Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Câu hỏi và gợi ý trả lời trong bộ câu hỏi ôn thi TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ phần chủ nghĩa Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.99 KB, 19 trang )

PHẦN I – CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
Câu 1: Phân tích nguyên lý của mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp
luận. Liên hệ thực tiễn.
Trong lịch sử triết học, khi nghiên cứu về mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện
tượng và các quá trình khác nhau của thế giới; sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, sự
tồn tại biệt lập hay tách rời nhau của chúng, đã có rất nhiều quan điểm về vấn đề này.
Liên hệ là sự phụ thuộc, sự quy định lẫn nhau và tác động qua lại lẫn nhau giữa
các sự vật hay giữa các nhân tố tạo thành sự vật. Mối liên hệ nó có tính phổ biến
trong tất cả mọi lĩnh vực của thế giới khách quan.
Ví dụ: Các bộ phận cơ thể tạo thành 1 khối thể thống nhất hay các yếu tố cấu
thành nên sự phát triển của 1 quốc gia đó là văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng cơ sở mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là
cảm giác.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất
vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật,
hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu,
song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất -
thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời
nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ
xác định.
Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là
phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất
cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi
sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: sự phụ thuộc của cơ thể sinh vật vào môi trường, khi môi trường thay
đổi thì cơ thể sinh vật cũng thay đổi để thích ứng với môi trường. Mối liên hệ đó
không phải do ai sáng tạo nên mà là cái vốn có của thế giới vật chất


- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở
bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự
vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành
phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố
khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện
tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu
hiện khác nhau.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến chi phối sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến
nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan
điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.
- Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử -
cụ thể.
* Quan điểm toàn diện xa lạ với chủ nghĩa triết trung, thuật nguỵ biện, quan
điểm phiến diện.
Liên hệ thực tiễn
Trong thời kỳ trước đổi mới (trước ĐH Đảng lần VI-1986), Đảng ta đã mắc
phải nhiều sai lầm trong chủ trương, chính sách mà trong đó có nguyên nhân do bệnh
phiến diện một chiều. Văn kiện ĐH Đảng lần VI có nêu “Trong nhận thức và hành
động, …. chúng ta chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Văn kiện ĐH
Đảng lần VI xác định : "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm
không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát
triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất". Khi xây dựng QHSX, trong thời kỳ trước 1986, chúng ta chỉ chú ý
đến mối quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) mà không chú ý đến mối quan hệ
tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm dẫn đến việc quốc hữu hóa TLSX,
mở rộng kinh tế quốc doanh và tập thể nhưng không tạo được động lực phát triển,
không giải quyết tốt vấn đề lưu thông phân phối hàng hóa, quản lý kinh tế yếu kém
dẫn đến “sản xuất chậm phát triển, mâu thuẩn giữa cung cầu ngày càng gay gắt” (ĐH
Đảng lần VI – Trang 25) kinh tế không phát triển được.
Trong công cuộc đổi mới, việc xác định bước đi đúng đắn phải song song với
việc đổi mới hình thức và cách làm phù hợp tương ứng với từng giai đoạn, từng thời
kỳ. Cụ thể như . Phương thức lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở từng bước
được đổi mới. Hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, hệ thống chính trị chuyển theo
hướng gắn bó hơn với nhân dân, tôn trọng lợi ích của nhân dân hiểu dân, trọng dân và
học dân để vì dân. Đổi mới cách ra nghị quyết của Đảng ở các cấp theo hướng dân
chủ, thiết thực, dễ hiểu, khả thi gắn với chương trình hành động thực hiện nghị quyết,
có phân công trách nhiệm, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện nghị quyết, Điều lệ
Đảng; thông qua cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng và
hệ thống chính trị

