Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tình huống phạm tội cướp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.31 KB, 10 trang )

TÌNH HUỐNG
Bài 1: A là lưu manh chuyên nghiệp, vì muốn chiếm đoạt tài sản của nhà
ông B, A giả danh là bộ đội nghỉ phép lỡ tàu xin ngủ nhờ (nhà ông B gần nhà ga
thị trấn, ông B sống một mình). Do hồi trẻ từng đi bộ đội, nên ông B đã tỏ ra thông
cảm và đồng ý cho A ngủ nhờ. Nửa đêm, A lén thức dậy lấy chiếc đài nhỏ để trên
nóc tủ nhà ông B cho vào hành lý của mình. Sau đó, A dùng con giao nhíp để nạy
cửa tủ tìm tiền. Cánh của tủ bất ngờ bật tung phát ra tiếng động làm ông B tỉnh
giấc, ông B phát hiện A đang lục lọi ngăn tủ, ông liền hô: “trộm, trộm, bắt lấy quân
ăn trộm”. A lập tức lao tới giường bịt mồm ông B, ông B cố giẫy giụa, kêu lên:
“Cứu tôi với, bắt lấy quân ăn trộm”. A thấy thế, A liền bóp cổ ông B đến khi ông
nằm im mới thôi. Sau đó, A tiếp tục lục lọi ngăn tủ và lấy được 300.000 đồng. Ông
B đã chết do bị ngạt.
Về vụ án này có các quan điểm sau:
1. A phạm tội cướp tài sản với tình tiết tăng nặng tại khoản 3 Điều 133
BLHS “làm người chết”.
2. A phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp có tình tiết hành hung để
tẩu thoát và tội giết người.
3. A phạm tội giết người và tội cướp tài sản.
Anh (chị) hãy cho biết:
a. Quan điểm nào đúng ? Tại sao ?
b. Xác định rõ tội danh và khung hình phạt mà anh (chị) định áp dụng với A
trong trường hợp này ?
1
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Câu a. Quan điểm nào đúng? Tại sao?
1. Quan điểm 3: “A phạm tội giết người và tội cướp tài sản” là đúng.
Hành vi của A có cấu thành đầy đủ của tội giết người và tội cướp tài sản.
Hai tội phạm mà A phạm phải được quy định tại Khoản 1 Điều 93 và Khoản 2
Điều 133 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Thứ nhất: xét hành vi của A cấu thành nên tội cướp tài sản. Hành vi cấu
thành tội cướp tài sản của A diễn ra qua hai giai đoạn:


Giai đoạn I: Xét hành vi của A từ đầu đến chi tiết: “Cánh của tủ bất ngờ bật
tung phát ra tiếng động làm ông B tỉnh giấc, ông B phát hiện A đang lục lọi ngăn
tủ, ông liền hô: “trộm, trộm, bắt lấy quân ăn trộm”.
* Xét về khách thể: Hành vi của A xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của
ông B. Điều đó được thể hiện qua A muốn: “chiếm đoạt tài sản của nhà ông B”; và
trong thực tế là A tìm mọi cách để chiếm đoạt được.
* Xét về mặt khách quan: Để xâm hại đến khách thể đã nêu trên, A có thể đã
lựa chọn những hành vi như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ... để tác động lên
quan hệ nhân thân của ông A, cụ thể là làm cho ông A không thể chống cự được từ
đó A chiếm đoạt dễ dàng tài sản. Nhưng A là một tên: “lưu manh chuyên nghiệp”,
A biết như thế sẽ rất manh động và dễ dàng bị người khác phát hiện, như vậy
không những sẽ không chiếm đoạt tài sản của ông B mà còn nhanh chóng bị bắt.
Lợi dụng ông B đã già cả và ông B sống một mình, A đã lựa chọn cách là: “giả
danh là bộ đội nghỉ phép lỡ tàu xin ngủ nhờ”, vì nhà ông B ở gần nhà ga thị trấn.
Qua đó, A có thể tiếp cận ông B mà không bị nghi ngờ gì, rồi sau đó có điều kiện
thuận lợi sẽ thực hiện hành vi của mình với mục đích chiếm đoạt tài sản của ông B.
Kế hoạch trên của A càng gặp thuận lợi khi: “Do hồi trẻ từng đi bộ đội, nên ông B
đã tỏ ra thông cảm và đồng ý cho A ngủ nhờ”. Đến đây, A đã hoàn thành được một
phần quan trọng trong kế hoạch của mình, việc chiếm đoạt tài sản của A đã trở nên
thuận lợi. Sau khi đã tiếp cận được dễ dàng, A tiếp tục lợi dụng thời gian là lúc nửa
2
đêm – khi ông B đã đi ngủ, A đã thức dậy để thực hiện hành vi để chiếm đoạt tài
sản của ông B.
Như vậy, A đã có ý thức là sẽ che giấu hành vi của mình đối với ông B ngay
từ khi lập kế hoạch, điều đó giải thích vì sao A thực hiện nó trong thực tế. Hành vi
lén lút của A không những đã loại bỏ được sự cảnh giác của ông A mà còn loại bỏ
được các nguy cơ khác đem tới. Hành vi của A đã đạt được hiệu quả nhất định khi
A “lấy chiếc đài nhỏ để trên nóc tủ nhà ông B cho vào hành lý của mình”, mà
không bị ông B phát hiện.
* Xét về mặt chủ quan: Như đã phân tích trong phần mặt khách quan, hành

