
“ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng cho tính mạng nên
khi B lấy chiếc xe máy mang đi, C và D không có phản ứng gì. A, B đem xe máy bán
cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn tiêu hết.
II. Giải quyết vấn đề
1. Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
Hành vi của A và B cấu thành tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS
1999 vì căn cứ vào các tình tiết vụ án đưa ra ta thấy hành vi mà A và B đã thực hiện
thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm của tội này:
• Về khách thể của tội phạm: Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Cả
hai quan hệ xã hội này đều được coi là khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản. Ở vụ
án trên, với hành vi rút súng ra dọa “ngồi im không tao bắn chết” của A và B đã xâm
hại quan hệ nhân thân là tính mạng, sức khỏe, quyền tự do con người và qua đó nhằm
mục đích xâm phạm quan hệ sở hữu là chiếm đoạt tài sản (chiếc xe máy) của C, D.
• Về mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội cướp tài sản được mô tả trong cấu thành tội
phạm của tội này quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS 1999: “dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. Như vậy, có 3 dạng
hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp tài sản:
- Hành vi dùng vũ lực: Đây là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào thân
thể người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người đó chống lại việc
chiếm đoạt, từ đó người phạm tội có thể dễ dàng chiếm đoạt được tài sản.
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Trường hợp người phạm tội được coi
là đã thực hiện hành vi này khi người đó bằng lời nói hoặc cử chỉ hoặc cả hai dọa sẽ


dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Hành vi này khác hành
1
vi dùng vũ lực ở chỗ nó không tác động đến thân thể người bị hại mà chỉ tác động vào
ý chí, làm tê liệt ý chí phản kháng lại việc chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Một
dấu hiệu quan trọng của hành vi cướp tài sản dạng này là việc đe dọa phải là đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc. Dấu hiệu này thể hiện tính chất của sự đe dọa vừa nhanh
chóng vừa mãnh liệt khiến cho người bị đe dọa tê liệt về ý chí phản kháng, đối phó và
phải giao ngay tài sản.
- Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được: những hành vi này có thể là đầu độc, cho uống thuốc ngủ liều cao, dùng thuốc
gây mê…
Từ việc đối chiếu các tình tiết của vụ án với các dạng nêu trên của hành vi cướp tài
sản ta khẳng định: Trong vụ án trên, A và B đã thực hiện hành vi khách quan là: đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nhận thấy hành vi của A và
B thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên của dạng hành vi này:
Trước hết, bằng hành động rút súng ra và buông lời đe dọa: “ngồi im không tao bắn
chết” ,A và B đã thực hiện hành vi thông qua lời nói và sự phô trương hung khí là
khẩu súng nhằm đe dọa dùng vũ lực đối với C, D. Ngoài ra, sự đe dọa dùng vũ lực của
A và B là ngay tức khắc, thể hiện ở sự nhanh chóng và mãnh liệt trong lời đe dọa của
chúng khiến cho C, D tin rằng lời đe dọa đó sẽ xảy ra ngay lập tức nếu họ không giao
tài sản hay có sự chống cự lại.
Tuy khẩu súng mà A và B sử dụng chỉ là súng giả nhưng vì tưởng là súng thật, lo
lắng cho tính mạng của mình nên C, D không dám có phản ứng gì để chống cự lại
hành vi của A và B. Như vậy, sự đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc của A, B đã làm tê
liệt ý chí phản kháng của C, D đối với việc bị chiếm đoạt tài sản. Thực chất, bản thân
sự đe dọa của A và B đã chứa đựng tính chất khiến người bị đe dọa bị tê liệt về ý chí,
thể hiện ở các tình tiết như: sử dụng súng là một thứ vũ khí nguy hiểm để đe dọa (theo
suy nghĩ của C, D vì họ không biết đó là khẩu súng giả), hành vi đe dọa dùng vũ lực
diễn ra ở bờ sông – nơi vắng người qua lại.