Câu 2: Phân tích quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất vận dụng quy này ở VN hiện nay?
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tiến hành sản xuất ra của cải vật
chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản
xuất là nhân tố lịch sử quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội; quyết định tính
chất, kết cấu của xã hội. Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử sản xuất vật
chất của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất chính là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở 1 trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng.
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản
xuất mà trước hết là công cụ lao động. Người lao động với tư cách là chủ thể sản
xuất vật chất tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, sáng tạo

ra công cụ lao động. Người lao động là nhân tố hàng đầu, chủ yếu của lực lượng
sản xuất. Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động”.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ với nhau. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân
người lao động, với trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của họ. Cùng với sự phát
triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Ngày
nay, khoa học trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất và trong đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất và được thể hiện qua các mối quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quản lý điều hành quá trình sản xuất, quan hệ trong phân phối sản
phẩm. Cả 3 mối quan hệ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó quan hệ sở
hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra,
song nó được hình thành một cách khách quan trên cơ sở một trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của ai cả.
Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX –và QHSX
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất.
Đây là mối liên hệ khách quan, vốn có đối với mọi quá trình sản xuất vật chất. Chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất,
trước hết là công cụ lao động. Do đó trong một phương thức sản xuất, LLSX bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi phát triển
dưới ảnh hưởng của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động, là nội dung của quá trình sản xuất. Quan hệ
sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong

mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất được
xem là nội dung quyết định quan hệ sản xuất hình thức.
Lực lượng sản xuất biến đổi thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi
theo để phù hợp với trình độ thực tiễn của quá trình sản xuất. Sự vận động, phát triển
của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với
nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng
sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn
đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử
dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực
lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất luôn lạc hậu hơn so với LLSX vì sự phát triển chậm chạp và
đứt đoạn của quan hệ sản xuất; do hạn chế trong nhận thức của con người về trình độ
của lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất học xây dựng có thể phù hợp và nó có
thể kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất; do lợi ích giai cấp mà giai cấp
thống trị thường kìm hãm kéo dài sự tồn tại của quan hệ sản xuất có lợi cho giai cấp
mình.
Quan hệ sản xuất sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển
của lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao
động của người công nhân; kích thích hoặc kìm hãm việc cải tiến công cụ cũng như
việc áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo
quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội
của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh, thông qua cách
mạng xã hội.

Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX qua sự tác động qua lại với nhau
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa LLSX và QHSX xã hội hợp thành
PTSX. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của LLSX đóng vai trò
quyết định đối với QHSX. QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của LLSX. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất. Trong tác
phẩm “Chống Đuy - rinh” của F.Ănghen Mác nhận định rẳng: “Phương thức sản xuất
TBCN không thể tồn tại vĩnh viễn mà chỉ là sự quá độ tạm thời trong lịch sử.
Quy luật về sự phù hợp của qhsx với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật
cơ bản của sự phát triển loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên cao.
Giá trị phương pháp luận:
Cần nhận thức sâu sắc rằng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
đối lập biện chứng cùng trong một bản chất - phương thức sản xuất. Vì vậy, chúng
luôn liên hệ, quy định, ràng buộc và thích ứng với nhau. Mâu thuẫn giữa LLSX và
QHSX là nguyên nhân sâu xa dẫn đến các mâu thuẫn khác trong XH.
Trong xã hội có giai cấp giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX bằng CM
xã hội sẽ xoá bỏ hình thái kinh tế XH cũ và xây dựng hình thái kinh tế XH mới tiến
bộ hơn.
Chính vì vậy, trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn không nên tuyệt đối
hóa vai trò "thúc đẩy", "mở đường" của quan hệ sản xuất; vai trò này chỉ có tác dụng
tích cực khi nó thích ứng với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Trong quan hệ sản xuất, cũng không nên tuyệt đối hóa quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất mà coi thường (hoặc không chú ý đầy đủ) vai trò của quan hệ tổ chức, quản lý
sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
Liên hệ thực tiễn:
Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết
luận: “Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình
thức thích hợp” “Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên
cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo XHCN,

phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật tạo ra LLSX mới trên cơ sở đó
tiếp tục đưa QHSX lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đẩy LLSX phát triển”.
Câu 5. Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp CNVN trong sự nghiệp đổi
mới, liên hệ thực tiễn.
Giai cấp CNVN là một lực lượng xã hội to lớn đang phát triển bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất
kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất
công nghiệp.
Sứ mệnh lịch sử g/c CNVN trong sự nghiệp đổi mới hiện nay được thể hiện cụ
thể qua các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá – tư tưởng.
- Về chính trị: ĐCS VN đội quân tiên phong của giai cấp CNVN lao động trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, VH, XH, tư tưởng, đặc biệt là lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới. Tại Điều 4, Hiến pháp năm 1992 đã quy định “Đảng CSVN, đội tiên phong
của g/c CNVN, đại biểu trung thành quyền lợi của g/c CN, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, theo CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và
XH. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Từng bước đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là cải cách hành chính, XD
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đề ra được đường lối, chính sách để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước phải chống lại 4 thách thức: Một là chệch hướng
XHCN; hai là tụt hậu xã hơn về kinh tế; ba là tệ tham nhũng, quan liêu; bốn là, âm
mưu diễn biến hào bình của các thế lực thù địch.
- Về kinh tế: Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng
XHCN, khuyết điểm đây là nhiệm vụ trong tâm để giai cấp CN hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình.
Phát triển LLSX tiên tiến, hiện đại, đẩy mạnh chất lượng đào tạo nghề, từng
bước trí thức hoá công nhân.
- Về VH, XH: Giai cấp CN là trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc. Là trụ
cột của liên minh công, nông, trí. Đoàn kết giai cấp CN các nước và nhân dân yêu

chuộng hòa bình trên thế giới để thực hiện mục tiêu đấu tranh giải phóng con người,
đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ XH.
Nghị quyết NQTW6, khóa 10 nêu rõ: “Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những
chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được
nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức”. Biểu hiện
vụ thể là:
+ Giai cấp công nhân nước ta có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các
ngành nghề; là một lực lượng sản xuất cơ bản, đang trực tiếp tham gia vào việc tổ
chức, quản lý sản xuất kinh doanh, vận hành và sử dụng các công cụ sản xuất.
+ Giai cấp công nhân đã có đóng góp to lớn, trực tiếp vào sự nghiệp phát triển
của đất nước, đưa nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao và phát triển tương đối toàn diện.
+ Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đã xuất hiện một
số ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân; số lượng công nhân, đặc biệt
là công nhân trí thức ở những ngành này đang tăng nhanh.
+ Trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân đã được
nâng lên đáng kể.
- Về những mặt tích cực, Nghị quyết nêu rõ: giai cấp công nhân nước ta
“đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội”, với những biểu hiện cụ thể sau:
+ Đại đa số công nhân tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, chế độ, vào công
cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
+ Giai cấp công nhân có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
+ Trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi chuyển sang kinh tế thị trường, giai cấp công
nhân đã phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân ngày càng nhiều hơn.

+ Nhiều cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ kỹ thuật và bộ phận công
nhân trực tiếp sản xuất có trình độ cao đã phát huy tốt hơn tính năng động, sáng tạo
trong công việc, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thích ứng với cơ chế thị trường,
tiếp thu và từng bước làm chủ những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện
đại.
+ Giai cấp công nhân nước ta thích nghi tương đối nhanh với cơ chế thị trường.
+ Trong quá trình hình thành và thực hiện đường lối đổi mới, công nhân nước
ta, đặc biệt là đội ngũ công nhân trí thức, đã phát huy tinh thần sáng tạo, đề xuất
nhiều giải pháp quý báu cho Đảng và Nhà nước.
- Về đời sống của giai cấp công nhân, Nghị quyết khẳng định: “Trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công
nhân ngày càng được cải thiện”.
+ Cùng với quá trình phát triển chung của đất nước, đời sống vật chất và
tinh thần của giai cấp công nhân có được cải thiện nhất định.
+ Nhà nước đã từng bước xây dựng và hoàn thiện dần các chính sách về hợp
đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, vệ sinh, an toàn lao
động,
+ Tỷ lệ công nhân thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần.
+ Quan tâm hàng đầu của công nhân hiện nay là có việc làm ổn định và thu
nhập công bằng, bảo đảm đời sống.
* Liên hệ tại địa phương: Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, cùng với sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, g/c CN trong tỉnh đã có
nhiều chuyển biến cả về số lượng, chất lượng; cơ cấu lao động trong các thành phần
kinh tế ngày càng đa dạng; công nhân lao động làm việc trong các khu vực kinh tế
ngoài nhà nước ở các ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại, du lịch, dịch vụ có
chiều hướng tăng nhanh. Đội ngũ công nhân, viên chức lao động của tỉnh tuy số
lượng không đông, chiếm tỷ lệ nhỏ so với dân số và lao động nhưng đã và đang có
mặt trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, các thành phần kinh tế, là lực lượng sản
xuất quan trọng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, góp phần to lớn vào
tăng trưởng kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tư an toàn xã hội. Tuy

nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH trong điều kiện KHCN ngày càng
phát triển, toàn cầu hoá đang diễn ra như một xu thế khách quan; tình hình thế giới có
nhiều thay đổi và những tác động mặt trái của KTTT.
Câu 6. Tính tất yếu tầm quan trọng của liên minh Công - Nông - Trí. Liên
hệ ở Việt Nam?
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động được hình thành và
phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại có trình độ xã hội
hóa, quốc tế hóa ngày càng cao đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến trong thời
đại hiện nay là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo tổ chức tiến trình cách
mạng XHCN.
Nông dân có bản chất hai mặt, một mặt họ là những người lao động mặt khác họ
là những người tư hữu nhỏ.
Giai cấp nông dân không có hệ tư hữu riêng mà giai cấp của họ phụ thuộc vào
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội
Giai cấp nông dân là lực lượng sản xuất và lực lượng chính trị xã hội đông đảo
nhất trong những nước nông nghiệp.
Với những đặc điểm cơ bản trên giai cấp nông dân không có khả năng tự giải
phóng khỏi các chế độ tư hữu áp bức bóc lột càng không thể là giai cấp lãnh đạo xã
hội trong các cuộc cách mạng giải phóng đó
Trí thức gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo có trình độ học
vấn đủ am hiểu vào hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình. Trí thức
có phương thức lao động đặc thù chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân do vậy họ
thường xuyên thể hiện và nâng cao khả năng tư duy khoa học độc lập. Sản phẩm trực
tiếp của trí thức là những giá trị lí luận, lí thuyết khoa học. Ngày nay KH&CN ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội nên vai trò của trí thức ngày
càng quan trọng và trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản
xuất riêng và đơn vị kinh tế xã hội độc lập
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư
sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây dựng, được Lê - nin vận dụng phát triển

trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH ở nước Nga, là một
nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH.
TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp
công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính
chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các
nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch
HCM sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước
xây dựng được khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp
phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có
Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên
minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát
từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín
muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - Chủ nghĩa Mác - Lênin chẳng những khẳng
định tính tất yếu của liên minh công - nông và các tầng lớp lao động khác trong giai
đoạn cách mạng giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng
CNXH. Trong giai đoạn này, Lênin đã nhấn mạnh “Nguyên tắc cao nhất của chuyên
chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản
có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Bởi vì, xét về nguyên tắc
tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì liên minh này tập hợp
được lực lượng sản xuất và lực lượng cách mạng cơ bản và đông đảo nhất để xây
dựng CNXH; trong đó giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong, lãnh đạo. Xét về
nguyên tắc lãnh đạo của chuyên chính vô sản, thì duy nhất chỉ có giai cấp công nhân
thông qua đảng lãnh đạo “hệ thống chuyên chính vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức,
không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn
xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành

chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh
càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố. “Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì
khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền
nhà nước”.
Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Khi liên minh công - nông - trí - thức được thiết
lập, củng cố trên cơ sở các điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng
chính trị - xã hội vững chắc cho sự lãnh đạo của ĐCS, cho Nhà nước. Để tập hợp lực
lượng rộng rãi quần chúng nhân dân trong khối Đại đoàn kết toàn dân cũng phải lấy
liên minh công - nông - trí làm nòng cốt. Có liên minh cũng là điều kịên bảo đảm ổn
định chính trị cho công cuộc đổi mới, cải cách của CNXH.
Khi nhìn nhận về đội ngũ trí thức, trên thực tế không ít đồng chí lãnh đạo các
cấp vẫn nhìn trí thức với con mắt “thiên kiến”, vẫn còn ấn tượng họ là “tiểu tư sản”
hay dao động, thiếu vững vàng về chính trị, thiếu kiên định lập trường giai cấp…
từ đó ngại dung trí thức, thành kiến với trí thức mà nhất là khi họ có ý kiến khác
với ý kiến lãnh đạo. Chúng ta phải nhìn nhận một cách khách quan đối với vai trò
của trí thức Việt Nam ngày nay, phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng
lớp trí thức ngày nay là những người lao động XHCN, được Đảng giáo dục, đào
tạo ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân. Họ đã, đang và sẽ luôn
gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân và nông dân trên con đường đi đến CNXH
của nước ta.
Tuy đã có nhiều cố gắng để lấp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn,
giữa niềm xuôi và niềm núi, giữa các vùng niềm,… nhưng thực tế cũng đang đặt cho
chúng ta nhiều vấn đề cần tiếp tục suy nghĩ và có những giải pháp mới phù hợp hơn
để giải quyết vấn đề “chính sánh xã hội”, xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tranh tre nứa
lá, giúp nhân dân ổn định cuộc sống,…
Câu hỏi 3: Sản xuất hàng hoá là gì? Phân tích nội dung, tác dụng của quy luật
giá trị. Vận dụng quy luật này ở Việt Nam?
Khái niệm sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra
để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.

Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa (có hai điều kiện)
- Phân công lao động xã hội: là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành,
nghề khác nhau trong nền sản xuất xã hội. nó tạo ra sự chuyên môn hóa lao động,
chuyên môn hóa sản xuất thành những những ngành nghề khác nhau, tức là mỗi
người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song
cuộc sống của mỗi người lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu
cầu đó đòi hỏi họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những ngươi sản xuất do quan hệ
về tư liệu sản xuất quy định.
Sản xuất hàng hóa ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một
trong hai điều kiện ấy thì thong co sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động thong
mang hình thái hàng hóa.
Phân tích nội dung, quy luật của giá trị:
- Khái niệm: Quy luật giá trị là quy luật riêng có của nền sản xuất hàng hoá. Mọi
hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá chịu chi phối của quy luật này.
- Nội dung của Quy luật giá trị:
Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá
trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất: Phải tính tính theo hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong
kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của
mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá
biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trao đổi hàng hoá: Phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có
nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, cơ chế hoạt động của quy luật giá trị đối
với nền kinh tế hàng hoá là thông qua sự lên xuống của giá cả thị trường. Vì giá trị là
cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
- Tác dụng của quy luật giá trị
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên.
Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá

bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy
mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường.
Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả
thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến
động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
+ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực
lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
Trong nền kinh tế hàng hoá, điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động
cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao
động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao
phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn.
Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp
hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện
tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy
quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất
xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
+ Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người SX hàng hoá thành kẻ giàu
người nghèo
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người
có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có
hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài,
giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất, kinh
doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc
gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa
chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt
khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã

hội.
- Vận dụng Quy luật này ở Việt Nam
+ Trước đổi mới (1986), cơ chế kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập
trung, bao cấp. NN lãnh đạo nền kinh tế một cách có kế hoạch, mang nhiều yếu tố
chủ quan như: nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới; can thiệp quá sâu
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình; quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị
coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông
qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức
Điều này đã phủ nhận tính khách quan của quy luật giá trị, làm triệt tiêu những
nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng kém
phát triển. Đồng thời xuất hiện mức chênh lệch ngày càng lớn giữa mặt bằng giá do
Nhà nước quy định và mặt bằng giá thị trường tự do, trong đó giá thị trường tự do
gấp 7 - 8 lần giá do Nhà nước quy định.
+ Sau đổi mới (1986 - nay).
Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa quyết
định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phong
cách lãnh đạo của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.
Trong đánh giá tình hình, Đại hội đề ra phương châm “nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”; từ đó không chỉ khẳng định những thành tựu
đạt được mà còn thẳng thắn vạch ra sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong phân
phối lưu thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế.
Đại hội kết luận rằng: “những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”. Và “Những sai lầm đó bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư
tưởng, tổ chức và công tác cán bộ Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân ”.

