Giáo viên
Giáo viên
:
:
Đơn Vị:
Năm Học: -
1. Lý do chọn đề tài:
Việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giờ dạy học, các phương pháp dạy
học để kéo người học ra khỏi trạng thái thụ động, tích cực tham gia làm cho việc học,
giờ học trở nên thích thú và hiệu quả hơn, là một mong muốn không riêng bất kỳ
người giáo viên nào.
Câu tục ngữ: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một
làm”. Chính là sự thể hiện tuyệt vời của phương pháp dạy học tích cực mà ngày nay
chúng ta đang trang bị, chia sẻ cho nhau. Mục đích là thực hiện được giờ giảng theo
hướng hiện đại và hơn hết là giờ giảng hiệu quả, mang lại hạnh phúc cho cả người dạy
lẫn người học.
Việc thực hành phương pháp dạy tích cực đòi hỏi phải xây dựng một quan hệ
tốt giữa người học và giáo viên - thông qua các phương pháp dạy tích cực người giáo
viên phải có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm, kỹ năng và văn hóa giao tiếp tốt.
Chưa kể là việc dạy và học phải có liên hệ với thực tế … Cách dạy này thực sự là một
áp lực nhưng là một áp lực tích cực nhằm khuyến khích, nâng cao chất lượng dạy và
học.
Môn Giáo dục công dân là môn trực tiếp trang bị cho học sinh một cách tổng
quát về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, hiểu biết và thực hiện pháp luật trong
đời sống. Nhiệm vụ của chúng ta là dạy học. Nhiệm vụ của học sinh là học những gì
chúng ta dạy vì lợi ích thực tiễn của việc học mang lại cho mỗi con người mà ai cũng
biết.
Khi chúng ta thay đổi, các em sẽ thay đổi và cả thế giới sẽ thay đổi theo. Việc
chúng ta sử dụng phương pháp dạy học tích cực là đã “chuyển mình” trong việc “dạy
sao” cho học trò thích học. Chúng ta đã cho bản thân và đồng nghiệp một phương
pháp dạy mở, tức là tùy vào bài học, tình hình học sinh của từng lớp mà chúng ta có
“cách dạy” sao cho thích hợp, lôi cuốn học sinh cùng tham gia vào tiết học, ngay từ
bài học, phút học đầu tiên.
2. Cơ sở lý luận của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong môn giáo
dục công dân lớp 12
2
a. Giải thích các khái niệm
* Phương pháp và phương pháp dạy học
+ Phương pháp la thuật ngữ từ tiếng Hy Lạp “methodos”, có nghĩa là con
đường, cách thức vận động của sự vật hiện tượng nhằm đạt được mục đích. Nghĩa
chung nhất của phương pháp thường được hiểu là cách thức, phương tiện, giải pháp
được chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất định. Còn theo nghĩa khoa học,
phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật
khách quan để điều chỉnh hoạt động, nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu nhất định. Như vậy có thể hiểu phương pháp là sự đúc kết kinh nghiệm, là
khoa học và còn là nghệ thuật sáng tạo mang đậm dấu ấn của chủ thể trong việc lựa
chọn và sử dụng các phương pháp trong từng trường hợp cụ thể.
Phương pháp luôn gắn với hoạt động có ý thức của co.n người, là hình thức thể
hiện nội dung hoạt động. Mỗi nội dung cần có một hình thức thể hiện khác nhau để có
thể là một “cặp đôi” hoàn chỉnh, đặc trưng cho hoạt động đặc biệt là hoạt động dạy
học.
Nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII René Descartes nhấn mạnh nếu thiếu phương
pháp trong hoạt động thì người có tài cũng không thể đạt kết quả, còn nếu có phương
pháp đúng thì người bình thường cũng làm được việc phi thường.
+ Phương pháp dạy học: Dạy học là hoạt động được đặc trưng bởi quá trình
giảng dạy của giáo viên và quá trình học tập của học sinh thông qua một phương pháp
đặc thù gọi là phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là việc sử dụng hệ thống
phương pháp giảng dạy và việc sử dụng phương pháp học tập nhằm thực hiện mục
đích, yêu cầu học tập đề ra phù hợp với cấp học, người học chương trình học cụ thể đã
được xác định.