Như vậy, hành vi của A và B đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi được quy định trong

cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản. Tuy nhiên, khi phân tích hành vi của A và B
cần xác định rõ 2 vấn đề:
- Dấu hiệu ngay tức khắc của sự đe dọa dùng vũ lực trong hành vi của người phạm
tội cướp tài sản chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái độ thể hiện ra
bên ngoài mà không đòi hỏi họ phải thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc
2
hay phải có đủ điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc. Như ở trường hợp trên, ta thấy
A và B đã thể hiện ra ngoài sự đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc bằng hành vi và lời
nói của mình nhưng trên thực tế họ không có ý định và cũng không có đủ điều kiện
thực hiện điều đó vì vũ khí họ sử dụng chỉ là khẩu súng giả. Cho nên, khi xác định
tình tiết này chúng ta không được máy móc đòi hỏi sự đe dọa đó phải được thực hiện
và diễn ra trên thực tế.
- Dấu hiệu hành vi đe dọa dùng vũ lực của tội cướp tài sản cần được phân biệt với
hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Theo đó, chúng khác nhau ở thời
điểm diễn ra hành vi dùng vũ lực trên thực tế và cả thái độ đối với việc thực hiện hành
vi đó. Nếu như ở tội cướp tài sản hành vi đe dọa dùng vũ lực xảy ra ngay tức khắc tức
là ngay lập tức xảy ra và thể hiện sự mãnh liệt của hành vi đe dọa cũng như việc thực
hiện hành vi đó của người phạm tội thì ở tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi người phạm
tội không đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc mà đe dọa sẽ dùng vũ lực, qua đó cũng
thể hiện thái độ ít mãnh liệt hơn.
• Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể mà tội cướp tài sản đòi hỏi là chủ thể
thường tức là chủ thể đạt độ tuổi luật định và có năng lực TNHS. Trong vụ án trên
không đặt ra vấn đề về chủ thể nên ta ngầm hiểu A và B đáp ứng điều kiện về chủ thể
của tội cướp tài sản
• Về mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội cướp tài sản cũng giống như các tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt khác là lỗi cố ý trực tiếp. Trong vụ án trên, A và B chắc chắn
phải nhận thức được hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài
sản là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó và mong
muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác, thể hiện ở mục đích chiếm đoạt có

trước khi A và B thực hiện hành vi cướp tài sản và sự chuẩn bị cho hành vi đó: “A và
B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng
cùng nhau tìm mua súng”. Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc để xác định một
hành vi đã phạm tội cướp tài sản.
Từ những căn cứ trên ta khẳng định hành vi của A và B cấu thành tội cướp tài sản
quy định tại Điều 133 BLHS 1999 và A và B phải chịu TNHS về vụ đồng phạm cướp
tài sản. Khẳng định A và B đồng phạm trong vụ cướp tài sản trên xuất phát từ những
dấu hiệu sau:
3
- Về mặt khách quan: Vụ đồng phạm này có 2 người và cả A, B đều là những người
có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm. Ngoài ra, cả A và B đã cùng thực hiện tội phạm
một cách cố ý với hành vi là người thực hành. Dù A mới là người trực tiếp thực hiện
hành vi cấu thành tội cướp tài sản: A rút súng ra dọa “Ngồi im không tao bắn chết”
nhưng B đã cùng với A đem súng ra bờ sông để thực hiện tội phạm tức là thống nhất
với A trong cách hành động. Như vậy, B cũng được coi là người thực hành cùng với
A trong vụ đồng phạm cướp tài sản.
- Về mặt chủ quan: Như đã phân tích ở trên, A và B cùng thực hiện hành vi phạm tội
với lỗi cố ý trực tiếp và cùng chung mục đích chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi
của A và B có đầy đủ dấu hiệu về mặt chủ quan của một vụ đồng phạm cướp tài sản.

2. Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại, A và B không lấy được tài
sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết như thế nào? Tại sao?