vi của A đã được thực hiện theo từng bước theo một kế hoạch cụ thể. Để lập được
kế hoạch này thì buộc A phải có những sự tính toán, cân nhắc từ trước. Như vậy,
lỗi của A ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Mọi hành vi của A như đã phân tích ở trên chỉ
nhằm một mục đích – chiếm đoạt được tài sản của gia đình ông B.
Tính cho đến đây thì hành vi của A đã có đầy đủ dấu hiệu cấu thành nên tội
trộm cắp tài sản (Điều 138 - BLHS) HÌNH NHƯ CHƯA CHUẨN VỀ MẶT TỪ
NGỮ.(SỬA THÀNH: HÀNH VI CỦA A LÀ HÀNH VI TRỘM CẮP- T NHỚ
QUA LÀ CÔ NÓI THẾ).
Giai đoạn II: Xét hành vi của A trong các tình tiết còn lại.
* Xét về khách thể: Hành vi của A ở giai đoạn này đã xâm phạm cùng lúc
tới 02 quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ: quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản. Quan hệ nhân thân: “Ông B đã chết do bị ngạt”. Quan hệ tài sản: “A lấy được
300.000 đồng”.
* Xét về mặt khách quan: Tài sản “chiếc đài nhỏ” có giá trị không lớn nên
A đã tiếp tục thực hiện hành vi lén lút của mình để tiếp tục chiếm đoạt được tài sản
của ông B – với hi vọng sẽ chiếm đoạt được tài sản có giá trị lớn hơn. “A dùng con
giao nhíp để nạy cửa tủ tìm tiền” – thông thường mọi người hay cất tiền vào tủ nên
A phán đoán ông B cũng cất tiền vào tủ, từ đó thực hiện hành động nạy cửa tủ để
tìm kiếm. Khi đang thực hiện hành vi của mình thì đã xảy ra một sự kiện bất ngờ -
nằm ngoài ý muốn chủ quan của A, “cánh của tủ bất ngờ bật tung phát ra tiếng
3
động”. Từ sự kiện trên đã dẫn đến việc ông B tỉnh giấc và phát hiện ra hành vi trái
pháp luật của A – xâm phạm đến tài sản của ông. Để bảo vệ tài sản của mình ông
B đã hô: “trộm, trộm, bắt lấy quân ăn trộm” – qua đó khẳng định và thực hiện
quyền của mình đối với tài sản. Hành động trên của ông B ngay lập tức có tác dụng
khi đã ngăn chặn được tức khắc hành vi “lục lọi ngăn tủ” của A từ đó có khả năng
bảo vệ được tài sản nếu tiếng hô của ông được mọi người nghe thấy và tới trợ giúp.
A cũng đã nhận biết được khả năng đó nên nhanh chóng dùng hành động của mình
để khống chế ông B:“A lập tức lao tới giường bịt mồm ông B” – ngăn không cho
ông B tiếp tục hô. Sự ngăn chặn trên của A là không đủ mạnh, ông B “cố giẫy

