Đề bài 3:
Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện ra chị B cùng với hai người
bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng
vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng khi cơn say đã hết
chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý
kiến sau đây về tội danh của H và Q:
a. H và Q phạm tội cướp tài sản;
b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;
c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích rõ tại sao?
d.Giả thiết rằng ngoài việc chiếm đoạt tài sản H và Q còn có hành vi giao cấu
với chị B thì bị chị này phát hiện và kêu cứu, sợ bị lộ H và Q đã bóp cổ làm chị B chết
thì H và Q có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Nếu có thì tội danh cho
hành vi của H và Q là gì? Căn cứ pháp lý?
Giải quyết vấn đề
1 – Xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích rõ tại sao?
Sở dĩ vụ án này có 3 quan điểm khác nhau vì 3 tội của 3 quan điểm này có những đặc
điểm chung như: Đây là các tội có tính chất chiếm đoạt, được thực hiện do cố ý và gây ra
thiệt hại về tài sản…Tuy nhiên do không hiểu rõ được vụ án và các đặc trưng của từng tội
cụ thể nên cũng dễ sai lầm khi định tội. Theo quan điểm của cá nhân thì các quan điểm:
H, Q phạm tội cướp tài sản; H, Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là không chính
xác.
a. H và Q phạm tội cướp tài sản.
Điều 133 - BLHS 1999 chỉ rõ tội cướp tài sản là hành vi “dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đọat tài sản”.
1
Ngay trong điều luật đã quy định rõ hành vi khách quan của tội này bao gồm 3
hành vi, đó là:
- Hành vi dựng vũ lực: dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ,
phương tiện phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự
của người này chống lại việc chiếm đoạt.
- Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc: là trường hợp người phạm tội bằng lời
nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) doạ sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc
chiếm đoạt. Đặc biệt phải chứng minh được sự đe dọa này khiến cho nạn nhân tin rằng
nếu không tin vào sự đe dọa của người phạm tội thì sự đe dọa đó sẽ trở thành hiện thực.
- Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được:
tuy không phải là hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng có
khả năng đè bẹp hoặc làm tê liệt sự kháng cự làm cho người bị tấn công không thể ngăn
cản được việc chiếm đoạt.
Chỉ cần người phạm tội có 1 trong 3 hành vi kể trên thì tội cướp tài sản đã hoàn
thành chứ không cần quan tâm tới người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.
Xét thấy hành vi của H, Q không phải là hành vi dùng vũ lực và hành vi đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc. Mặt khác, xét loại hành vi “dùng thủ đoạn khác”, tình trạng
“chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường” - lâm vào tình
trạng không thể chống cự được, đã xảy ra trước khi H và Q đến, có nghĩa là H và Q không
“dùng thủ đoạn khác” mà chỉ lợi dụng hoàn cảnh đó để chiếm đoạt mà thôi. Nh vậy, H, Q
không phạm tội cướp tài sản.
b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Theo Điều 137 - BLHS 1999: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi
dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ. Do
đặc điểm riêng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có hành vi
chiếm đoạt duy nhất là hành vi chiếm đoạt, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai,
với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách
quan khác nh thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh Tính chất công khai của hành vi thể hiện ở
chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, và gần như đồng thời
lúc người phạm tội chiếm hữu đoạt được tài sản, chủ tài sản cũng biết được rằng tài sản
của mình đã bị mất.
2
Trong vụ án, vì “đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường” nên chị B không hề hay
biết hành vi của H và Q và tức nhiên không có điều kiện ngăn cản. Do đó hành vi của H
và Q là hành vi mang tính chất lén lút chứ không thỏa mãn dấu hiệu công khai trước chủ
tài sản, vì vậy hành vi của H, Q không cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Điều 133-BLHS 1999 quy định: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản đang có chủ và thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 500.000 đồng trở lên
- Nếu dưới 500.000 đồng mà:
+ Gây hậu quả nghiêm trọng
+ Hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm
+ Hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm.
Tài sản H, Q đã chiếm đoạt là 10 triệu đồng thõa mãn giá trị của khoản 1 điều 138
BLHS .
Dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản gồm: dấu hiệu hành vi chiếm đoạt, dấu
hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ.
Theo đề bài, chị B mang nữ trang bên mình như vậy tức nhiên tài sản này dang thuộc về
quyền sở hữu của chị B.(cái này mặc nhiên thừa nhận)
Dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP tội trộm cắp tài sản được hiểu là chiếm đoạt
được, tội này chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản.
- Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được
tài sản trong người.
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được
tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
3
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng
thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.
Tài sản mà H và Q đã chiếm đoạt thuộc loại vật nhỏ gọn và “chị B tỉnh giấc mới biết
mình bị mất tài sản và đi báo công an”, có nghĩa là H và Q đã chiếm đoạt được tài sản.
Dấu hiệu lén lút ở đây, nghĩa là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ
sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất họ mới
biết bị mất tài sản. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình
thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt
khi hành vi này xảy ra. Hình thức đó có thể là lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người
quản lý tài sản không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác
nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không
biết.
Nếu chị B biết mà không thể làm được gì thì mới là công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Đằng này, khi H và Q phát hiện ra chị B “đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường”,
chúng mới lấy đi tài sản trên người chị. Lúc này chị B đã không còn khả năng nhận thức
và điều khiển được hành vi, rõ ràng chị B không thể biết hành vi của H và Q. Như vậy H
và Q đã lợi dụng sự sơ hở của chị B để chiếm đoạt tài sản, do đó hành vi của H và Q đã
thỏa mãn dấu hiệu lén lút trong CTTP của tội trộm cắp tài sản.
Như vậy, định tội cho H và Q tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS
1999 là hoàn toàn có cơ sở.
2 – d. Giả thiết rằng ngoài việc chiếm đoạt tài sản H và Q còn có hành vi giao cấu
với chị B thì bị chị này phát hiện và kêu cứu, sợ bị lộ H và Q đã bóp cổ làm chị B
chết thì H và Q có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Nếu có thì tội danh
cho hành vi của H và Q là gì? Căn cứ pháp lý?
Theo giả thiết, ngoài tội trộm cắp tài sản, H và Q phải chịu TNHS về hai tội danh
nữa là tội hiếp dâm và tội giết người.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 111 BLHS 1999 thì hành vi của H, Q cấu thành
tội hiếp dâm. Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
4
trạng không thể tự vệ của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn
của họ.
Theo quy định Điều 111 BLHS 1999, tội hiếp dâm có những căn cứ pháp lý sau:
- Khách thể của tội phạm: là quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự. Cụ thể là
quyền được tự do về tình dục của người phụ nữ. -
Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với người phụ nữ, trái ý
muốn của họ, bằng thủ đoạn dùng vũ lực (dùng sức mạnh đè bẹp sự phản kháng của nạn
nhân như xô ngã, vật, giữ ), đe dọa dùng vũ lực (uy hiếp về mặt tinh thần: dọa giết, dọa
gây thương tích), lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân( lợi dụng khi nạn
nhân ốm, bị bại liệt ) hoặc dùng thủ đoạn khác (có thể là lợi dụng người phụ nữ đang
trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí: nạn nhân bị tâm thần, bị say rượu, hoặc
có thể tình trạng trên do người phạm tội tự mình tạo ra: cho nạn nhân uống rượu )
Tội hiếp dâm không đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân.
Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giao cấu nhưng chưa giao
cấu được với nạn nhân vì lý do khách quan thì người này vẫn phạm tội hiếp dâm nhưng ở
giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi giao cấu của người phạm tội phải trái ý muốn của
nạn nhân, nghĩa là người phụ nữ không chấp nhận sự giao cấu. Trường hợp hành vi giao
cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ vì họ đang trong tình trạng không biểu lộ ý
chí được coi cũng là “hành vi giao cấu trái ý muốn”
+ Hậu quả: tội hiếp dâm có cấu thành hình thức nên hậu quả cũng như mối quan hệ
nhân quả không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành này. Nó chỉ có ý nghĩa trong việc
đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và từ đó có ý nghĩa trong
việc quyết định hình phạt. Công cụ, phương tiện, địa điểm phạm tội giúp việc quyết
định hình phạt được chính xác hơn.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm
tội biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫn mong
muốn thực hiện hành vi đó bằng mọi thủ đoạn (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân ). Động cơ và mục đích không phải là dấu
hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
- Chủ thể của tội phạm: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 14 tuổi trở lên (nếu
5
phạm tội ở khoản 2, khoản 3, khoản 4 điều 111) hoặc 16 tuổi trở lên (nếu phạm tội ở
khoản 1) có thể trở thành chủ thể của tội này. Tuy nhiên chủ thể của tội hiếp dâm là chủ
thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới có thể
tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, người giúp sức hoặc
người thực hành.