Xét CTTP của tội cướp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 133 ta thấy đây là loại tội
có cấu thành hình thức tức là người phạm tội chỉ cần thực hiện một trong các dạng
hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm ( dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được) thì coi như tội phạm đã hoàn thành mà không cần xem xét đến hậu
quả đã xảy ra hay chưa (người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa).
Trong vụ án trên, A và B đã thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực đối với C, D
nhằm chiếm đoạt tài sản (đã phân tích ở phần trên). Hành vi này đã thỏa mãn dấu hiệu

hành vi khách quan được mô tả trong CTTP của tội cướp tài sản nên theo lập luận
trên, hành vi phạm tội của A và B đã hoàn thành và A, B phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội cướp tài sản mà không cần quan tâm đến việc A, B có cướp được tài sản
hay không. Vậy, trong trường hợp C, D biết là súng giả, chống cự lại và A, B không
lấy được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B vẫn không thay đổi vì hậu quả (cướp
được tài sản) không phải là dấu hiệu định tội của tội cướp tài sản. Cho nên, nếu A và
B không cướp được chiếc xe máy của C, D thì A và B vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS 1999.
Ở đây cần lưu ý rằng tài sản bị chiếm đoạt trong tội cướp tài sản không phải là dấu
hiệu định tội mà chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt. Cho nên, nếu A, B không cướp
được tài sản thì điều đó không có ý nghĩ gì trong việc làm thay đổi trách nhiệm hình
sự và A, B phải chịu. Nhưng nếu A, B cướp được chiếc xe máy thì cần phải căn cứ
4
vào giá trị của tài sản đó để xác định A và B bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản nào của Điều 133 BLHS 1999.
* Một số quan điểm khác về trách nhiệm hình sự mà A, B phải chịu trong giả thiết
đặt ra:
• Đối với giả thiết đặt ra trong tình huống trên, có quan điểm cho rằng A, B
phạm tội cướp tài sản thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt vì cho rằng họ đã thực hiện
hành vi đi liền trước của tội cướp tài sản là hành động giơ súng ra và đe dọa để chiếm
đoạt tài sản nhưng do C, D biết đó là súng giả nên đã chống cự lại tức là do nguyên
nhân ngoài ý muốn mà khiến cho A và B không cướp được chiếc xe máy. Hiểu như
vậy là sai bản chất của hành vi phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt và không
đúng về hành vi khách quan được mô tả trong CTTP của tội cướp tài sản. Cần phải
nhận thấy rõ rằng A và B đã thực hiện đầy đủ hành vi mà tội cướp tài sản đòi hỏi cho
nên không thể nói hành vi đó mới bắt đầu được thực hiện hay không được thực hiện
đến cùng. Cho dù vũ khí mà A, B sử dụng chỉ là súng giả, không có khả năng thực tế
hiện thực hóa sự đe dọa dùng vũ lực nhưng trên thực tế nó vẫn có tác dụng uy hiếp
tinh thần buộc người bị đe dọa phải giao tài sản và hành vi của tội cướp tài sản cũng
không đòi hỏi người phạm tội phải có ý định hay có đủ điều kiện dùng vũ lực. Vì vậy,

hành vi của A, B thỏa mãn đủ các dấu hiệu về mặt khách quan trong CTTP tội cướp
tài sản nên không thể thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được. Hơn nưa, thực tế xét
xử cũng cho thấy tội cướp tài sản không có giai đoạn phạm tội chưa đạt.
