Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thực trạng trục lợi bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.31 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
1
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
VN Việt Nam
TN Thu nhập
BHYT Bảo hiểm y tế
DN Doanh nghiệp
NLĐ Người lao động
2
Lời mở đầu
Ngày 1.1.2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có
hiệu lực nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là
bảo hiểm thất nghiệp ( BHTN ). Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự
là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam
nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói
chung.
BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của
nền kinh tế Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải
chứng kiến nhiều doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh
thất nghiệp.Sau 2 năm thực hiện, Bảo hiểm thất nghiệp đã mang lại những
thành công nhất định, cũng như tác dụng tích cực về mặt kinh tế xã hội.
Tuy nhiên cũng như các loại hình bảo hiểm khác, BHTN cũng không thể
tránh khỏi tình trạng trục lợi. khiến cho mục đích chính của BHTN không
thực hiện được còn gây tâm lí ỷ lại cho người lao động, nghiêm trọng hơn còn
có khả năng gây vỡ quỹ thất nghiệp, ảnh hưởng lớn đến các vấn đề chính trị ,
xã hội. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn những vấn đề mới mẻ này chính là lí
do emlựa chọn đề tài “ Thực trạng trục lợi bảo hiểm thất nghiệp ở Việt
Nam”.
Với toàn bộ khả năng của mình, em đã cố gắng mang đến những thông


tin cơ bản và tổng quát nhất về Bảo hiểm thất nghiệp và thực trạng trục lợi
bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam hiện nay ,tuy nhiên không tránh khỏi những
thiếu sót ngoài mong muốn nên em hy vọng nhận được sự góp ý từ phía cô
giáo để hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
3
I. Tổng quan về trục lợi bảo hiểm thất nghiệp
1. Bảo hiểm thất nghiệp
I.1. Thất nghiệp
I.1.1. Khái niệm:
Có rất nhiều khái niệm về thất nghiệp nhưng định nghĩa thất nghiệp của
ILO được nhiều nhà kinh tế và nhiều nước tán thành. Theo tổ chức này định
nghĩa thì: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao
động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc ở mức lương thịnh hành”
Từ định nghĩa về thất nghiệp, ILO đã đưa ra bốn tiêu chí cơ bản để xác
định “người thất nghiệp” đó là:
+ Trong độ tuổi lao động
+ Có khả năng lao động đang không có việc làm,
+ Đang đi tìm việc làm.
Nhìn chung, các tiêu chí này mang tính khái quát cao, đã được nhiều
nước tán thành và lấy làm cơ sở để vận dụng tại quốc gia mình khi đưa ra
những khái niệm về người thất nghiệp.
Năm 2006, khái niệm “người thất nghiệp” đã được luật hóa và trở thành
thuật ngữ pháp lý tại khoản 4 điều 3 Luật BHXH Việt Nam. Theo đó, người
thất nghiệp được định nghĩa là: “người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị
mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp dồng làm việc nhưng
chưa tìm được việc làm”.
I.1.2. Phân loại
Có nhiều hình thái thất nghiệp khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu
và việc lựa chọn phương thức phân loại. Dưới đây em xin tình bày phương
pháp phân loại dựa trên tính chất thất nghiệp

- Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một
số người trong giai đoạn chuyển từ chỗ làm này sang chỗ khác.
- Thất nghiệp cơ cấu: do sự không tương thích của phân bố lao động và
phân bố chỗ làm việc (khác biệt địa lý hoặc khác biệt kỹ năng). Người thất
nghiệp không muốn hoặc không thể thay đổi nơi ở hoặc chuyển đổi kỹ năng.
4
- Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao
động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế.
- Thất nghiệp thời vụ: phát sinh theo các chu kì sản xuất kinh doanh ,
loại này rất phổ biến trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
- Thất nghiệp công nghệ: do sự áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật
và công nghệ ngày càng được tăng cường làm cho người lao động trong các
dây chuyền sản xuất bị dôi ra gây thất nghiệp công nghệ.
I.1.3. Hậu quả
Thất nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và gia đình họ,
tác động mạnh mẽ đến các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
- Đối với nền kinh tế: Thất nghiệp là một sự lãng phí nguồn lực xã hội,
là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn,
chậm phát triển. Nếu tình trạng thất nghiệp gia tăng sẽ kéo theo tình trạng gia
tăng của lạm phát, từ đó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, khả năng phục hồi
chậm. Đối với người thất nghiệp, thu nhập bị mất dẫn đến đời sống kinh tế
khó khăn…
- Đối với xã hội: Thất nghiệp là một trong những nguyên nhân gây nên
hậu quả tiêu cực đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp kỉ cương luật pháp
để tìm kế sinh nhai như: trộm cắp, cờ bạc, mại dâm…
- Đối với tình hình chính tri: thất nghiệp gia tăng còn làm cho tình hình
chính trị xã hội bất ổn hiện tượng bãi công, biểu tình có thể xảy ra. Người lao
động giảm niềm tin vào chế độ vào khả năng lãnh đạo của nhà cầm quyền. Tỷ
lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu đánh giá uy tín của nhà cầm quyền.
I.2. Bảo hiểm thất nghiệp

1.2.1. Khái niệm:
Bảo hiểm thất nghiệp: là bảo hiểm bồi thường cho người lao động bị
thiệt hại về mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia
vào thị trường lao động.
Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền
5
kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định
cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của
bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới
thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm
mới thích hợp và ổn định
1.2.2. Đối tượng
Đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp là thu nhập của người lao động. Đối
tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng là người lao động và người sử
dụng lao động song đối tượng này rộng hay hẹp là tùy tuộc vào điều kiện cụ
thể và quy định của từng nước.
Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc
không do lỗi của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn
sàng nhận công việc mới và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất
nghiệp. Những người này sẽ được hỗ trợ một khoản tiền theo tỉ lệ nhất định
so với khoản thu nhập cũ nhận trong những thời kì cụ thể.
Bảo hiểm thất nghiệp không áp dụng cho những người thất nghiệp vì tự
ý bỏ việc hay những ngưòi vừa mới ra trường và chưa tìm được công ăn vịêc
làm,những người thuộc vào diện thất nghiệp tự nhiên
1.2.3. Quỹ bảo hiểm và mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là một quỹ tài chính độc lập tập trung ngoài
ngân sách Nhà Nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ 3 nguồn sau đây:
- Người tham gia lao động đóng góp
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp

Về nguyên tắc mức trợ cấp thất nghiệp phải thấp hơn thu nhập của người
lao động khi đang làm việc. Vì vậy hầu hết các nước triển khai bảo hiểm thất
nghiệp đều xác định mức trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp dựa trên:
- Mức lương tối thiểu
- Mức lương bình quân cá nhân
- Mức lương tháng cuối cùng trước khi bị thất nghiệp
1.2.4. Lợi ích
6
Nhân thức được tầm ảnh hưởng của thất nghiệp trong kinh tế xã hội thí
các hệ thống bảo hiểm thất nghiệp đã được ra đời và đã có tác dụng nhằm:
- Giúp ổn định thu nhập đời sống cho những người thất nghiệp không tự
nguyện, đáp ứng cho họ những chi tiêu ccàn thiết mà kong gây ra tình trạng
nợ nần
- Giúp những người thất nghiệp sớm có cơ hội tìm được việc làm, những
người có kĩ năng sẽ tìm đựơc công việc phù hợp thay vì phải làm những công
việc khác với mức lương không tương xứng
- Giúp ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá
thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối tốt
hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao động.
- Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp
2. Trục lợi bảo hiểm thất nghiệp
2.1. Trục lợi bảo hiểm
Hiện nay hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tham gia bảo hiểm ngày
càng phổ biến nhưng cũng có gian lận trong lĩnh vực này, thường gọi là trục
lợi bảo hiểm.
Theo hiệp hôi bảo hiểm Canada: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình
gian dối, lừa đảo có thể có chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoăc phát
sinh sau khi đã xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số
tiền tiền từ DNBH mà đáng lí ra họ không được hưởng”
Trục lợi bảo hiểm còn được quan niệm là gian lận trong bảo hiểm. Trên

thế giới hiện tượng này là một vấn đề nhức nhối đối với doanh nghiệp bảo
hiểm.Nhiều DNBH đã phải bỏ ra khá nhiều tiền để khắc phục vấn đề trục lợi
trong bảo hiểm nhưng số vụ gian lận vẫn tăng lên theo thời gian và hình thức
ngày càng tinh vi, biểu hiện dưới một số dạng sau:
- Khai tăng trị giá tổn thất
Hành vi này thường được thực hiện bằng cách lợi dụng tổn thất xảy ra để
7
làm hư hỏng thêm tài sản được bảo hiểm nhằm được trả tiền bồi thường cao
hơn, hoặc làm hư hỏng toàn bộ tài sản đã được bảo hiểm để được bồi thường
tài sản có trị giá lớn hơn. Một cách khác là tổn thất ít, lẽ ra không được bồi
thường, nhưng làm cho tổn thất vượt quá mức miễn thường để được bồi
thường.
Ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển quy định: “Mức
miễn thường là 0,35% trách nhiệm qua cân tại cảng”. Trên thực tế, trọng
lượng hàng hóa bị thiếu là 0,34% nên không được bồi thường. Bên mua bảo
hiểm có thể trục lợi bảo hiểm qua việc “tìm cách” nâng con số này lên trên
0,35% để được bồi thường.
- Đã xảy ra tổn thất mới đi mua bảo hiểm
Hình thức trục lợi bảo hiểm này không phải là hiếm. Đối tượng bảo hiểm
(máy móc, phương tiện vận chuyển…) đã bị tổn thất tức là sự kiện bảo hiểm
đã xảy ra, bên mua bảo hiểm mới đi giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi
thường hoặc được trả tiền bảo hiểm.
Ví dụ: Tàu biển đã bị đắm, toàn bộ hàng hóa bị tổn thất, chủ hàng mới đi
mua bảo hiểm. Thực tế cho thấy, có khi người bán bảo hiểm không biết là tàu
đã bị đắm, nhưng phần lớn là có sự “bắt tay… bẩn” với nhau để ghi ngày giao
kết hợp đồng bảo hiểm trước ngày xảy ra đắm tàu, làm cho hợp đồng bảo
hiểm có giá trị pháp lý. Đúng ra là hợp đồng này vô hiệu vì sự kiện bảo hiểm
đã xảy ra, đối tượng bảo hiểm (ở đây là hàng hóa) không còn tồn tại (Điều 22,
Luật Kinh doanh bảo hiểm).
- Bảo hiểm trùng