3
Phương pháp dạy học không vì mục đích tự thân của nó, cũng không được rút
ra từ ý muốn chủ quan của người dạy, mà phương pháp dạy học được quy định bởi nội
dung, đặc điểm kiến thức của từng bộ môn, từng bài học, người học … Việc sử dụng
phương pháp dạy học nào phải được người giáo viên lựa chọn để tổ hợp thành cách
thức hoạt động của thầy và trò trong quá trình dạy học, lĩnh hội kiến thức dưới sự chỉ
đạo của người thầy ngằm thực hiện nhiệm vụ học.
Phương pháp dạy học quyết định đến sự thành công của quá trình dạy học: Mục
tiêu bài học có đạt được hay không, các yêu cầu về kiến thức, về kỹ năng, tư tưởng và
năng lực nhận thức. Phương pháp dạy học kết hợp với nghiệp vụ chuyên môn cao, kỹ
năng giao tiếp … làm cho học sinh yêu thích giờ học, môn học và vận dụng những
điều đã học vào cuộc sống. Phương pháp dạy học tạo nên giá trị, dấu ấn về người thầy
trong lòng học sinh … rất khó phai mờ.
* Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực, hay phương pháp giáo dục chủ động, phương
pháp sư phạm hiện đại … là những cách gọi để chỉ những phương pháp, cách thức, kỹ
thuật đề cao chủ thể nhận thức, chủ yếu phát huy tính tự giác, nhiệt tình chủ động của
người học, làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, người học được tham gia làm
việc, được sáng tạo … giải quyết các vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình,
đề xuất ý kiến, tự nguyện trình bày hay tham gia tranh luận trước tập thể và người dạy.
Thực chất phương pháp dạy học tích cực là hướng tới khả năng chủ động, sáng
tạo của người học chứ không phải hướng tới việc phát huy tính tích cực của người d.
người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự
học độc lập suy nghĩ thông qua việc thảo luận, thí nghiệm, thực hành, thâm nhập thực
4
tế theo mục tiêu, nội dung của bài học, người thầy là người tổng hợp hoạt động, ý kiến
của người học để xây dựng nội dung bài học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực giờ giảng của một giáo viên
trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò uy tín
của người thầy được đề cao hơn. Nhờ áp lực của phương pháp dạy học tích cực, khả
năng chuyên môn của người thầy sẽ phải tăng lên bởi kiến thức của từng nội dung bài
học phải được cập nhật liên tục để đáp ứng những tình huống, câu hỏi của người học
trong thời đại thông tin mở rộng và mới mẻ.
Mối quan hệ giữa thầy trò sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp khi cùng làm việc với
nhau, cùng giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung và cuộc sống của người
học.
Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực người học sẽ thấy học được
học chứ không bị học. Người học được làm việc, được nói, chia sẻ những kiến thức
kinh nghiệm của mình song song với bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ người dạy,
bạn bè. Cách học này làm tăng khả năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tế gấp nhiều lần
so với cách học truyền thống. Từ đó người học được tự tin khám phá năng lực của bản
thân mình, có trách nhiệm, biết chia sẻ và tìm thấy vị trí, giá trị của bản thân với cộng
đồng.
Charles Handy, nhà triết lý kinh doanh nổi tiếng người Anh đã nói: “Để làm
cho tương lai trở thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị
của chính mình. Đó là điều mà các trường học phải dạy cho mọi người”.
Chỉ khi người học tự mình khám phá kiến thức, tự học, tự làm, tự bổ sung cho
nhau thì kiến thức mới trở thành tri thức của người học, chuyển thành hành động, thói
quen hàng ngày của họ.
5
Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực, quan hệ thầy trò trong việc dạy và
học cũng đổi khác. Người học trở nên chủ động trong việc học; chủ động tìm kiếm
kiến thức, có thể thu nhận kiến thức không phải chỉ từ người thầy mà còn từ nhiều
nguồn khác nữa. Người thầy trở nên quan trọng hơn vì giữa biển tri thức mênh mông,
điều gì cần gạn lọc, sử dụng và ứng dụng chúng vào cuộc sống, vào công việc, như thế
nào … Tất cả những điều ấy đều cần đến sự hướng dẫn của người thầy. Sự thay đổi
quan hệ thầy trò trong việc dạy và học này yêu cầu người học cần hiểu rõ mình là ai,
mình muốn là người như thế nào sau này và điều gì cần học và muốn học cái gì …
Người dạy càng phải phấn đấu, tu dưỡng nhiều hơn, tự học, tự sáng tạo để có thể đảm
nhận và xứng đáng trong vai trò mới mà sự phát triển của ngành giáo dục đòi hỏi.