• Ngoài ra, có quan điểm cho rằng trong tình huống trên A, B phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 điều 133 “sử dụng vũ khí, phương tiện
hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” vì cho rằng ở đây A, B đã sử dụng thủ đoạn nguy
hiểm khác. Để phân tích quan điểm này đúng hay sai, trước hết ta cần phải hiểu thể
nào là vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác. Vũ khí hoặc phương tiện
nguy hiểm phải là công cụ, phương tiện xét về cả hình thức và tính chất nó có khả
năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người. Ở đây, vũ khí mà A và B
sử dụng là súng giả, về hình thức nó có thể gây lầm tưởng cho người khác về mức độ
nguy hiểm của nó nhưng về bản chất, nó không hề có khả năng gây hại đến tính mạng,
sức khỏe con người. Hơn nữa, theo qui chế quản lí vũ khí vật liệu nổ và công cụ hỗ
trợ ban hành theo Nghị định số 47/CP ngày 12/08/1996 thì súng giả không thuộc các
trường hợp được qui định là vũ khí, phương tiện nguy hiểm. Còn sử dụng thủ đoạn
nguy hiểm khác phải là những thủ đoạn có thể gây chết người hoặc gây thương tích
5
cho người khác. Tính nguy hiểm của những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng
không phụ thuộc vào phương tiện mà phụ thuộc vào phương pháp sử dụng của người
phạm tội. Ở đây, việc A rút súng ra dọa không thể được coi là thủ đoạn sử dụng công
cụ nguy hiểm được. Như vậy, ý kiến trên là không đúng.


3. E có phạm tội không? Tại sao?
Với những tình tiết vụ án đưa ra chưa thể khẳng định rằng E có phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không mà cần xét các trường hợp sau:
Trường hợp 1: E không phạm tội nếu E không có sự hứa hẹn, thỏa thuận trước với
A và B về việc sẽ mua xe sau khi A, B đã cướp được chiếc xe đó cũng như không biết
rằng chiếc xe máy A và B bán cho E là do cướp được mà có tức là E chỉ đơn thuần
mua xe do A và B bán cho mà không biết gì về hành vi phạm tội của A và B.

Trường hợp 2: E phạm tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS với vai trò
đồng phạm với A và B: Trường hợp này xảy ra nếu E có sự hứa hẹn, thỏa thuận trước
với A và B là sẽ mua lại tài sản do A và B cướp giật được mà cụ thể ở đây là chiếc xe
máy . Sự hứa hẹn, thỏa thuận đó phải được thực hiện trước khi hành vi phạm tội của A
và B diễn ra.
Trường hợp 3: E phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định
tại Điều 250 BLHS trong trường hợp E tuy không có sự hứa hẹn trước với A và B
nhưng vẫn mua lại chiếc xe máy (tiêu thụ tài sản) mà E biết rõ là tài sản đó là do A và
B đi cướp mà có được. Trong trường hợp này, hành vi của E phải thỏa mãn các dấu
hiệu: E biết rõ chiếc xe máy mình mua lại từ A và B là tài sản do cướp giật mà có
được và việc tiêu thụ đó không phải do B thỏa thuận, hứa hẹn từ trước với A và B.
III. Kết Luận
Từ vụ án nêu trên, ta thấy rằng khi xác định tội danh của người phạm tội cần xét
xem các dấu hiệu của hành vi phạm tội thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đó hay
không, cần đặc biệt lưu ý một số tình tiết trong hành vi có thể gây nhầm lẫn với tội
phạm khác nên cần phải xét các hành vi đó trong một tổng thể khách quan. Ngoài ra,
đối với những trường hợp có từ 2 người phạm tội trở lên cần phân tích được những
người đó có đồng phạm với nhau trong việc thực hiện tội phạm hay không. Đặc biệt
6
lưu ý CTTP của tội phạm đang xét để có thể xác định chính xác trách nhiệm hình sự
của người phạm tội.
Vậy A, B, E phải chịu trách nhiệm hình sự về tội gì ta cùng đi sâu tìm hiểu ở
phần II. ( hướng giải quyết của cá nhân khác)
I. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Xác định tội danh của A và B.