Câu 4. Giá trị thặng dư là gì? Làm rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư. Trình bày
2 phương pháp thăng dư dưới thời kỳ CNTB và ý ngĩa của việc nghiên cứu.
Giá trị thặng dư (m) là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hóa sức lao động
do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không.
Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để
sản xuất giá trị thặng dư có hai đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự
kiểm soát của nhà tư bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Nếu quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa là quy luật giá trị thì quy
luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật giá trị thặng dư.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi
vì nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời
sống kinh tế của xã hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có
chủ nghĩa tư bản. Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư
bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân.
Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với
mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh
tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ
suất giá trị thặng dư cao hơn.
Cụ thể là không phân biệt được việc mua bán hàng hóa sức lao động, chỉ có
thể nhận thức mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động
nên gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi
nhuận, cũng như nguồn gốc bản chất của giá trị thặng dư. Cũng từ đó không thể
giải quyết được mâu thuẫn của công thức chung tư bản.
2 phương pháp thăng dư dưới thời kỳ CNTB:
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động thủ

công, hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở các công trường thủ công. Đó
là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi phương
pháp giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức
lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.
Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá,
nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người
công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn
phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động.
Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất
yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động. Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh
vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp
phải thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
vào sản xuất. Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của
người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công
nhân.
Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh
chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động, bó lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là
giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng
cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư lên ngay
trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được
quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao
động, nên muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng
cách tăng năng suất lao động xã hội cho các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và

các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ.
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ thủ
công, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng
sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi lao
động bằng máy móc sẽ không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử dụng
máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh
hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu
kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng
dư hơn.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là
cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng
dư thu được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp
hơn giá trị xã hội của nó.
Mối quan hệ giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
Thực ra, hai phương pháp giá trị thặng dư không hề bị tách rời nhau, mà chỉ
trong mỗi thời kì khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay ít mà thôi,
trong thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối
được sử dụng nhiều hơn so với phương pháp giá trị thặng dư tương đối, còn trong
thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược lại. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc
nhà tư bản kết hợp tốt hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày
càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, bằng cách tăng cường các phương tiện
kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm thuê. Ngoài ra
nền sản xuất hiện đại áp dụng tự động hoá cao cường độ lao động người công nhân
tăng lên với hình thức mới đó là cường độ lao động thần kinh thay thế cho cường
độ lao động cơ bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất xám có giá trị lớn. Nên sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong diều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi của hai phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu

sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức
làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh
doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội,
coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp
cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Liên hệ thực tiễn:
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, tồn tại nhiều
hình thức sở hữu. Chính vì vậy, một số thành phần kinh tế vẫn dựa trên hình thức
sở hữu tư nhân, mang bản chất bóc lột như; thành phần kinh tế tư nhân, thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… cho nên vẫn có yếu tố bóc lột giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, để chuyển đổi từ nền sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, khai thác mọi nguồn lực, giải phóng sức lao động, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho nhân dân thì phải chấp nhận bóc lột, phải tạo ra nhiều
giá trị mới cho xã hội hơn nữa. Các sản phẩm thặng dư đó phải mang lại ý nghĩa
xã hội, phục vụ cho tái sản xuất và tiêu dùng của xã hội, giảm dần chiếm hữu tư
nhân và sở hữu tư nhân, chiếm hữu phần lớn những sản phẩm thặng dư do xã hội
sản xuất ra. Để làm được phải phát huy vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của
Nhà nước, dựa trên sức mạnh kinh tế nhà nước và hệ thống chuyên chính vô sản
xã hội chủ nghĩa. Đó chính là quá trình đấu tranh giai cấp lâu dài trên lĩnh vực
kinh tế.
Đồng thời với quá trình phát triển lực lượng sản xuất thì phải hoàn thiện quan
hệ sản xuất, xóa bỏ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đây là một quá trình
lâu dài, chuyển biến từ nền sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, không thể thực hiện
ngay một lúc. Hiện nay, việc đấu tranh chống tăng ca, đòi tăng lương các doanh
nghiệp FDI ở các tỉnh phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương…cần phải theo pháp
luật, phát huy vai trò của Công đoàn, nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ
của công nhân đối với doanh nghiệp.

×