Những đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là:
Thứ nhất: Dạy học lấy người học làm trung tâm
Vì lẽ cơ bản, học sinh là đối tượng của hoạt động giáo dục, của dạy học, nhà
trường tồn tại là vì học sinh. Bằng hoạt động học tập, người học tự hình thành và phát
triển nhân cách của mình, không ai có thể làm thay được. Vị trí trung tâm của học sinh
trong quá trình học tập cần phải đặt đúng vị trí của nó như đã vốn có. Việc phát huy
tính chủ động, tích cực, khơi dậy tài năng của mỗi một cá nhân học sinh có ý nghĩa
không phải chỉ hôm nay mà còn là hành trang cho các em bước vào cuộc sống sau này
… Làm được điều này chỉ có thể là mọi hoạt động giáo dục - trong đó trọng tâm là
việc dạy học, phải được tiến hành có kế hoạch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của người giáo
viên.
Thứ hai: Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Kế hoạch học tập, bài giảng phải được thiết kế trước trong giáo án chứ không
phải thực hiện một cách ngẫu hứng, tùy tiện. Người dạy phải thông báo cho học sinh
6
vào cuối buổi học những công việc cần chuẩn bị cho giờ học kế tiếp, phân công nhiệm
vụ rõ ràng, để người học phải có tâm thế chuẩn bị, tham gia và hợp tác. Trong khi tiến
hành giờ học, người dạy phải linh hoạt thay đổi các hoạt động cho phù hợp với thực tế
giờ học và nội dung bài học, Nhằm kích thích người học hoạt động tích cực, tạo sự
hưng phấn cho giờ học. Có như thế, mục tiêu dạy học, bài học mới được đảm bảo
thành công.
Thứ ba Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học trong dạy học
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta “Về việc học phải lấy tự học làm cốt”.
Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học, khả năng phát
hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Phương pháp tự học hướng
đến việc khơi dậy khả năng suy nghĩ, làm việc, nắm bắt kỷ cương và con đường đi đến
kiến thức mới. Muốn làm được điều này học sinh buộc lòng phải làm việc nhiều hơn
với sách vở (giáo khoa và sách tham khảo), làm bài tập, tự học ở ngoài trường và lớp
… kết hợp với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên bộ môn. Bồi dưỡng khả năng tự
học chính là sự chuẩn bị cần thiết cho khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn trong
việc làm, thực tế sau này của người học, giúp họ có thể tự tin hòa nhập, tự vượt qua
những áp lực, khó khăn, hướng đến tương lai của bản thân và sự phát triển của tập thể
mà họ là thành viên.
Thứ tư: Hoàn thiện học của cá nhân phối hợp với học tập hợp tác tập thể.
Những tri thức mà học sinh khám phá dễ mang tính chủ quan, phiến diện, do
vậy các em cần trao đổi, hợp tác tri thức cá nhân được kiểm nghiệm tăng tính khách
quan và khoa học. Đồng thời tạo thói quen giao tiếp, khả năng thuyết phục, lắng nghe,
nói trước đám đông … ý thức hợp tác, chia sẻ và tính kỷ luật …
7
Dạy học thông qua hợp tác tạo nên quan hệ bình đẳng giữa người học và môi
trường học tập an toàn là điều kiện để xây dựng tình bạn, tính cạnh tranh lành mạnh,
thói quen chia sẻ, tính trách nhiệm. Xây dựng quan hệ thầy - trò - bạn bè tốt đẹp không
chỉ lúc còn đi học mà cả trong cuộc sống và công việc sau này.
Thứ năm: Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò
Trong quá trình dạy học, đánh giá học sinh là rất quan trọng để giáo viên nắm
bắt được thực trạng học tập của học sinh và điều chỉnh việc dạy sao cho phù hợp hơn,
đạt kết quả cao hơn. Với phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học
sinh biết tự đánh giá khả năng, sự hiểu biết của mình để điều chỉnh việc học; giáo viên
phải tạo điều kiện thuận lợi để người học được tham gia, và biết cách đánh giá bản
thân. Thông qua việc đánh giá khích lệ nhau, nhận ra được ưu điểm và hạn chế của
từng cá nhân để khắc phục, đánh giá việc học tập phải dựa trên tiêu chuẩn văn hóa
đánh giá tức là tìm ra được ưu điểm và đề nghị được giải pháp sửa chữa khuyết điểm
… Có làm được điều này thì phương pháp dạy học tích cực với đặc trưng thứ năm là
đánh giá việc học - người học mới thực sự có ý nghĩa!