Như ta đã biết xét về mặt bản chất, nội dung chính trị, xã hội và nội dung pháp lí, tội
phạm là hiện tượng xã hội có tính giai cấp và tính lịch sử được đặc trưng bởi tính
nguy hiểm và tính trái pháp luật hình sự. Nhưng nếu xét về mặt cấu trúc, tội phạm
được hợp thành bởi 4 yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau không tách rời, đó là:
khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan. Vì vậy 4 yếu tố này cũng là cơ sở

để xác định tội danh, cụ thể trường hợp này tội danh của A và B là tội cướp tài sản,
bởi:
- Khách thể bị xâm phạm tới ở đây vừa là quan hệ sở hữu vừa là quan hệ nhân
thân. Bằng hành vi rút súng A và B đe dọa xâm phạm đến tính mạng, thân thể
của C và D để qua đó có thể xâm phạm được sở hữu. Xét về mặt pháp lý, quan
hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản được tôn trọng và bảo vệ. Xét thấy, không chỉ dừng lại ở việc lấy đi chiếc
xe máy của C và D mà A và B đem đi bán cho thấy quyền chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt chiếc xe máy đều bị 2 “tên” này xâm phạm đến, và gây thiệt hại.
- Chủ thể: Trong toàn bộ tình huống năng lực trách nhiệm hình sự của A (độ
tuổi, nhận thức, ) không hề được đề cập đến nên có thể hiểu A có đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12, 13 của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
- Mặt khách quan:
a. Hành vi khách quan: Theo quy định của điều luật có 3 dạng hành vi khách
quan được coi là hành vi phạm tội của tội cướp. Đó là:
• Hành vi dùng vũ lực;
• Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
• Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự được.
7
Xét thấy, A có những hành vi thuộc dạng thứ hai: đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
đồng thời dùng vũ lực để vô hiệu hóa khả năng chống cự của C và D bằng hành vi rút
súng, kèm theo lời nói “ngồi im không tao bắn chết”, A đã nhanh chóng khống chế
được ý chí của C và D. Do sự việc diễn ra bất ngờ và lo lắng cho tính mạng của mình
nên C và D không kịp nhận ra khẩu súng mà A sử dụng là súng giả, họ không có sự
chống cự gì. Ngay thời điểm đó B lập tức thực hiện hành vi lấy xe máy.
b. Địa điểm thực hiện hành vi của A và B là bờ sông, nơi các thanh niên thường
ra hóng mát. Đây là nơi không có người bảo vệ cũng như ít người sinh sống. Ngoài ra
đây còn là nơi có nhiều mục tiêu dễ dàng để thực hiện chiếm đoạt tài sản vì khả năng

phòng bị thấp. Chính vì vậy, đây có thể xem là một không gian thuận lợi để A và B
thực hiện hành vi phạm tội của mình.
c. Hậu quả của hành vi trên là việc A và B chiếm đoạt được chiếc xe máy vốn
thuộc sở hữu của C hoặc D.
Nếu đặt hai hành vi của A và B riêng rẽ thì sẽ không thể phát sinh hậu quả. Tuy nhiên
hai hành vi này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và khi chúng được thực hiện đồng
thời thì chính là nguyên nhân dẫn đến hậu quả trên.
d. Công cụ: A và B đã đến một cửa hàng đồ chơi trẻ em để mua một khẩu súng
nhựa. Tuy đây là một vật không có khả năng gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng
người khác. Nhưng với khẩu súng này A và B có thể đánh lừa người khác để họ tin
rằng đó là súng thật, và họ có thể dễ dàng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của
mình hơn. Như vậy, đây cũng có thể xem làm công cụ để thực hiện tội phạm.
- Mặt chủ quan:
• Như phân tích ở trên lỗi của A và B là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành
vi phạm tội, “bọn chúng” đều biết mình có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay
tức khắc làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự
được. Hơn nữa, “bọn chúng” còn mong muốn hành vi đó đè bẹp hoặc làm
tê liệt sự chống cự của người bị tấn công, để có thể thực hiện được mục
đích chiếm đoạt tài sản.