Như vậy cả H và Q đều phạm tội hiếp dâm. Họ đều thực hiện hành vi giao cấu với
chị B ngoài ý muốn của chị bằng thủ đoạn là lợi dụng lúc chị B say rượu không biết gì,
không biểu lộ được ý chí đúng đắn của mình để thực hiện hành vi giao cấu. Chúng ta có
thể làm rõ hành vi giao cấu của H, Q đối với chị là trái ý muốn bằng các tình tiết đó là:
thủ đoạn lợi dụng chị B say rượu nằm mê mệt trên đường để giao cấu, cả H, Q đều không
có mối quan hệ đặc biệt với chị B như là chồng, bạn trai và tình tiết chị B phát hiện và
kêu cứu. Cả hai đều là nam giới có năng lực TNHS, đều mong muốn thực hiện hành vi
giao cấu. Bởi vậy việc định cho H, Q tội hiếp dâm là có cơ sở. Ngoài ra H và Q còn là
đồng phạm vì về khách quan: cả H, Q đều thực hiện hành vi giao cấu với B, đều đóng vai
trò là người thực hành trong vụ đồng phạm. Về mặt chủ quan: cả H, Q đều biết hành vi
của mình và hành vi của người khác là nguy hiểm nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành
vi phạm tội thể hiện ở việc “phát hiện chị B đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường”
nên H và Q “ có hành vi giao cấu với chị B ”. Như vậy H, Q là đồng phạm không có
thông mưu trước.
Mặt khác, H, Q sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 111
BLHS với tình tiết định khung “nhiều người hiếp một người”. Nhiều người hiếp một
người là trường hợp tất cả những người tham gia đều có hành vi giao cấu với nạn nhân.
Cần làm rõ thêm việc không áp dụng tình tiết “hiếp dâm có tổ chức” theo điểm a khoản 2
Điều 111 BLHS đối với H và Q. Họ chỉ phạm tội thuộc trường hợp có tổ chức khi có sự
câu kết chặt chẽ khi cùng thực hiện tội phạm. Đằng này, H và Q không có sự bàn bạc chặt
chẽ từ trước vì mục đích của chúng là trộm cắp tài sản của chị B .
Do vậy, với hành vi giao cấu với chị B, H và Q đã phạm tội hiếp dâm vơi tình tiết
định khung tăng nặng “nhiều người hiếp một người” theo điểm c khoản 2 Điều 111
BLHS .
Thứ hai, hành vi của H, Q còn phạm thêm tội giết người theo Điều 93 BLHS. Theo
quy định Điều 93 BLHS 1999, tội giết người có những căn cứ pháp lý sau:
- Khách thể: quyền sống của con người - chị B
6
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan:
Chị B đang còn sống và hành vi của H, Q là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính
mạng của chị B (bóp cổ đến chết).
+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Hành vi của H, Q là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho chị B. Do đó tội giết
người của H, Q đã hoàn thành.
- Mặt chủ quan:
Lỗi của H, Q là lỗi cố ý trực tiếp. Cả hai nhận thức được hành vi bóp cổ của mình
chắc chắn gây ra cái chết cho chị B nhưng cả hai đều mong muốn cho chị B chết nhằm
mục đích che dấu tội phạm mà cả hai đã thực hiện trước đó.
- Chủ thể: H, Q đã thõa mãn là nam giới, có năng lực TNHS và đạt đủ độ tuổi.
(Tức nhiên là mặc nhiên thừa nhận).
Bên cạnh đó, hành vi của H, Q đã thõa mãn tình tiết định khung tăng nặng “giết
người để che giấu tội phạm khác” theo điểm g khoản 1 Điều 93 BLHS.
Giết người để che dấu tội phạm khác là trường hợp trước khi giết người, người có
hành vi giết người đã thực hiện một tội phạm và để che giấu tội phạm đó người đó nên
người phạm tội đã giết người, đó thường là do nguyên nhân sau khi phạm một tội có nguy
cơ bị lộ, người phạm tội cho rằng chỉ giết người thì tội phạm mà họ đã thực hiện mới
không bị phát hiện. Giữa hành vi giết người của người pham tội với tội phạm mà họ đã
thực hiện có mối liên hệ với nhau, người bị giết có thể là nhân chứng, có thể là người bị
hại từ một tội phạm trước và cũng có thể là người cùng thực hiện tội phạm; đó cũng chính
là động lực thúc đẩy hành vi giết người của họ, nhằm che dấu tội phạm mà họ đã thực
hiện.