Tuy nhiên khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực chúng ta cũng gặp
một số trở ngại như: Lớp học đông không áp dụng được phương pháp mới, người học
lười phát biểu, thụ động, sợ không đủ thời gian, cháy giáo án. Người học thì e dè, ngại
làm việc, chỉ thích nghe ghi, ngại đứng dậy phát biểu trước lớp, sợ thầy áp dụng
phương pháp mới, kiến thức không được cô đọng lại rõ ràng mà thi lại tiến hành theo
kiểu học cũ … Để khắc phục những trở ngại này phải có thời gian để người dạy thực
hành và rút kinh nghiệm … Trước mắt có thể thực hiện những điều sau để có giờ
giảng thành công như:
8
Tìm hiểu kỹ về người học, đặc biệt là nhu cầu, mong đợi của họ đối với môn
học của mình phụ trách để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Chuẩn bị kỹ bài giảng: Chọn thông điệp ý nghĩa nhất để chuyển tải nội dung.
Tốt nhất bài giảng nên tuân theo quy tắc số 3: Chia bài giảng thành 3 phần, mỗi phần 3
ý … cùng với các ví dụ, tư liệu minh họa cụ thể, sinh động.
Giao tiếp với người học: Tôn trọng và là người bạn cùng với thái độ thân thiện,
lịch sự, nhẹ nhàng, sự khuyến khích sẽ cho người thầy rất nhiều cơ hội để mở rộng tâm
hồn và trí tuệ của người học …
Rút kinh nghiệm sau từng giờ giảng. Về nội dung bài giảng, phong cách, ứng
xử của giáo viên … Bằng cách xin nhận xét của học trò qua phiếu không ghi tên …
Điều cuối cùng, chúng ta cần nhớ là học phương pháp nhưng không phụ
thuộc vào phương pháp. Tất cả sự thành công của giờ học và nhiều giờ học tiếp
nối sẽ được quyết định bởi bản lĩnh, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tấm lòng
của người giáo viên có duyên với nghề dạy học.
b. Phương pháp dạy học tích cực thường được vận dụng trong chương
trình Giáo dục công dân lớp 12:
Hiện nay có rất nhiều biện pháp để thực hiện phương pháp dạy học tích cực, có
thể sử dụng vào tất cả các bài dạy trong chương trình giáo dục công dân ở cấp trung
học như:
- Biện pháp kích thích động não.
- Biện pháp xử lý tạo tình huống.
- Biện pháp thảo luận nhóm.
- Biện pháp đóng vai.
- Biện pháp vấn đáp (đàm thoại)
9
- Biện pháp nêu vấn đề.
Không biện pháp nào được coi là tối ưu cho cả một bài học, tiết học. Do đó việc
lựa chọn, kết hợp và sử dụng biện pháp nào là phụ thuộc rất lớn vào vai trò Người thầy
– Mục đích là trao kiến thức, tránh nhàm chán và tạo nên sự yêu thích. “Dạy học là
phải chạm được vào tâm hồn và trái tim người học”.
+ Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực trong môn giáo dục công dân lớp 12.
- Cơ sở triết học: Theo quan điểm triết học Mác Lênin, bản chất con người là
tổng hòa mối quan hệ xã hội. Trong các yếu tố hình thành nên bản chất con người,
giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy để phát triển bản chất con người theo
hướng tích cực cần tạo ra hoàn cảnh môi trường tự nhiên và môi trường xã hội có thể
tác động đến con người, giúp con người được giáo dục theo nhiều phương diện khác
nhau, từ hoạt động nhận thức thực tiễn đến quan hệ ứng xử, điều chỉnh hành vi …
Tóm lại là các khả năng hướng đến sự phát triển toàn diện của người công dân mới
theo yêu cầu của xã hội.
Giáo dục công dân là môn học có đặc điểm tri thức mang tính khái quát hóa và
trừu tượng cao. Chương trình giáo dục công dân tập trung khá nhiều nội dung liên
quan đến các phân môn khác, chứa đựng kiến thức các môn khoa học khác nhau. Ở
trường trung học phổ thông môn giáo dục công dân trực tiếp trang bị cho học sinh một
cách tổng quát về nhận thức tư tưởng chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật. Mục tiêu
này hình thành nội dung cơ bản của sách giáo khoa các cấp học; là môn học được xem
là “khó, khô, khổ” đối với cả người dạy lẫn người học, do đó việc giáo viên biết sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực để đưa những nội dung rất khái quát ấy vào
thực tiễn đời sống giúp học sinh tiếp cận, nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản môn
10
giáo dục công dân để dần dần hình thành cho bản thân thế giới quan đúng đắn và
phương pháp luận khoa học, giúp học sinh nâng cao hiệu quả quá trình hoạt động nhận
thức và thực tiễn của bản thân.