giụa, kêu lên: “Cứu tôi với, bắt lấy quân ăn trộm””. Như vậy, khả năng A bị
những người khác phát hiện vẫn còn. A lập tức “bóp cổ ông B đến khi ông B nằm
im”, A đã có hành vi dùng vũ lực, trực tiếp và nhanh chóng, để loại bỏ sự chống cự
của ông A. Việc ông B bị bóp cổ cho tới khi nằm im cho thấy ông B đã không còn
khả năng thực tế bảo vệ được tài sản của mình nữa. Sau khi làm cho ông B không
thể chống cự được nữa thì A tiếp tục quay lại thực hiện tiếp hành vi của mình
nhằm chiếm đoạt tài sản: “A tiếp tục lục lọi ngăn tủ và lấy được 300.000 đồng”.
Tính từ thời điểm “ông B phát hiện A đang lục lọi ngăn tủ”, việc “A lập tức
lao tới giường bịt mồm ông B” đã làm thay đổi hoàn toàn tính chất nguy hiểm
trong hành vi của A. Chủ tài sản (ông B) đã thể hiện được quyền chiếm hữu của
mình đối với tài sản mà A định chiếm đoạt. Tính đến đây A hoàn toàn đã không
che giấu được hành vi phạm pháp của mình, nên hành vi của A đã không còn có
tính chất lén lút nữa. Thay cho sự lén lút, A đã ngay lập tức dùng vũ lực. Ý nghĩa
trong việc dùng vũ lực của A là A ngăn cản sự chống cự của ông B – ông B bảo vệ
tài sản của mình và làm mất đi khả năng bị người khác phát hiện – từ đó tiếp tục
che giấu hành vi của mình với người khác. Việc dùng vũ lực này của A là bước
ngoặt quan trọng để chuyển hóa tính ít nguy hiểm trong hành vi của A sang sự
nguy hiểm đáng kể với xã hội. Hành vi trộm cắp tài sản của A đã chuyển hóa
thành hành vi cướp tài sản. Như vậy, với hành động: dùng vũ lực làm cho người
khác lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích chiếm đoạt tài
4
sản thì tội cướp tài sản của A đã hoàn thành. (CÁI NÀY CŨNG KO CHUẨN
VỀ TỪ NGỮ, CHẢ NHỚ SAI Ở ĐÂU)
* Xét về mặt chủ quan: lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích vẫn như ban
đầu là chiếm đoạt được tài sản của gia đình ông B.
Qua các phân tích ở trên, ta thấy hành vi của A mang đầy đủ cấu thành của
tội cướp tài sản (Điều 133 - BLHS) (NÓI A PHẠM TỘI TRỘM CẮP LÀ ĐƯỢC
RỒI)
Thứ hai: Xét hành vi của A cấu thành nên tội giết người.
* Khách thể: mà hành vi của A xâm hại là quan hệ nhân thân – tính mạng,

sức khỏe ... của ông B.
* Xét về mặt khách quan: Để xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng ... của ông
B thì nhất thiết A phải thực hiện hành động mang tính chất vũ lực như: dùng dao
đâm, chém, dùng súng bắn ... Trong trường hợp này A đã lựa chọn hành động bóp
cổ ông B. Việc A bóp cổ ông B sẽ làm chẹn khí quản, qua đó cơ thể ông B sẽ mất
đi sự cung cấp ôxi thông qua việc không khí không thể đi vào phổi. Nếu thời gian
bóp cổ càng lâu thì khả năng ông B bị tử vong càng lớn và ngược lại. Nhưng hậu
quả ngay tức khắc của việc bóp cổ trong thời gian tương đối dài là làm nạn nhân
mất đi sự tỉnh táo, cơ thể sẽ không còn khả năng kháng cự một cách mạnh mẽ ...
nhất là đối với một người già yếu như ông B. Trong tình huống này thì dưới tác
động của việc bóp cổ, ông B đã nằm im, sau đó ông B đã chết do ngạt thở. Như
vậy, hành vi của A là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả đó là ông B mất đi
khả năng chống cự tức thời và sau là ông B đã chết.
* Về mặt chủ quan: Ban đầu khi ông B hô lên “trộm, trộm, bắt lấy quân ăn
trộm”, A đã lao ngay tới dùng tay bịt mồm ông B. Hành vi này của A xuất phát từ
sự sợ tiếng hô của ông B làm người khác phát hiện ra từ đó A có thể bị bắt. Nhưng
do có tác động không mạnh qua đó ông B giẫy dụa được và kêu lên: “Cứu tôi với,
bắt lấy quân ăn trộm”. Như vậy, đối với A nguy hiểm vẫn còn, A phải bằng mọi
cách để làm giảm bớt đi sự nguy hiểm cho mình. A đã lựa chọn cách là nhanh
5

×