Trong vụ án, H và Q đã có hành vi giao cấu với chị B, hành vi đó đã cấu thành một
tội độc lập đó là tội hiếp dâm và bị chị phát hiện, kêu cứu. Sau đó, vì “sợ bị lộ H và Q đã
bóp cổ làm chị B chết”. Như vậy, hành vi giết người của H và Q có mối liên hệ chặt chẽ
với tội hiếp dâm mà cả hai tên đã thực hiện trước đó.
Mối liên hệ giữa hành vi giết người và tội hiếp dâm đã thực hiện giúp chúng ta áp
dụng đúng đắn ba tình tiết định khung tăng nặng là “giết người để che giấu tội phạm
khác” theo điểm g khoản 1 Điều 93 BLHS; “giết người mà liền trước đó phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” theo điểm e khoản 1 điều 93 BLHS và “hiếp
7
dâm làm nạn nhân chết” theo điểm c khoản 3 Điều 111. Giết người mà liền trước đó
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng chỉ được thõa mãn khi tội
phạm đó không liên quan đến tội giết người, (Đối với tội trộm cắp thực hiện từ trước, tuy
hành vi giết người không có mối quan hệ gì nhưng tội trộm cắp mà H, Q đã thực hiện lại
chỉ là tội ít nghiêm trọng - khoản 1 - không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng); còn hiếp dâm làm nạn nhân chết là trường hợp mà hành vi giao cấu của
người phạm tội là nguyên nhân gây ra cái chết cho nạn nhân ( có thể do sức yếu, không
chịu nổi sự hãm hiếp của nhiều người ). Như vậy, việc áp dụng, việc áp dụng tình tiết ở
điểm e khoản 1 điều 93 và điểm c khoản 3 điều 113 BLHS là không thể được.
Tóm lại, với những lập luận và căn cứ pháp lý rõ ràng ở trên, ta hoàn toàn có thể
buộc H, Q phải chịu TNHS vè 3 tội như sau:
- Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 diều 138 BLHS.
- Tội hiếp dâm theo điểm c khoản 2 điều 111 BLHS.
- Tội giết người theo điểm g khoản 1 điều 93 BLHS.
với mức án cao nhất có thể là tử hình.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ luật hình sự 1999;
2. Thông tư liên tịch số 02/2001/ TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BTP
ngày 25/12/ 2001 về các tội xâm phạm sở hữu;
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, (tập 1, 2),
NXB. CAND, Hà Nội 2008;
4. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình luật hình sự Việt Nam, NXB. CAND, Hà Nội,
2006;
5. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, tập1, 2, NXB.
Tp. Hồ Chí Minh.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ( hướng giải quyết khác)
8
1 – Xác định ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai và giải thích rõ tại sao?
Sở dĩ vụ án này có 3 quan điểm khác nhau vì 3 tội của 3 quan điểm này có những
đặc điểm chung như: Đây là các tội có tính chất chiếm đoạt, được thực hiện do cố ý
và gây ra thiệt hại về tài sản…Tuy nhiên do không hiểu rõ được vụ án và các đặc
trưng của từng tội cụ thể nên cũng dễ sai lầm khi định tội. Theo quan điểm của cá
nhân em thì các quan điểm: H, Q phạm tội cướp tài sản; H, Q phạm tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản là không chính xác, mà với tình huống được mô tả ở trong bài tập
trên phải định tội mà H và Q đã thực hiện là trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138
BLHS vì:
a. H và Q phạm tội cướp tài sản. ( quan điểm này sai) vi:
Theo quy định tại điều 133-BLHS 1999 thì tội cướp tài sản là hành vi “dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đọat tài sản”.
Ngay trong điều luật đã quy định rõ hành vi khách quan của tội này bao gồm 3 hành vi,
đó là:
- Hành vi dựng vũ lực: dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện
phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người
này chống lại việc chiếm đoạt.
- Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc: là trường hợp người phạm tội bằng lời nói
hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) doạ sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc
chiếm đoạt. Dấu hiệu “ngay tức khắc”vừa dùng để chỉ sự nhanh chóng về mắt thời gian
( sẽ xẩy ran gay lập tức) vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa. Sự đe dọa này
khiến cho nạn nhân thấy rằng vũ lực sẽ xẩy ra ngay, họ không có hoặc khó có điều kiện
tránh khỏi, sự đe dọa này làm cho ý chí của người bị đe dọa bị tê liệt.
- Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
( ví du như hành vi đầu độc, hành vi dung thuốc gây mê…). Tuy không phải là hành vi
dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng có khả năng đè bẹp hoặc làm tê
liệt sự kháng cự làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt.
Chỉ cần người phạm tội có 1 trong 3 hành vi kể trên thì tội cướp tài sản đã hoàn thành chứ
không cần quan tâm tới người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không.
9
Căn cư vào dâu hiệu về mặt khách quan như đã trình bày ở trên đối chiếu vào tình huống
này ta thấy hành vi của H, Q không phải là hành vi dùng vũ lực, cũng không phải là hành
vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và càng không phải là hành vi làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Việc chị B lâm vào tình trạng không
thể chống cự được hoàn toàn không phải là do hành vi của H và Q gây ra ( có nghĩa là kết
quả của việc chị B mất khả năng nhận thực và không biểu lộ được ý chí không có mối
quan hệ nhân quả với hành vi của H, Q). Tình trạng “chị B cùng với hai người bạn đang
say rượu nằm mê mệt bên lề đường” - lâm vào tình trạng không thể chống cự được, đã
xảy ra trước khi H và Q đến, có nghĩa là H và Q không “dùng thủ đoạn khác” mà chỉ lợi
dụng hoàn cảnh đó để chiếm đoạt mà thôi.
Như vậy, trong trường hợp này chúng ta hoàn toàn có thể khẳng đinh H, Q không phạm
tội cướp tài sản vì về măt khách quan không có dâu hiệu của những hành vi trong tội cướp
tài sản. Có nghĩa là không thỏa mạn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cướp tài sản.
b. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. (quan điểm này cũng không chính
xác) vì:
Tại Điều 137 - BLHS 1999, tuy tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không được mô
tả, nhưng qua thực tiển xét xử chúng ta có thể hiểu: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là
hành vi lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản
của họ. Do đặc điểm riêng của tội công nhien chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ
có hành vi khách quan duy nhất là hành vi chiếm đoạt, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức
công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn
cảnh khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh Tính chất công khai, trắng
trợn tuy không phải là hành vi khách quan nhưng lại là một đặc điểm cơ bản đối với tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với
chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên với mọi người xung
quanh.Tính chất công khai của hành vi thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm
hành vi phạm tội của mình, và gần như đồng thời lúc người phạm tội chiếm đoạt được tài
sản, chủ tài sản cũng biết được rằng tài sản của mình đã bị mất. Có nghĩa là để cấu thành
tội công nhiên chiếm đoạt tài sàn thì hành vi chiếm đoạt của người phạm tội phải có tính
chất công khai tức là hành vi đó phải xẩy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có
10
điều kiện ngăn cản – biết có hành vi chiếm đoạt mà không làm gì được vì đã rơi vào hoàn
cảnh không có điều kiện ngăn cản.
Quay trở lại với tình huống trong vụ án, vì “đang say rượu nằm mê mệt bên lề
đường” nên chị B không hề hay biết hành vi của H và Q và tất nhiên không có điều kiện
ngăn cản (vì đã rơi vào hoàn cảnh không có điều kiện ngăn cản). Do đó hành vi của H và
Q là hành vi mang tính chất lén lút chứ không thỏa mãn dấu hiệu công khai trước chủ tài
sản, vì vậy hành vi của H, Q không cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
c. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản. (quan điểm này là hoàn toàn chính xác)
Điều 133-BLHS 1999 quy định: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản
đang có chủ và thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 500.000 đồng trở lên
- Nếu dưới 500.000 đồng mà:
+ Gây hậu quả nghiêm trọng
+ Hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm
+ Hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Tài sản H, Q đã chiếm đoạt là 10 triệu đồng thõa mãn giá trị của khoản 1 điều 138
BLHS .
Dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản gồm: dấu hiệu hành vi chiếm đoạt, dấu hiệu lén
lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ.