- Cơ sở tâm lý giáo dục học:
Đối với môn giáo dục công dân “mục tiêu dạy người” luôn được xác định là
quan trọng nhất, luôn ở vị trí hàng đầu trong việc định hướng, phát triển nhân cách,
tâm hồn của học sinh. Mỗi học sinh là một chủ thể của sự phát triển nhân cách, phát
triển xã hội. Trong giai đoạn hiện nay vì nguyên nhân khác nhau, tình trạng suy thoái
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên đã đặt ra cho xã hội
và ngành giáo dục (đặc biệt là ở bộ môn giáo dục công dân) phải có những biện pháp,
giải pháp để góp phần điều chỉnh những suy nghĩ, nhận thức, hành vi lệch chuẩn đó.
Với những kết quả nghiên cứu tâm sinh lý và điều tra xã hội học gần đây cho
thấy ở lứa tuổi trung học, học sinh không thỏa mãn với vai trò người tiếp thu thụ động,
chấp nhận giải pháp có sẵn mà các em có ham muốn, một yêu cầu là được lĩnh hội độc
lập các tri thức và được phát triển kỹ năng cá nhân. Đó là một yêu cầu đặt ra cho
ngành giáo dục nói chung và môn giáo dục công dân nói riêng. Chỉ có thay đổi
phương pháp dạy học tích cực mới có thể phát huy những điểm mạnh và hạn chế
những điểm yếu về đặc điểm tâm sinh lý của học sinh bậc trung học, mang lại hiệu quả
dạy học cao hơn, tạo sự yêu thích, thoải mái cho cả người dạy lẫn người học.
Luật giáo dục, điều 28, khoản 2, 2005 chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
11
Do vậy, cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới tạo thói quen chủ động học
tập, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo. Người học sinh được rèn luyện,
tu dưỡng có thể tự tin, nhạy bén trước những thay đổi của cuộc sống, cuộc đời, giúp
ích, giúp sức cho bản thân học sinh là sự phát triển của xã hội.
Chương trình giáo dục công dân với tên gọi “Công dân với pháp luật”, đây là sự
phát triển tiếp nối phần pháp luật ở môn GDCD cấp trung học cơ sở, cung cấp những
hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò, vị trí của pháp luật nhằm giúp học sinh chủ động,
tự giác điều chỉnh hành vi của mình, đánh giá được hành vi của người khác theo quyền
và nghĩa vụ của người công dân trong xã hội dân chủ và công bằng.
Nhiệm vụ môn GDCD lớp 12 là nhận biết được vai tò và giá trị cơ bản của
pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi công dân xã hội và nhà nước. Hiểu
được một số nội dung của pháp luật liên quan đến việc thực hiện và bảo vệ quyền bình
đẳng - tự do - dân chủ và phát triển của công dân trong đời sống.
Nội dung học phần lớn đã gắn kết thực sự với thực tế đời sống xã hội. Mục đích
của dạy học là nhằm tạo ra sự nhất quán giữa nhận thức và hành động, lời nói và hành
vi. Do vậy, việc người giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực chính là
những thực hành bước đầu để gắn lý thuyết về những chuẩn mực người công dân cần
đạt tới với đời sống sinh động được kiểm chứng và khẳng định. Có thế nội dung bài
học không còn là những tri thức xa xôi, khô khan mà là những kiến thức, tình huống,
bài học từ cuộc sống sinh động gắn bó mà các em có thể nhìn thấy trong cuộc sống
hàng ngày.
+ Ba phương pháp dạy học tích cực thường được sử dụng nhất trong dạy
học môn giáo dục công dân lớp 12:
12
* Phương pháp động não: là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời
gian ngắn nảy sinh được những ý tưởng hay giả định về một vấn đề nào đó.
Trong môn giáo dục công dân, phương pháp này được dùng để giới thiệu chủ
đề của bài học trên cơ sở so sánh và lựa chọn kết quả trả lời của học sinh hoặc dùng để
thu thập vác phương án giải quyết vấn đề có liên quan đến nội dung bài học đã được
nêu ra trước đó.