Bảo hiểm trùng là việc bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng,
với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Trong trường hợp này (bảo hiểm
trùng), theo Luật Kinh doanh bảo hiểm thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mỗi
doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền
8
bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà
bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp
bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Khi xảy ra tổn
thất cho tài sản mà rủi ro gây ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và trong thời
gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, do các doanh nghiệp bảo hiểm
không biết bên tham gia bảo hiểm đã “bắt cá nhiều tay” nên cùng trả tiền bảo
hiểm mà kết quả là bên mua bảo hiểm được bồi thường gấp nhiều lần trị giá
tài sản.
Ví dụ: Một tài sản trị giá 10 tỷ đồng được mua bảo hiểm ở 3 doanh
nghiệp bảo hiểm với số tiền bảo hiểm ở mỗi doanh nghiệp là 10 tỷ đồng. Khi
có tổn thất toàn bộ, 3 công ty phải trả 30 tỷ đồng, trong khi lẽ ra chỉ phải cùng
nhau chi trả tổng cộng là 10 tỷ đồng.
- Cố ý gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm
Đây là hình thức trục lợi bảo hiểm rất tinh vi, có kiến thức nghiệp vụ cao
về bảo hiểm, được chuẩn bị kỹ lưỡng, số tiền trục lợi thường lớn, rất khó điều
tra hoặc tìm ra được sự thật thì tốn nhiều công sức, tiền của. Một cách khá
phổ biến là tìm cách hủy hoại tài sản trong một hoàn cảnh được dàn dựng như
thật. Ví dụ như cố ý đánh đắm tàu biển trong một tình huống được tạo ra rất
“hợp lý” (thời tiết xấu, hỏng máy, cố ý đâm va…). Tất nhiên là kẻ trục lợi
nắm vững mọi điều khoản của hợp đồng bảo hiểm để chắc chắn rủi ro không
nằm trong trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong
hợp đồng để không bị từ chối bồi thường. Kiểu trục lợi này “rất nguy hiểm”,
với hậu quả nghiêm trọng về mặt tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm khi có
thông đồng giữa bên mua bảo hiểm và những “con sâu” trong doanh nghiệp

bảo hiểm để nâng giá trị tài sản được bảo hiểm trước khi tham gia bảo hiểm.
Chẳng hạn như, một tàu biển trị giá 30 triệu đô-la, được “bắt tay” nâng
lên 32 triệu đô-la; sau đó tàu bị đắm rất “hợp lý” và “ngẫu nhiên”, số tiền bảo
hiểm phải trả là 32 triệu đô-la (gian lận 2 triệu đô-la!). Một cách làm khác là
9
thay thế những thiết bị đắt tiền của tài sản được bảo hiểm bằng những đồ
“rởm” sau đó hủy hoại tài sản đó. Dĩ nhiên là số tiền bồi thường sẽ được tính
cho đồ “xịn” như khi tham gia bảo hiểm. Cách trục lợi này thường xảy ra với
các tài sản có giá trị cao, có lắp đặt thiết bị đắt tiền như tàu thủy, xe chuyên
dụng…
- Khai ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm trước thời hạn hợp đồng
Hợp đồng bảo hiểm phải có thời hạn bảo hiểm, tức là nếu trong khoảng
thời gian đó có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả
tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm.
Ví dụ: Một “Giấy chứng nhận bảo hiểm môtô-xe máy” có ghi thời hạn
bảo hiểm: 24 tháng, từ 8 giờ 50 phút ngày 28-9-2005 đến 8 giờ 50 phút ngày
28-9-2007. Nếu tai nạn cho người đi xe máy xảy ra ngày 29-9-2007 thì kẻ
trục lợi bảo hiểm sẽ “đạo diễn” sao cho tai nạn xảy ra trước 8 giờ 50 phút
ngày 28-9-2007.
- Lập hồ sơ giả
Cách trục lợi này thường phải có “tay trong” ở các doanh nghiệp bảo
hiểm và “bắt tay” với đường dây sửa chữa đối tượng bảo hiểm là tài sản như
phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị… Tuy không có tổn thất thực tế đối
với đối tượng bảo hiểm nhưng vẫn có đầy đủ chứng từ hợp lệ (hóa đơn sửa
chữa, mua vật tư, phụ tùng…) với đầy đủ chữ ký thật, dấu thật, chứng từ thật
hoàn toàn nhưng chỉ có “sự thật” là… giả.
- Tạo dựng hiện trường giả
Trục lợi bảo hiểm theo cách này thường biểu hiện ở việc tạo ra một hiện
trường như… thật. Ví dụ: Giả vờ bị mất cắp hàng hóa thì khóa cửa kho bị

phá, niêm phong hầm hàng bị mở, mái kho bị dỡ ra… Có trường hợp còn
“đóng kịch” là bị cướp tài sản, bị trói, nhét giẻ vào miệng; tự đốt nhà kho sau
khi tẩu tán tài sản…, thay hàng hóa, phương tiện vận chuyển bị hư hỏng
10
nhưng không tham gia bảo hiểm bằng hàng hóa, phương tiện vận chuyển có
tham gia bảo hiểm để lập sơ đồ, bản ảnh, bản vẽ… nhằm hợp lý hóa hồ sơ.
Ví dụ như đánh tráo biển số của xe ôtô không tham gia bảo hiểm nhưng
bị tai nạn bằng biển số của xe có tham gia bảo hiểm nhưng không bị tai nạn…
Trong bảo hiểm nhân thọ, đã xảy ra việc tự gây thương tích như gẫy chân,
tay, vỡ đầu… sau khi đã tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm rất lớn,
nhưng khi doanh nghiệp bảo hiểm nghi ngờ, phối hợp với cảnh sát giao thông
để dựng lại hiện trường tai nạn thì thấy không thể… gẫy chân, tay, vỡ đầu
được vì khai là do ngã xe máy mà xe và mặt đường không có một vết xây sát
nào và khai thời gian ngã vào giờ tan tầm mà lại không có ai trông thấy để
làm chứng.
2.2. Trục lợi bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp cũng là một lĩnh vực của hoạt động bảo hiểm, nó
không thể tránh được các hành vi gian lận trong lĩnh vực này, nó cũng được
gọi là trục lợi bảo hiểm thấy nghiệp. Chưa có khái niệm cụ thể về trục lợi
trong bảo hiểm thất nghiệp nhưng theo khái niệm trục lợi bảo hiểm trục lợi
bảo hiểm thất nghiệp là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có chủ ý nhằm chiếm
đoạt số tiền mà đáng lí ra họ không được hưởng.
II. Thực trạng trục lợi bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
1. Tình hình triển khai bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
1.1. Tình hình triển khai bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên
thế giới
Trên thế giới có lẽ từ “ Thất nghiệp” đã không còn xa lạ với bất cứ quốc
gia nào, dù là quốc gia phát triển, đang phát triển hay kém phát triển. Để đảm
11
bảo chi tiêu trước cảnh thất nghiệp là một thách thức đối với người lao động.

Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của riêng người lao động mà
còn ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. Do đó, Bảo hiểm thất nghiệp đã ra đời.
Lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỉ XIX tại Đức , Italia, Thụy Sĩ và lan rộng ra
Pháp ,Anh, Hà Lan,Mỹ …cho tới nay bảo hiểm thất nghiệp đã trở thành một
phần không thể thiếu trong hệ thống An sinh xã hội của nhiều nước trong đó
có Việt Nam.
Hiện nay, tại các nước phát triển bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện
rộng rãi với những bộ luật quy định khá toàn vẹn và chặt chẽ. Mỗi nước đều
có quy định riêng và thực hiện đựa trên những nguyên tắc của mình. Hệ thống
bảo hiểm được thực hiện rộng khắp cả nước ,quản lý linh hoạt và nhiều loại
hình bảo hiểm đáp ứng nhu cầu của con người. Dưới đây là một số mô hình
bảo hiểm thất nghiệp tại các nước
• Bảo hiểm thất nghiệp ở Đức:
Bảo hiểm thất nghiệp được bắt đầu thực hiện tại Đức vào năm 1919 và
chính thức hóa bằng một bộ luật vào năm 1927, là một cấu thành trong hệ
thống BHXH của Đức bao gồm bảo hiểm hưu trí, BHYT, BHTN, bảo hiểm
tai nạn và bảo hiểm chăm sóc. BHTN là một chương trình BHXH bắt buộc
dựa trên sự đóng góp tài chính của người lao động và chủ sử dụng lao động.
Năm 2003, tỷ lệ đóng góp bảo hiểm thất nghiệp là 6,5% lương trong đó người
lao động đóng 50%, chử sử dụng lao động đóng 50%
- Đối tượng hưởng BHTN: là người bị thất nghiệp tạm thời ít hơn 65
tuổi, đã đăng ký tại cơ quan việc làm địa phương, đủ điều kiện về thời gian
làm việc và đóng bảo hiểm, chứng tỏ được bản thân có nỗ lực tìm việc
- Điều kiện hưởng BHTN: Có hợp đồng lao động lớn hơn 12 tháng
trong một giai đoạn xem xét (3 năm cuối trước khi đăng ký thất nghiệp) trừ
trường hợp đặc biệt và đã đóng bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc. Do đặc thù
công việc làm dưới 1 năm cần 6 tháng làm việc và đã đóng BHTN bắt buộc
12
- Mức hưởng chế độ BHTN: 60% lương thực tế sau khi đã trừ đi các
khoản đóng góp bắt buộc (thuế thu nhập, đóng góp BHXH, BHYT),trường

hợp có ít nhất một trẻ phụ thuộc là 67% lương, được đóng BHYT trong quỹ y
tế công, và quỹ hưu trí bắt buộc trong thời gian TN
- Thời gian hưởng Chế độ: Không có thời gian chờ áp dụng trước khi
nhận phúc lợi cho người thất nghiệp, thời gian hưởng phụ thuộc vào thời gian
làm việc có đóng bảo hiểm trước đó và tuổi người LĐ.
- Giai đoạn không đủ tiêu chuẩn hưởng và mất quyền hưởng: Bị tước
quyền hưởng chế độ trong vòng 12 tuần nếu bị chấm dứt hợp đồng do lỗi vi
phạm hợp đồng hoặc sai phạm trong công viêc. Thời hạn đình chỉ quyền
hưởng chế độ tương tự cũng được áp dụng nếu người thất nghiệp từ chối nhận
công việc được đề nghị bởi cơ quan việc làm hoặc từ chối tham gia các
chương trình đào tạo.
• Bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ
Bảo hiểm thất nghiệp là chương trình nằm trong Luật Bảo hiểm xã hội
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thực hiện từ năm 1935, gồm có: hệ thống
của Liên bang và Tiểu bang. Hệ thống Liên bang quy định chung, từ đó cấp
Tiểu bang hướng dẫn, quản lý và thực hiện chương trình của bang mình. Việc
quản lý và thực hiện chương trình bảo hiểm thất nghiệp ở các Tiểu bang cũng
khác nhau. Một số Tiểu bang có mức hỗ trợ thất nghiệp khá cao, một số Tiểu
bang lại có mức thấp hơn. Có thể nói Mỹ là một trong những quốc gia có
nhiều loại hình bảo hiểm thất nghiệp nhất trên thế giới tiêu biểu với bẩy loại
hình là : Bảo hiểm thất nghiêp trên diện rộng ,bảo hiểm thất nghiệp dành cho
nhân viên liên bang, bảo hiểm thất nghiệp dành cho cựu quân nhân,khoản lợi
ích mở rộng dành cho các khu vực có tỉ lệ thất nghiệp cao, hỗ trợ thất nghiệp
do thiên tai, phụ cấp ảnh hưởng thương mại, hỗ trợ cho hoạt động tự doanh.
Mục đích của chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Hoa Kỳ là: Ngăn ngừa sự
bất ổn định về kinh tế, xã hội; hỗ trợ, đào tạo nhằm giúp người lao động có cơ
13
hội trở lại thị trường lao động, tìm việc làm mới; trợ cấp thất nghiệp. Thay thế
một phần thu nhập cho người lao động bị mất việc làm mà không phải lỗi của
họ.