Theo đề bài, chị B mang nữ trang bên mình như vậy tất nhiên tài sản này đang thuộc về
quyền sở hữu của chị B.
Dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP tội trộm cắp tài sản được hiểu là chiếm đoạt
được, tội này chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản.
- Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu
được tài sản trong người.
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được
tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng
thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.
Tản sản mà H và Q đã chiếm đoạt thuộc loại vật nhỏ gọn và “chị B tỉnh giấc mới biết
mình bị mất tài sản và đi báo công an”, có nghĩa là H và Q đã chiếm đoạt được tài sản.
11
Dấu hiệu lén lút ở đây, nghĩa là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi mất họ mới biết bị
mất tài sản. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà
hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành
vi này xảy ra. Hình thức đó có thể là lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài
sản không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác nhằm tiếp
cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết.
Tuy nhiên lén lút không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản mà trong
nhiều trường hợp người phạm tội cũng lén lút để thực hiện mục đích khác như lẻn vào
nhà người khác để đặt mìn nhằm giết hại những người trong gia đình của họ, lẻn vào
phòng ngủ của phụ nữ để thực hiện việc hiếp dâm…vì vậy khi nói đến trộm cắp tài sản thì
không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không chiếm đoạt
tài sản thì không phải là trộm cắp tài sản.
Nếu chị B biết mà không thể làm được gì thì mới là công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Đằng này, khi H và Q phát hiện ra chị B “đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường”,
chúng mới lấy đi tài sản trên người chị. Lúc này chị B đã không còn khả năng nhận thức
và điều khiển được hành vi, rõ ràng chị B không thể biết hành vi của H và Q. Như vậy H
và Q đã lợi dụng sự sơ hở của chị B để chiếm đoạt tài sản, do đó hành vi của H và Q đã
thỏa mãn dấu hiệu lén lút trong CTTP của tội trộm cắp tài sản.
Như vậy, định tội cho H và Q tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS
1999 là hoàn toàn chính xác và có cơ sở.
2 – d. Giả thiết rằng ngoài việc chiếm đoạt tài sản H và Q còn có hành vi giao
cấu với chị B thì bị chị này phát hiện và kêu cứu, sợ bị lộ H và Q đã bóp cổ làm chị B
chết thì H và Q có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Nếu có thì tội danh
cho hành vi của H và Q là gì? Căn cứ pháp lý?
Với giả thiết như đã nêu trên thì H và Q phải chịu TNHS về hành vi cuả mình với
hai tội danh nữa là tội hiếp dâm (theo điêu 111) và tội giết người theo điều 93 BLHS
năm 1999.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 111 BLHS 1999 thì hành vi của H, Q cấu thành tội hiếp
dâm: “ Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
12
không thể tự vệ đươc của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn
của họ.”
* Theo quy định Điều 111 BLHS 1999, tội hiếp dâm có những căn cứ pháp lý sau:
- Khách thể của tội phạm: là xâm phạm quan hệ nhân than - quyền được tôn trọng về
nhân phẩm, danh dự. Cụ thể là quyền được tự do về quan hệ tình dục của người phụ nữ.
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với người phụ nữ, trái ý
muốn của họ, bằng thủ đoạn dùng vũ lực (dùng sức mạnh đè bẹp sự phản kháng của nạn
nhân như xô ngã, vật, giữ… ), đe dọa dùng vũ lực (uy hiếp về mặt tinh thần: dọa giết, dọa
gây thương tích…), lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân( lợi dụng khi
nạn nhân ốm, bị bại liệt ) hoặc dùng thủ đoạn khác (có thể là lợi dụng người phụ nữ đang
trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí: nạn nhân bị tâm thần, bị say rượu, hoặc
có thể tình trạng trên do người phạm tội tự mình tạo ra: cho nạn nhân uống rượu… )
Cấu thành tội hiếp dâm không đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với
nạn nhân. Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để giao cấu nhưng
chưa giao cấu được với nạn nhân vì lý do khách quan thì người này vẫn phạm tội hiếp
dâm nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi giao cấu của người phạm tội phải trái
ý muốn của nạn nhân, nghĩa là người phụ nữ không chấp nhận sự giao cấu. Trường hợp
hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ vì họ đang trong tình trạng
không biểu lộ ý chí được coi cũng là “hành vi giao cấu trái ý muốn”
+ Hậu quả: tội hiếp dâm có cấu thành hình thức nên hậu quả cũng như mối quan hệ
nhân quả không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành này. Nó chỉ có ý nghĩa trong việc
đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và từ đó có ý nghĩa trong
việc quyết định hình phạt. Công cụ, phương tiện, địa điểm phạm tội giúp việc quyết
định hình phạt được chính xác hơn.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội
biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫn mong muốn
thực hiện hành vi đó bằng mọi thủ đoạn (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân ). Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
- Chủ thể của tội phạm: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 14 tuổi trở lên (nếu
phạm tội ở khoản 2, khoản 3, khoản 4 điều 111) hoặc 16 tuổi trở lên (nếu phạm tội ở
13
khoản 1) có thể trở thành chủ thể của tội này. Tuy nhiên chủ thể của tội hiếp dâm là chủ
thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới có thể
tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, người giúp sức hoặc
người thực hành.