• Mục tiêu chiếm đoạt là chiếc xe máy dựng cạnh C và D. Hai đối tượng rất
dễ dàng xác định chủ sở hữu của chiếc xe. Việc cần làm là vô hiệu hóa khả
năng chống cự của C và D để có thể lấy chiếc xe máy
• A và B đã có mục đích chiếm đoạt tài sản từ trước với sự chuẩn bị tính
toán bằng việc tìm mua súng. Súng là một loại vũ khí có thể gây nguy
hiểm cho sức khỏe, tính mạng của con người, thường được dùng để
trang bị cho các lực lượng vũ trang để đảm bảo an ninh quốc gia. Cá
8
nhân sử dụng súng phải được sự cho phép của người có thẩm quyền
cũng như phải có giấy tờ sử dụng. Mọi hành vi mua bán, sử dụng, tàng
trữ súng không qua cấp phép sử dụng đều là hành vi trái pháp luật và

đều có thể bị truy cứu TNHS theo điều 230 BLHS. Trong trường hợp
này A và B đã đi tìm mua súng, hành vi này là trái pháp luật. Tuy nhiên
hai người không mua được súng nên TNHS không được đặt ra đối với
hành vi này.
2. Tội danh của A và B có thay đổi nếu không lấy được tài sản bởi C và D
biết là súng giả và chống cự lại.
Điều 133 BLHS quy định về tội cướp tài sản viết: “Người nào dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm
vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản…”. Trong tình
huống trên thì A đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực đối với C và D, đó là chĩa súng vào
C và D cùng lời đe dọa: “ngồi im không tao bắn chết”. Như vậy A đã thực hiện một
trong các hành vi có trong CTTP cướp tài sản với mục tiêu là chủ sở hữu chiếc xe máy
và mục đích là chiếm đoạt chiếm tài sản là chiếc xe máy đó.
Tuy nhiên vì C và D biết được đó là súng giả và chống cự lại nên hành vi tiếp
theo của A và B là chiếm đoạt chiếc xe máy đã không thực hiện được. Như vậy hậu
quả chiếc xe máy bị chiếm đoạt đã không xảy ra. Việc chống cự này xuất phát từ ý chí
của C và D, đồng thời cũng nằm trong giới hạn phòng vệ chính đáng và cũng chưa
gây hậu quả nghiêm trọng nên C và D không thuộc đối tượng phải truy cứu TNHS.
Hành vi chống trả của C và D là trái ý muốn phạm tội của A và B. Về chủ quan
thì cả A và B đều mong muốn việc cướp tài sản xảy ra thành công với hậu quả là tài
sản được lấy đi. Tuy nhiên có rất nhiều rủi ro khi thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Cụ
thể như hành vi bị người khác phát hiện, do điều kiện thời tiết, do công cụ, phương
tiện sử dụng không đúng hoặc không gây hiệu quả, do tâm lý thực hiện hành vi của
người phạm tội là cẩu thả, hấp tấp, vội vàng… và đặc biệt như trong vụ án là do người
bị hại chống trả quyết liệt.
Tội cướp tài sản quy định tại điều 133 BLHS là tội có CTTP hình thức. Theo
đó thì hậu quả chiếm đoạt tài sản không phải là dấu hiệu bắt buộc để tội phạm hoàn
thành. Như vậy chỉ cần thực hiện các hành vi sau thì đã phạm tội cướp tài sản:
- Dùng vũ lực đối với người chủ của tài sản hoặc người quản lý tài sản nhằm
chiếm đoạt tài sản.

- Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với người chủ tài sản hoặc người quản
lý tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản.
9
- Có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Như vậy có thể thấy ở đây A đã thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực, vì vậy
đã đủ cơ sở để truy cứu A về tội quy định tại điều 133 ở giai đoạn tội phạm hoàn
thành. B là đồng phạm với A, tuy B chưa thực hiện hành vi phạm tội của mình nhưng
mục đích của B và A là giống nhau và phải cần hành vi của A xảy ra thì B mới thực
hiện được hành vi của mình. Như vậy B cũng phải chịu TNHS giống như A.