- Để được hưởng bảo hiểm thất nghiệp người lao động phải đăng ký tại
một trung tâm dịch vụ việc làm, phải có một khoảng thời gian lao động với
thu nhập nhất định, tích cực tìm việc làm và sẵn sàng trở lại làm việc.
- Mức trợ cấp thất nghiệp mà người lao động được hưởng ở mỗi Bang
khác nhau theo Luật của từng Bang và thu nhập trước đó của người lao động,
nhưng không được vượt quá mức trần tối đa do Luật của Liên bang quy định.
Theo Luật của Liên bang thì thông thường thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
tối đa là 26 tuần. Những người đã hưởng hết khoản trợ cấp thất nghiệp theo
chương trình thông thường có thể được hưởng tiếp tối đa 20 tuần nữa theo
chương trình gia hạn trợ cấp (EB). Chương trình gia hạn trợ cấp chỉ được áp
dụng trong thời kỳ có tỷ lệ thất nghiệp cao.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp: Người lao động trong các
doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Người lao động trong các tổ chức
phi lợi nhuận có từ 4 lao động trở lên, thời gian làm việc 20 tuần/1năm trở
lên. Các doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp có sử dụng từ 10 lao động
trở lên, thời gian làm việc 20 tuần/1 năm, quỹ lương 20.000USD/quý - ở một
số bang cán bộ công chức Nhà nước cũng được tham gia chế độ bảo hiểm thất
nghiệp. Trên thực tế có 97% người lao động ở Hoa Kỳ (khoảng 135 triệu
người) đang tham gia chương trình bảo hiểm thất nghiệp. Các đối tượng
không thuộc diện áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp là lao động tự do, lao
động khoán việc, người giúp việc gia đình, lao động thuộc các tổ chức tôn
giáo.
- Cơ chế thu, chi của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp: Nguồn thu của Quỹ
Bảo hiểm thất nghiệp ở Hoa Kỳ hoàn toàn do chủ sử dụng lao động đóng (có
3 Bang đó là: Alaska, New Jersey, Pensylvania quy định người lao động đóng
14
một phần, nhưng rất thấp (khoảng 0,3% tiền lương tháng) và đang có xu
hướng giảm). Việc thu tiền bảo hiểm thất nghiệp của người lao động do cơ
quan thuế đảm nhiệm. - Luật Liên bang quy định tổng mức đóng bảo hiểm
thất nghiệp là 6,2% quỹ lương tháng, trong đó mức đóng cho Liên bang là

0,8% , khoản này dùng để chi trả các chi phí về hành chính, trả lương cho các
nhân viên thuộc hệ thống bảo hiểm thất nghiệp của Liên bang và Tiểu bang
• Bảo hiểm thất nghiệp ở Trung Quốc
Được áp dụng từ năm 1986 đối với những người lao động mới được
tuyển dụng vào các doanh nghiệp Nhà nước. Bước tiến này là một trong hang
loạt các biện pháp đối với công cuộc cải cách hệ thống lao động trong khu
vực quốc doanh.BHTN được đặt ra trong khuôn khổ những thay đổi kinh tế-
xã hội nảy sinh từ các chính sách phát triển kinh tế thị trường ở Trung Quốc.
Năm 1998 một cải cách đã được thực hiện khi đóng góp được ấn định
2% đối với doanh nghiệp và lần đầu tiên người lao động được yêu cầu đóng
góp một phần. Mức đóng góp là 1%tiền lương. Chương trình BHTN được sửa
đổi cơ bản và tổ chức lại vào năm 1999 thông qua “Điều lệ về BHTN”. Nội
dung cơ bản của điều lệ này là:
- Đối tuợng tham gia loại hình bảo hiểm này là người lao động trong các
doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân ) và các cơ quan đóng tại địa bàn thành
thị. Chính quyền các tỉnh, vùng tự trị và các đặc khu trực thuộc Trung ơng,
tuỳ theo tình hình cụ thể cũng như yêu cầu của các đoàn thể, công đoàn và
của bản thân người lao động đều có thể tham gia vào hệ thống bảo hiểm thất
nghiệp.
- Nguồn huy động của quỹ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Khoản đóng
góp của các doanh nghiệp, cơ quan và cá nhân người lao động cho quỹ bảo
bảo thất nghiệp, lãi suất ngân hàng; phần trợ giúp của Chính phủ, và các
nguồn khác cho quỹ theo quy định của pháp luật. Các cơ quan và doanh
15
nghiệp ở thành thị sẽ đóng bảo hiểm thất nghiệp 2% tổng quỹ lương, cá nhân
người lao động trong doanh nghiệp trả 1% lương của họ. Nhân viên có hợp
đồng làm việc ở nông thôn nhưng được các doanh nghiệp, cơ quan ở thành thị
tuyển dụng sẽ tự đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp của mình.
- Nguồn quỹ bảo hiểm thất nghiệp sẽ được chuyển về các tỉnh, thành phố