Đối chiếu với tình huống trên ta thấy cả H và Q đều phạm tội hiếp dâm. Họ đều thực hiện
hành vi giao cấu trái với ý muốn của chị B bằng thủ đoạn là lợi dụng lúc chị B say rượu
không biết gì, không biểu lộ được ý chí của mình để thực hiện hành vi giao cấu. Chúng ta
có thể làm rõ hành vi giao cấu của H, Q đối với chị là trái ý muốn bằng các tình tiết đó là:
thủ đoạn lợi dụng chị B say rượu nằm mê mệt trên đường để giao cấu, cả H, Q đều không
có mối quan hệ đặc biệt với chị B như là chồng, bạn trai và tình tiết chị B phát hiện và
kêu cứu. Cả hai đều là nam giới có năng lực TNHS, đều mong muốn thực hiện hành vi
giao cấu. Bởi vậy việc định cho H, Q tội hiếp dâm là hoàn toàn chính xác và có cơ sở.
Ngoài ra H và Q còn là đồng phạm vì về khách quan: cả H, Q đều thực hiện hành vi giao
cấu với B, đều đóng vai trò là người thực hành trong vụ đồng phạm. Về mặt chủ quan: cả
H, Q đều biết hành vi của mình và hành vi của người khác là nguy hiểm nhưng vẫn mong
muốn thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ở việc “phát hiện chị B đang say rượu nằm mê
mệt bên lề đường” nên H và Q “ có hành vi giao cấu với chị B ”. Như vậy H, Q là đồng
phạm không có thông mưu trước.
Mặt khác, H, Q sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 111 BLHS
với tình tiết định khung tăng năng “nhiều người hiếp một người”. Nhiều người hiếp một
người là trường hợp tất cả những người tham gia đều có hành vi giao cấu với nạn nhân.
Cần làm rõ thêm việc không áp dụng tình tiết “hiếp dâm có tổ chức” theo điểm a khoản 2
Điều 111 BLHS đối với H và Q. Họ chỉ phạm tội thuộc trường hợp có tổ chức khi có sự
cấu kết chặt chẽ khi cùng thực hiện tội phạm. Đằng này, H và Q không có sự bàn bạc chặt
chẽ từ trước vì mục đích của chúng là trộm cắp tài sản của chị B .
Do vậy, với hành vi giao cấu với chị B thì H và Q đã phạm tội hiếp dâm vơi tình tiết định
khung tăng nặng “nhiều người hiếp một người” theo điểm c khoản 2 Điều 111 BLHS .
Thứ hai, hành vi của H, Q còn phạm thêm tội giết người theo Điều 93 BLHS. Theo quy
định Điều 93 BLHS 1999, tội giết người có những căn cứ pháp lý sau:
- Khách thể:
Xâm hại quan hệ nhân thân - quyền sống của con người.
14
- Mặt khách quan:
+ Hành vi khách quan:
Chị B đang còn sống và hành vi của H, Q là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng
của chị B (bóp cổ đến chết).
+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Hành vi của H, Q là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho chị B. Do đó tội giết người
của H, Q đã hoàn thành.
- Mặt chủ quan:
Lỗi của H, Q là lỗi cố ý trực tiếp. Cả hai nhận thức được hành vi bóp cổ của mình chắc
chắn gây ra cái chết cho chị B nhưng cả hai đều mong muốn cho chị B chết nhằm mục
đích che dấu tội phạm mà cả hai đã thực hiện trước đó.