Hình phạt mà A và B phải nhận trong trường hợp này là bằng với hình phạt
được quy định tại khoản 2 điều 133. Tuy nhiên có thể xem xét với tình tiết “C và D
biết đây là súng giả” để coi đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
3. Xác định tội danh của E.
Theo tình huống, E là người quen của A và B, E cũng là người mua lại chiếc xe
máy là đối tượng của hành vi phạm tội của A và B. Như vậy ở đây E đã tiêu thụ tài
sản người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên để có thể truy cứu TNHS đối với E trong
trường hợp này thì cần phải có các điều kiện sau:
- E có biết về hành vi phạm tội và có biết chiếc xe máy đó có được là do hoạt
động phạm tội của A và B.
- E không hứa hẹn trước là sẽ tiêu thụ tài sản do hành vi cướp của A và B tạo
ra.
Trường hợp thứ nhất. E biết chiếc xe máy là Khi đó E sẽ bị truy cứu TNHS
về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy
định tại điều 250 BLHS. Hành vi khách quan là tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội. Hành vi này được hiểu là biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có
nhưng vẫn nhận hoặc mua để dùng, nhận để bán lại hoặc giới thiệu người khác mua,
chuyển tài sản đó cho người khác theo yêu cầu của người phạm tội. Hành vi này gây
sự khó khăn trong việc điều tra, phát hiện, xử lý người phạm tội. Mức án mà E có thể
nhận là cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Tuy nhiên, nếu E có hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ tài sản có được do hành vi phạm
tội của A và B thì E sẽ trở thành đồng phạm với A và B, như vậy E sẽ bị truy cứu
TNHS về tội mà A và B đã thực hiện. Sở dĩ có điều này bởi vì hành vi hứa hẹn của E
sẽ là động lực, mục tiêu để A và B thực hiện việc phạm tội của mình. Ở đây có thể
xem E đóng vai trò là người xúi dục trong đồng phạm. Mức án mà E phải nhận bằng
với mức án đã tuyên với A và B.
10
Nếu E không biết về hành vi phạm tội của A và B, cũng không biết chiếc xe
máy đó là tài sản của hành vi phạm tội của A và B thì việc tiêu thụ tài sản của E là vô
ý. Như vậy E không bị truy cứu TNHS.
Đề tài: Số 7
Lợi dụng lúc gia đình B ngủ trưa không đóng cửa, A lẻn và nhà B lấy chiếc xe
đạp mini Nhật ( trị giá khoảng hai triệu đồng). A dắt xe ra đến sân thì bị anh B
phát hiện và đuổi theo giằng lại, A dùng chân đạp mạnh vào người anh B làm
anh ngã ra sân. A vội lên xe và đạp ra ngoài đường để tẩu thoát nhưng đã bị mọi
người bắt giữ. Anh B ngã chỉ bị xây xước. Về việc phạm tội của A có quan điểm
cho rằng:
a. A phạm tội trộm cắp tài sản với tình tiết hành hung tẩu thoát ( điểm d
khoản 2 Điều 138 BLHS)
b. A phạm tội cướp tài sản
Theo anh (chị) quan điểm nào đúng và giải thích tại sao?
1. Với tình huống như đã mô tả ở trên theo em A phạm tội cướp tài sản theo
điều 133 BLHS.
2. Giải thích:
Tội cướp tài sản là dùng vũ lực hoặc đe doa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt tài sản.
a. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản (133 BLHS)
* Khách thể của tội này là: xâm phạm đến quyền sở hữu( chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt) Xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ như vậy tội cướp tài sản xâm phạm

11
đồng thời hai quan hệ được luật hình sự bảo vệ đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở
hữu
* Mặt khách quan của tội phạm:
Theo quy định của điều luật có 3 dạng hành vi khách quan được coi là hành vi
phạm tội của tội cướp tài sản. đó là: + Hành vi dùng vũ lực. + Hành vi đe doạ dùng vũ
lực ngay tức khắc. + Hành vi làm cho người khác lâm vào tình trạng không thể chống
cự được.
* Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường chỉ đòi hỏi có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
* Mặt chủ quan của tội pham: + Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý
trực tiếp. + Mục đích của tội cướp tài sản là chiếm đoạt tài sản
b. Đối chiếu và tình huống trên ta thấy mặc dù ý định ban đầu của A là thực
hiện hành vi trộm cắp nhưng từ lúc A dắt xe ra bị B phát hiện và giữ lại, A dùng chân
đạp mạnh và người B, làm B ngã và A đã lên xe và đạp ra ngoài đường để tẩu thoát
hành vi này đã đủ cấu thành tội cướp tài sản và lúc này tội trộm cắp tài sản đã chuyển
hoa thành tội cướp tài sản, đây chính là hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản. Kể
cả trong trường hợp A đã chiếm đoạt được chiếc xe đạp bằng thủ đoạn của tội trôm
cắp nhưng ngay sau đó đã bị phát hiện và A đã tấn công lại B bằng những thủ đoạn
của tội cướp nhằm giữ bằng được chiếc xe đạp đã chiếm đoạt trước đó thì vấn bị xử
tội cướp tài sản. Hành vi tấn công B ( dùng chân đạp mạnh vào người B làm B ngã và
lên xe và đạp ra ngoài đường để tẩu thoát không thể được coi là tình tiết hành hung để
tẩu thoát theo điểm d khoản 2 điều 138 BLHS được vì trường hợp hành hung để tẩu
thoát là người phạm tội đã có hành vi dùng sức mạnh chống trả lại việc bắt giữ để tẩu
thoát. Mục đích của việc chống trả là nhằm để tẩu thoát chứ không phải nhằm mục
đích giữ bằng được tài sản vừa mới chiếm đoạt được. Mà theo mô tả trên thì A tấn
công B không phải nhằm mục đích tẩu thoát mà nhằm mục đích giữ bằng được chiếc
xe đạp vì vậy đây là hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản nên tội trộm cắp đã
chuyển hoá thành tội cướp tài sản.
Trích: Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
12
ngày 25 tháng 12 năm 2001 về việc Hướng dẫn áp đụng một số quy định tại chương
XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999:
6. Khi áp đụng tình tiết "hành hung để tẩu thoát" (điểm đ khoản 2 Điều
136; điểm a khoản 2 Điều 137; điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần chú ý:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường hợp
mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài
sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những
hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém,
bắn, xô ngã nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được
tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội
tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại
hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không
phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội
cướp tài sản.
Như vậy qua sự phân tích và căn cứ vào hướng dẫn trên ta khẳng định rằng A
phạm tội cướp tài sản theo điều 133 BLHS (Do tội Cướp tài sản là tội có cấu thành
hình thức nên tội phạm đã hoàn thành từ khi A dùng chân đạp vào B để lấy cho bằng
được chiếc xe), chứ không phải tội trộm cắp tài sản với tình tiết hành hung để tẩu
thoát ( điểm d khoản 2 điều 138 BLHS)
Theo em, thì thực chất, cái mà chúng ta gọi là chuyển hoá chẳng qua là đã bỏ đi
một tội cho người phạm tội. Khi A lén vào nhà B dắt xe ra, A đã thực hiện hết các
hành vi có thể có trong tội Trộm cắp tài sản, nhưng chưa ra khỏi phạm vi kiểm soát
của B (chưa ra khỏi nhà) thì bị phát hiện nên A phạm tội chưa đat (đã hoàn thành).
Mức độ nguy hiểm của hành vi này được thu hút vào hành vi Cướp tiếp theo nên
chúng ta gọi là chuyển hoá thành tội cướp tài sản./.
13
14

×