Phương pháp động não, hướng đến mục đích phát triển người học những phẩm
chất hoạt động độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Mặt khác kết quả của hoạt động
động não là những ý tưởng, giải pháp mới mẻ của người học, phương pháp này tạo
thói quen độc lập suy nghĩ cho người học và người dạy, qua đó có thể thu thập được
thêm những điều bổ ích, ý tưởng mới.
Phương pháp động não có thể được tiến hành theo trình tự sau:
- Giáo viên nêu chủ đề hoặc câu hỏi trước lớp hoặc nhóm
- Đề nghị người học đặt câu hỏi.
- Thu thập câu hỏi, câu trả lời.
- Khuyến khích học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả các ý kiến lên bảng hoặc giấy khổ lớn, không bỏ sót ý kiến
nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến, làm rõ những ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
+ Ưu điểm của phương pháp động não là:
Giáo viên dễ dàng soạn câu hỏi, dễ thực hiện không tốn kém, đồng thời huy
động được tối đa trí tuệ của tập thể trong quá trình tìm kiếm thông tin của câu trả lời.
13
Tạo được không khí sôi nổi, vui vẻ nhờ thái độ tham gia phản hồi một cách tích cực
của người học, sự di chuyển của giáo viên trong lúc hỗ trợ các nhóm, cá nhân làm việc
…
+ Nhươc điểm của phương pháp động não là:
Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông, học sinh thụ động, ít quan tâm,
các ý kiến trả lời có thể nhiều trùng lắp, tản mạn hoặc lạc đề. Hiệu quả của phương
pháp động não chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp ý tưởng chứ chưa bồi dưỡng được
năng lực tư duy phân tích, chứng minh hay tổng hợp của học sinh.
+ Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp động não là:
Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và quản lý được thời gian theo phân phối nội
dung:
Câu hỏi phải ngắn, gọn rõ ràng, không quá rộng hay quá hẹp không nhằm mục
đích cung cấp kiến thức cơ bản mà hướng đế mở mang và đào sâu kiến thức.
Giáo viên phải chủ động điều khiển buổi học, là người tổng kết câu hỏi và câu
trả lời, ghi tóm tắt kiến thức chuẩn lên bảng hoặc giấy khổ lớn để học sinh theo dõi
tiến trình bài học. Tiếp tục chuyển ý vào nội dung tiếp theo của bài học.
* Phương pháp thảo luận nhóm:
Đây là phương pháp hữu hiệu nhất để khuyến khích sự sáng tạo và tích cực
tham gia của mọi thành viên. Học sinh sẽ chủ động chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý
kiến để giải quyết vấn đề được đặt ra, qua đó đạt mục đích dạy học. Học sinh sẽ hưởng
ứng, nhiệt tình, hợp tác, thu được kết quả kích thích tư duy sáng tạo và tạo điều kiện
để các em thể hiện mình.
Phương pháp thảo luận nhóm có thể tiến hành theo trình tự sau:
- Giáo viên nêu chủ đề, yêu cầu, quy định thời gian thực hiện
14
- Chia nhóm từ 4 đến 10 người theo cách ngẫu nhiên hay thuận tiện theo điều
kiện lớp học. Gọi tên nhóm (để tạo bầu không khí nhóm tự đặt hay giáo viên
chỉ định)
- Cử trưởng nhóm, thư ký và thực hiện công việc của nhóm. Ghi chép (giấy
khổ lớn hay cử người trình bày trước tập thể)
- Giáo viên tổng kết, bổ sung.
Ưu điểm của phương pháp làm việc nhóm:
Chủ đề được xác định rõ, địh hướng nhiệm vụ của nhóm. Đưa ra được giải
pháp, lời kêu gọi hành động từ kết quả hoạt động của nhóm.
Mọi thành viên của nhóm đều phải hoạt động và nhận kết quả đánh giá chung
của giáo viên trên cơ sở kết quả đã đạt được và có sự so sánh với nhóm khác. Kiến
thức trở nên bền vững, bớt tính chủ quan, học sinh biết lắng nghe và phê phán để bảo
vệ ý kiến của mình, của nhóm.
Nhược điểm
Đòi hỏi tốn nhiều thời gian, người học phải rất tập trung và có tinh thần trách
nhiệm với tập thể cao. Thời gian 45 phút của một tiết học là một khó khăn lớn cho sự
thành công của phương pháp làm việc nhóm.
Nếu tổ chức kém (nhất là cộng thêm lớp học yếu, mất trật tự, học sinh quá hiếu
động thì thảo luận nhóm chưa được tập luyện dễ gây hỗn loạn (ngay trong một nhóm
hay giữa các nhóm nhau) dẫn đến học sinh không quan tâm, làm việc riêng hay phát
sinh sự mâu thuẫn, đối địch và giận dữ.