- Chủ thể: H, Q đã thõa mãn là nam giới, có năng lực TNHS và đạt đủ độ tuổi. (Tức nhiên
là mặc nhiên thừa nhận).
Bên cạnh đó, hành vi của H, Q đã thõa mãn tình tiết định khung tăng nặng “giết người để
che giấu tội phạm khác” theo điểm g khoản 1 Điều 93 BLHS.
Giết người để che dấu tội phạm khác là trường hợp trước khi giết người, người có
hành vi giết người đã thực hiện một tội phạm và để che giấu tội phạm đó nên người phạm
tội đã giết người, đó thường là do nguyên nhân sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ,
người phạm tội cho rằng chỉ giết người thì tội phạm mà họ đã thực hiện mới không bị
phát hiện. Giữa hành vi giết người của người pham tội với tội phạm mà họ đã thực hiện
có mối liên hệ với nhau, người bị giết có thể là nhân chứng, có thể là người bị hại từ một
tội phạm trước và cũng có thể là người cùng thực hiện tội phạm; đó cũng chính là động
lực thúc đẩy hành vi giết người của họ, nhằm che dấu tội phạm mà họ đã thực hiện. ( theo
giả thiết như trên ở tình huống giết người này có một số quan điểm cho rằng tội trộm cắp
tài sản đã chuyển hóa thành tội cướp tài sản. Nhưng theo em thì quan diềm này hoàn toàn
không có cơ sở không thể là tội trộn chuyển hóa thành tội cướp đựơc vì mục đích ở đây
không phải giành cho bằng đựoc tài sản đã chiếm đoạt mà là mục đich che giấu hành vi
phạm tội trước đó. Trường hợp chuyển hóa phải là " 6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm
đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người
khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc
tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp
này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội
15
cướp tài sản." (Trính. Thông tư lien tịch của tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân
dân tối cao, bộ công an, bộ tư pháp số 02/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA –
BTP, ngày 25/12/2001 về việc áp dụng một số quy định tại chương XIV “ các tội xâm
phạm sở hữu” của bộ luật hình sự năm 1999)
Trong vụ án, H và Q đã có hành vi giao cấu với chị B, hành vi đó đã cấu thành một tội
độc lập đó là tội hiếp dâm và bị chị phát hiện, kêu cứu. Sau đó, vì “sợ bị lộ H và Q đã bóp
cổ làm chị B chết”. Như vậy, hành vi giết người của H và Q có mối liên hệ chặt chẽ với
tội hiếp dâm mà cả hai tên đã thực hiện trước đó.
Mối liên hệ giữa hành vi giết người và tội hiếp dâm đã thực hiện giúp chúng ta áp dụng
đúng đắn ba tình tiết định khung tăng nặng là “giết người để che giấu tội phạm khác” theo
điểm g khoản 1 Điều 93 BLHS; “giết người mà liền trước đó phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” theo điểm e khoản 1 điều 93 BLHS và “hiếp dâm làm
nạn nhân chết” theo điểm c khoản 3 Điều 111. Giết người mà liền trước đó phạm một tội
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng chỉ được thõa mãn khi tội phạm đó không
liên quan đến tội giết người, (Đối với tội trộm cắp thực hiện từ trước, tuy hành vi giết
người không có mối quan hệ gì nhưng tội trộm cắp mà H, Q đã thực hiện lại chỉ là tội ít
nghiêm trọng - 10 triệu - không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng);
còn hiếp dâm làm nạn nhân chết là trường hợp mà hành vi giao cấu của người phạm tội là
nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân ( có thể do sức yếu, không chịu nổi sự
hãm hiếp của nhiều người ). Như vậy, việc áp dụng, việc áp dụng tình tiết ở điểm e
khoản 1 điều 93 và điểm c khoản 3 điều 113 BLHS là không thể được.
Như vậy với tình tiết được mô tả như ở đề bài và căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý của các
tội cụ thể như đã phân tích ở trên chúng ta hoàn toàn có cơ sở đúng đắn để định tội danh
đối với H và Q là:
- Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 diều 138 BLHS.
- Tội hiếp dâm theo điểm c khoản 2 điều 111 BLHS.
- Tội giết người theo điểm g khoản 1 điều 93 BLHS.
Mức hình phạt hình phạt cao nhất mà H và Q phải chịu có thể lên đến tử hình.
16