và các đặc khu trực thuộc Trung ương. Mức chuyển tiền từ các quỹ này xuống
địa phương sẽ phụ thuộc vào điều kiện từng địa phương và quy định của
chính quyền cấp tính. Việc điều chỉnh, phân bố bảo hiểm thất nghiệp có thể
do chính quyền cấp tỉnh và đặc khu tiến hành, dựa trên cơ sở tổng số tiền huy
động được từ các nguồn cho quỹ cũng như phụ thuộc vào tình hình cụ thế của
từng tỉnh hay đặc khu. Nơi nào mà tổng thu không đủ cho chi trả bảo hiểm
thất nghiệp thì chính quyền các tỉnh, đặc khu có quyền điều chỉnh việc thu chi
của nguồn quỹ cũng như sự hỗ trợ của quỹ đó.
- Quỹ trợ cấp thất nghiệp có thể chi trả cho các khoản: trợ cấp thất
nghiệp; hỗ trợ y tế trong thời gian nhận trợ cấp thất nghiệp; chi phí mai táng
và giám sát việc chuyển trợ cấp cho vợ (chồng) góa hoặc những người thân
trong trường hợp người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chết; tổ chức các
lớp đào tạo và dạy nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động trong
thời gian nhận trợ cấp thất nghiệp; các khoản chi phí khác liên quan tới bảo
hiểm thất nghiệp do Chính phủ quy định hoặc thông qua.
- Hiện nay, chi phí này chủ yếu được lấy từ các nguồn để đảm bảo một
mức sống tối thiểu cho người lao động bị mất việc. Riêng ở Thượng Hải,
chính quyền ở đây cho rằng việc cấp phát trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp không
đóng vai trò tích cực nên chỉ dùng 1/3 quỹ để trợ cấp, 1/3 để đào tạo lại và 1/3
để xúc tiến việc làm.
- Những người thất nghiệp sẽ được nhận trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp
nếu họ hội đủ các điêu kiến như: Đóng góp cho quỹ từ 1 năm trở lên bị thất
nghiệp ngoài ý muốn, có đăng ký thất nghiệp và có nhu cầu tìm việc trở lại.
Người thất nghiệp sẽ được tạo cơ hội tìm việc làm mới trong khi họ đang đ-
16
ược nhận trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, việc họ nhận trợ cấp bảo hiểm thất
nghiệp sẽ chấm dứt khi: Người thất nghiệp đợc tái tuyển dụng ở nơi khác; đ-
ược gọi phục vụ quân đội; di chuyển sang nước khác, từ chối nhận việc do cơ
quan có liên quan sắp xếp mà không đưa ra được lý do chính đáng Mức và
thời gian được nhận trợ cấp thất nghiệp thất nghiệp cũng tuỳ theo từng tỉnh và

địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể của từng nơi.
2.2 Tình hình triển khai bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường tình hình thất
nghiệp diễn biến phức tạp và có ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề kinh tế xã
hội mà trực tiếp là tâm lí người lao động. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
tiền tệ giai đoạn 1997-1998 tỷ lệ thất nghiệp lại có xu hướng tăng cao. Chính
vì vậy Đảng và nhà nước đã quyết định phải tiến hành BHTN. Và năm 2006,
Quốc hội nước ta đã thông qua Luật BHTN, trong đó có một chương về
BHTN. BHTN bắt đầu thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.
Hiện tại việc tổ chức BHTN ở Việt Nam được giao cho cơ quản BHXH
Việt Nam chủ trì, còn cơ quan quản lí nhà nước về BHTN là Bộ Lao động và
thương binh và xã hội.
Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp hiện đang được điều chỉnh cơ bản bởi Nghị
định số 127/2008 NĐ – CP được Chính phủ ban hành ngày 12/12/2008 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về
bảo hiểm thất nghiệp. Theo nghị định này :
•Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo khoản 3 Điều 2
Luật Bảo hiểm xã hội :
Theo điều 2 chương I nghị định này, người lao động tham gia bảo hiểm
xã hội là :
Là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao động , hợp đồng
làm việc sau : Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến
ba mươi sáu tháng; Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Hợp đồng
17
làm việc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng; Hợp
đồng làm việc không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển dụng
vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của nhà nước trước ngày Nghị định số
116/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ quy định về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp
nhà nước.

Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng có
giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động
quy định tại Điều 3 Nghị định này theo các loại hợp đồng quy định tại khoản
1 điều này không thuộc đối tượng tham gia BHTN.
•Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội: Là người sử dụng
lao động có sử dụng từ mười 10 người lao động trở lên tại các cơ quan, đơn
vị, tổ chức, doanh nghiệp : đơn vị Nhà nước; tổ chức chính trị xã hội; doanh
nghiệp thành lập theo luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư; các hợp tác xã thành
lập theo luật Hợp tác xã; các hộ kinh doanh cá thể; các doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động trển lãnh thổ Việt nam có sử dụng lao động là người Việt
Nam.
•Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp:
Được quy định tại điều 15 chương III, căn cứ theo Điều 81 Luật Bảo
hiểm xã hội, điều kiện được hưởng BHTN: Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ
mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc
làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động; Đã đăng ký với cơ quan lao động khi
bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc; Chưa
tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao
động
•Mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp:
Quy định tại điều 16 chương III:
18
Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền
lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước
khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian
làm việc có đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động và tổng thời gian
được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng được thực hiện theo quy định tại
khoản 2 Điều 82 của Luật Bảo hiểm xã hội : 03 tháng, nếu có từ đủ 12 đến
dưới 36 tháng đóng BHTN; 06 tháng, nếu có từ đủ 36 đến dưới 72 tháng đóng

BHTN; 09 tháng, nếu có từ đủ 72 đến dưới 144 tháng đóng BHTN; 12 tháng,
nếu có từ đủ một 144 tháng đóng BHTN trở lên.
•Hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm việc làm
Theo Điều 17, Chương III, việc tổ chức thực hiện hỗ trợ học nghề cho
người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện
thông qua các cơ sở dạy nghề. Mức hỗ trợ học nghề bằng mức chi phí học
nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề. Thời gian được hỗ
trợ học nghề không quá 6 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ
cấp thất nghiệp hằng tháng.
Điều 18, Chương III quy định , việc tổ chức thực hiện hỗ trợ tư vấn, giới
thiệu việc làm miễn phí cho người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp
do cơ quan lao động thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm.
Thời gian được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày người lao động
được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời gian mà
người lao động đó được hưởng trợ cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của
Luật BHXH.
•Thời điểm hưởng và thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp:
Điều 20,chương III quy định, Người lao động khi có đủ điều kiện hưởng
BHTN thì được hưởng các chế độ bảo BHTN tính từ ngày thứ 16 kể từ ngày
đăng ký
19
Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp quy định trong Nghị định này để
xét hưởng bảo hiểm thất nghiệp là tổng các khoảng thời gian đã đóng bảo
hiểm thất nghiệp được cộng dồn từ khi bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp cho
đến khi người lao động bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động
theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức mà chưa hưởng trợ cấp thất
nghiệp.
•Tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp
Theo điều 22, chương III, người lao động đang hưởng trợ cấp thất