Sự hăng hái hay thụ động quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự quản
lý, điều khiển của giáo viên.
Yêu cầu đối với người giáo viên khi sử dụng phương pháp làm việc nhóm là:
15
- Giáo viên phải kết nối được ý kiến của các nhóm.
- Là người phân tích, nhận xét (chứ không phê phán) ý kiến của các nhóm. Cần
thiết sẽ là người dung hòa các ý kiến của các nhóm trái ngược, xây dựng khối đoàn
kết, chỉ ra định hướng yêu cầu của từng nhóm để không sa đà)
- Là người kiểm soát thời gian, không để nội dung bị lặp lại (nhóm thuyết trình,
nhóm khác lắng nghe, bổ sung, trưng bày áp phích, mô hình) …
- Là người tổng kết thảo luận nhóm, nhận xét và rút kinh nghiệm về kết quả
thảo luận, đáp ứng yêu cầu của bài học, thời gian … và nếu hoạt động nhóm chưa
mang lại kết quả như mong muốn thì phải giúp học sinh các lỗi đã mắc phải để lần
thảo luận sau làm tốt hơn.
- Giáo viên cần trang bị kỹ năng giao tiếp (sự thân thiện, thái độ tôn trọng lịch
sự, sẵn sàng hỗ trợ chia sẻ với tất cả các nhóm).
- Kỹ năng tổ chức, phân công và điều hành.
* Phương pháp đóng vai:
Là phương pháp dạy học tích cực và “đặc biệt” vì đây là phương pháp gây sự
chú ý và thu hút người học tham gia vào bài giảng, tạo bầu không khí sôi nổi, sinh
động, người dạy và người học trở nên thân thiện, gần gũi, giờ giảng trở nên hiệu quả
hơn.
Đây là phương pháp sử dụng lúc mở đầu bài giảng hay neo chốt kiến thức, giúp
người dạy và người học luyện tập ứng xử với mục đích là thực hành trao đổi những vai
trò có thực trong cuộc sống. Giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc, tập trung vào một sự kiện
cụ thể mà người học vừa thực hiện hoặc quan sát. Việc “diễn” không phải là phần
chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận rút ra nội dung bài học
sau phần diễn ấy.
16
Phương pháp đóng vai có thể được tiến hành theo trình tự sau:
Giáo viên có nêu chủ đề tình huống trước cho các nhóm chuẩn bị hay nêu khi
bắt đầu giờ học, trong đó nêu rõ quy định về thời gian chuẩn bị, thời gian diễn …
Các nhóm thảo luận về công tác chuẩn bị và tiến hành kịch bản của vai diễn.
Lớp thảo luận, nhận xét, thường là bắt đầu từ khả năng diễn xuất, ứng xử của
nhân vật trong tình huống vở diễn nhưng sẽ mở rộng sang vấn đề gắn với bài học giáo
viên tổng hợp các ý kiến và kết luận.
Ưu điểm của phương pháp đóng vai:
Học sinh được rèn luyện thực hành kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ của mình
khi thực hành ứng xử tyrong thực tiễn.
Bộc lộ khả năng sáng tạo, linh hoạt khi đóng vai (giả trang, thay đổi giọng nói,
tính cách theo nhân vật)
Tạo ra sự tập trung, tính trách nhiệm trong vai diễn của người diễn theo hướng
tích cực tự giác. Khuyến khích các em có khả năng đóng kịch và yêu thích bộ môn
nghệ thuật này trong thực tế, định hướng nghề nghiệp tương lai.
Thay đổi thái độ hành vi ứng xử của các em trong thực tế theo hướng tích cực,
tự giác. Đó là những dấu ấn “khai hóa” tâm hồn các em, khơi dậy tình bè bạn mà
người dạy có thể làm được qua vai diễn của học sinh.
Nhược điểm của phương pháp sắm vai:
Phương pháp sắm vai chỉ mang lại hiệu quả thực sự với phòng học, diễn rộng,
học sinh mạnh dạn, kịch bản tốt, có sự chuẩn bị của học sinh và ý kiến trợ giúp của
giáo viên - nếu đề tài được chuẩn bị trước buổi học. Vì đa phần các em đều “nghĩ sao
làm vậy”, rất đơn sơ!
17
Giáo viên sẽ mất nhiều thời gian nếu không có kinh nghiệm tổ chức hoặc học
sinh quá thụ động nhút nhát.