nghiệp hằng tháng sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp khi không thông
báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc đang bị
tạm giam.
Việc tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ được thực hiện
vào tháng tiếp theo khi người lao động vẫn trong khoảng thời gian hưởng trợ
cấp thất nghiệp và tiếp tục thực hiện thông báo hằng tháng với cơ quan lao
động về việc tìm kiếm việc làm hoặc sau thời gian tạm giam, người lao động
vẫn trong khoảng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp.
•Chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Điều 23, Chương III, người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt
hưởng trợ cấp thất nghiệp trong các trường hợp sau: hết thời hạn hưởng trợ
cấp thất nghiệp; có việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự; hưởng lương hưu;
sau hai lần từ chối nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà
không có lý do chính đáng; không thông báo về tình hình việc làm với tổ chức
BHXH trong ba tháng liên tục; ra nước ngoài để định cư; chấp hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh hoặc chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng
án treo; bị chết.
20
•Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Theo điều 25, Chương IV, Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
do: Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN,
người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng
BHTN của những người lao động tham gia BHTN, Nhà nước hỗ trợ từ ngân
sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người
lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần.
Ngoài ra quỹ BHTN còn từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ và các
nguồn thu hợp pháp khác.
•Việc đăng ký và thông báo về tìm việc làm với cơ quan lao động
Theo điều 34, chương IV, Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày bị

mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc,
người lao động phải đến cơ quan lao động để đăng ký. Trong thời gian đang
hưởng trợ cấp thất nghiệp, hằng tháng, người thất nghiệp phải đến thông báo
với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm.
Ngoài ra nghị định còn nêu rõ về:Các chế độ BHTN; Thủ tục thực hiện
BHTN; Khiếu nại tố cáo về BHTN; Các điều khoản thi hành.
2.1. Tình hình thu tiền BHTN:
Theo quy định tại Điều 140 của Luật Bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm thất
nghiệp có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Sau 2 năm thực hiện bảo
hiểm thất nghiệp bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, theo BHXH
Việt Nam năm 2010 có 7.054.962 người tham gia BHTN, tăng 17,7% so với
năm 2009 về số thu đạt 4.864 tỷ đồng tăng 27,9% so với năm 2009, đưa tổng
quỹ bảo hiểm thất nghiệp lên 8.200 tỷ đồng.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đến hết năm 2010, có
145.519 người thất nghiệp có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp thường
xuyên; 2.772 người thất nghiệp đã có quyết định hưởng BHTN 1 lần; 114.809
người được tư vấn giới thiệu việc làm; 243 người được trợ cấp học nghề, đã
21
phần nào giảm đi gánh nặng về giải quyết thất nghiệp cho Nhà nước, góp
phần đảm bảo an sinh xã hội, tạo được lòng tin cho người lao động khi tham
gia BHTN. Tuy nhiên, so với số tham gia BHXH, BHYT bắt buộc hiện nay là
hơn 9,3 triệu người, thì số người tham gia BHTN nêu trên là còn quá khiêm
tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của nó, một bộ phận người lao động chưa
được đảm bảo đầy đủ quyền lợi của mình. Hơn nữa, bên cạnh những kết quả
đạt được, thực tế còn có những khó khăn, nhiều bất cập phát sinh:
•Các chủ sử dụng lao động né tránh đóng bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động:
Khác với BHXH, BHYT chỉ có người lao động và người sử dụng lao
động tham gia thì BHTN có sự chia sẻ của Nhà nước bằng việc hỗ trợ 1% quỹ
tiền lương, tiền công hàng tháng. So với BHXH, chủ sử dụng lao động phải

đóng 16% thì nghĩa vụ đóng góp của BHTN là không lớn, doanh nghiệp chỉ
trích 1% quỹ tiền lương, tiền công/tháng. Song với những đơn vị khó khăn,
nợ đọng BHXH kéo dài, việc hàng tháng phải trích thêm 1 khoản chi phí nữa
để đóng cho NLĐ là một vấn đề lớn. Ngoài ra, mặc dù đã được tuyên truyền
nhưng nhiều chủ sử dụng lao động vẫn chưa hiểu rõ quy định của pháp luật về
BHTN, có tâm lý ngại tiếp xúc với các thủ tục hành chính, vẫn còn tình trạng
doanh nghiệp nợ tiền đóng BHTN. Có đơn vị không đăng ký tham gia bảo
hiểm thất nghiệp cho một số người lao động với lý do đơn vị sử dụng lao
động tự coi người lao động đó là công chức hoặc đơn vị sự nghiệp không thực
hiện chế độ Hợp đồng làm việc mà vẫn duy trì hình thức quyết định tuyển
dụng, tự coi số lao động được tuyển dụng đó là công chức nên không đóng
bảo hiểm thất nghiệp.
•Người lao động thiếu thông tin và thói quen chỉ lo mưu sinh trước mắt:
Lao động Việt nam phần lớn là lao động trình độ trung bình thấp ít có
điều kiện được tiếp cận với thông tin nên không biết sự xuất hiện của các
chính sách của Chính phủ, không biết những quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
22
Hơn nữa, họ không được chủ sử dụng tạo điều kiện để tiếp cận đầy đủ các
chính sách về BHTN. Điều này càng tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp
có những hành vi né tránh, không đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Mặt khác, một bộ phận người lao động có tâm lý không thích tham gia
BHTN, bởi theo họ trong điều kiện giá cả ngày càng tăng, thu nhập không
tăng, nên không muốn đồng lương của mình bị hao hụt. Trên thực tế, nhiều
lao động vẫn nhầm lẫn mục đích của bảo hiểm thất nghiệp với trợ cấp mất
việc làm hoặc có nơi lao động tham gia đủ 12 tháng bảo hiểm thất nghiệp đã
xin nghỉ việc để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, sau khi lấy được tiền đã xin
trở lại làm việc.
2.2. Tình hình chi tiền BHTN:
Theo thống kê báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và xã hội, tính
đến ngày 1/3/2011: Số lượng đăng ký thất nghiệp: TP. Hồ Chí Minh là 59.142

người, Bình Dương 56.676 người, Đồng Nai 25.403 người, Hà Nội 4.192
người, Phú Thọ 1.104 người. Số người hưởng trợ cấp thất nghiệp: TP. Hồ Chí
Minh 50.148, Bình Dương 31.140, Đồng Nai 16.186, Hà Nội 3.910, Phú Thọ
821. Số tiền chi trợ cấp thất nghiệp: 210.974 triệu đồng, Bình Dương 95.606
triệu đồng, Đồng Nai 54.524 triệu đồng, Hà Nội 17.768 triệu đồng, Phú Thọ
2.463 triệu đồng. Số tiền chi học nghề: Hồ Chí Minh 65 triệu đồng, Bình
Dương 10 triệu, đồng Đồng Nai 1 triệu đồng, Hà Nội 57 triệu đồng. Theo báo
cáo của các địa phương về tình hình tiếp nhận và giải quyết các chế độ bảo
hiểm thất nghiệp trên toàn quốc, đến hết tháng 2/2011 có tới 225.675 số người
đăng ký, và 176.894 người đã có quyết định được hưởng bảo hiểm thất
nghiệp. Năm 2010, quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã chi trả trên 550 tỷ đồng.
Như vậy, so với thời gian đầu năm 2010, một số khó khăn, vướng mắc
trong việc thực hiện giải quyết, chi trả chế độ bảo hiểm thất nghiệp như: “tiếp
nhận khối lượng lớn hồ sơ, trả quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp thường
trễ hẹn, người lao động phải đi lại nhiều lần” đã phần nào được cải thiện. Tuy
23
nhiên, theo phản ánh của các địa phương thì thời gian đầu năm 2011 lượng
lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng nhanh, trong đó người
hưởng mức trợ cấp cao (trên 5 triệu đồng/tháng) đang có chiều hướng tăng.
Thị trường lao động phía Nam phát triển mạnh, luôn biến động, số lượng lao
động chuyển việc, nghỉ việc, thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động sau 12
tháng để hưởng trợ cấp thất nghiệp khá lớn. Đã xuất hiện tình trạng thất
nghiệp “ảo”, mặc dù đang trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng
thực tế vẫn đang làm việc tại doanh nghiệp khác, không khai báo cho cơ quan
lao động. Hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động, sau đó ít tháng lại
quay trở lại doanh nghiệp cũ để làm việc. Số lượng người thất nghiệp có nhu
cầu học nghề rất ít, nguyên nhân do thời gian học nghề không có tiền sinh
hoạt, danh mục học nghề chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt các tỉnh, thành
phố khu vực phía Nam việc làm dồi dào, tình trạng tuyển dụng trực tiếp tài
doanh nghiệp “tràn lan”, nhưng người lao động có tư tưởng nghỉ ngơi, hưởng

trợ cấp thất nghiệp sau đó đi làm nên ít có nhu cầu tư vấn hoặc học nghề.
Thời hạn đăng ký thất nghiệp trong 7 ngày là quá ngắn, gây sức ép về thời
gian cho cả người lao động, cơ quan BHXH và Trung tâm giới thiệu việc làm.
Mặt khác, đơn vị sử dụng lao động chưa tuân thủ đúng quy định pháp luật lao
động, cố tình chậm trễ trong quá trình hoàn thiện hồ sơ, giấy tờ của người lao
động hoặc tình trạng nợ đóng BHXH, BHTN làm khó khăn cho việc chốt sổ
BHXH.
24
2.3.Tình hình giới thiệu việc làm cho người lao động thất nghiệp
hưởng BHTN:
Theo thông tư 32 do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành ngày
25/10/2010 , Người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được Trung tâm
Giới thiệu việc làm tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí. Việc hỗ trợ tìm việc
làm phải phù hợp với trình độ đào tạo, kinh nghiệm làm việc của người lao
động. Thời gian người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được Trung
tâm Giới thiệu việc làm hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày người
lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời
gian mà người lao động đó được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quyết định
của Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội.
Theo thống kê đến hết ngày 31/12/2010 của Tổng cục thống kê cho ,
lực lượng lao động trong độ tuổi của nước ta năm 2010 khoảng 46,21 triệu
người, tăng 2,12% so với năm 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là
2,88%, giảm 0,02% so với 2009. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị
năm 2010 là 4,43%, giảm 0,17%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là
2,27%, tăng 0,02% so với năm 2009. Tính đến ngày 1/3/2011, theo khảo sát
chương trình phối hợp giữa Cục Việc làm (Bộ LĐTBXH) và Ban Thực hiện
chính sách BHXH (BHXH Việt Nam) khảo sát tình hình thực hiện chế độ
bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đã tiến hành khảo sát tại 5 tỉnh, thành phố: Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Phú Thọ và Hà Nội,Số lượt người được tư
vấn, giới thiệu việc làm: TP. Hồ Chí Minh 11.733 người, Bình Dương 30.241

người, Đồng Nai 11.217 người, Hà Nội 3.693 người, Phú Thọ 3.291 người.
Kết quả cho thấy, số người được tư vấn giới thiệu việc làm các tỉnh có sự
khác nhau, TP Hồ Chí Minh bình quân 5 lượt người/1 lần tư vấn, riêng Phú
Thọ lên tới 1 lượt người có 3 lần tư vấn. Bên cạnh đó, có những khó khăn
trong việc giới thiệu việc làm như: Trung tâm giới thiệu việc làm mỏng, trang
25

×