Thưa quý đồng nghiệp, thực tế không có một phương pháp dạy học tích cực nào
tối ưu để có thể vận dụng trong suốt một buổi học hay giờ học, do đó tùy vào điều kiện
yêu cầu của bài học, đối tượng học, phương tiện dạy học mà chúng ta có thể sử dụng
kết hợp các phương pháp và điều quan trọng là có sử dụng phương pháp nào thì giáo
viên vẫn phải là người chủ đạo, chủ động, dẫn dắt người học chạm đến tri thức và trở
thành những người chủ tri thức tương lai thực sự.
+ Giới thiệu chi tiết một phương pháp dạy học tích cực áp dụng vào giờ học
lớp 12 môn Giáo dục công dân
Phương pháp thảo luận nhóm
Ngoài phần chung cần lưu ý trong phương pháp thảo luận nhóm như phần đầu
đã trình bày. Để có thể thực hiện phương pháp thảo luận nhóm thành công, chúng ta có
thể thực hiện như sau:
- Xác định mục đích của phương pháp thảo luận nhóm
Khuyến khích sự tham gia của học sinh vào bào học theo nhóm.
Học sinh phải chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến cá nhân để xây dựng bài
học, trình bày quan điểm cá nhân, tranh luận để bảo vệ chính kiến của cá nhân của
nhóm theo mục tiêu bài học.
Rèn luyện kỹ năng trao đổi, hợp tác, sáng tạo và hoạt động tập thể của các
thành viên trong nhóm.
- Xác định nội dung thảo luận nhóm
+ Xác định chủ đề, nội dung:
18
Chủ đề, nội dung càng gợi sự tranh luận càng mang tính thời sự càng tốt. Bám
sát mục tiêu bài giảng, phù hợp với học sinh cấp học, càng ngắn gọn càng tốt.
- Cách thức tổ chức thực hiện thảo luận nhóm
1. Chuẩn bị nội dung làm việc nhóm
2. Giao nhiệm vụ nhóm và chia nhóm
3. Người học làm việc nhóm
4. Trình bày kết quả làm việc nhóm
5. Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá
* Gợi ý chi tiết thực hiện các bước:
1) Chuẩn bị nội dung làm việc nhóm: số lượng chủ đề, mục tiêu bài học,
các gợi ý (nếu có)
2) Giao nhiệm vụ nhóm và chia nhóm
Ghi rõ nhiệm vụ lên bảng, giấy, gọi tên giao nhóm thực hiện
(Ví dụ: Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (4 tiết)
Tiết 1: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
Nhiệm vụ của nhóm:
Chủ đề: Bắt người khẩn cấp trong trường hợp nào? Ai là người có thẩm quyền
ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp? Ý nghĩa quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân?
Thời gian: 10 phút
Phương tiện: Giấy A
0
, bút dạ (viết to, rõ ràng) (Mẫu: Bảng giao nhiệm vụ
nhóm))
Quy định thời gian làm việc nhóm (thời gian bắt đầu và kết thúc) thời gian trình
bày trước lớp.
19
Quy định sơ đồ vị trí ngồi làm việc của từng nhóm.
Chia nhóm: Tùy sĩ số lớp, mặt bằng diện tích phòng học mà phân chia cho phù
hợp.
Tốt nhất là từ 4 đến 10 người. Nếu ít quá thì khó bàn bạc, rời rạc, đông quá thì
ồn ào, mất tập trung khó điều khiển. Có thể chia ngẫu nhiên, gọi tên hay theo tổ có
sẵn. Đặt tên cho nhóm theo nội dung bài học, số đếm …
3) Người học làm việc nhóm
- Cử nhóm trưởng, thư ký trình bày ý tưởng nhóm hay biên bản thảo luận.
- Khuyến khích mọi thành viên tham gia, các thành viên cần có kỹ năng làm
việc nhóm. (Lắng nghe, Bàn bạc trao đổi ý kiến cá nhân, nhận xét (không phê phán
hay đánh giá người nói mà cần quan tâm nội dung đưa ra, ý kiến giải pháp nào là tốt
nhất nên lựa chọn để tránh xúc phạm và tổn thương lẫn nhau); Biết sử dụng lý lẽ để
thuyết phục, bảo vệ ý kiến cá nhân; Biết phục tùng: “Dân chủ tập trung”. Chấp nhận ý
kiến của nhóm).
- Người hướng dẫn cần quan tâm tới tất cả các nhóm.
- Xác định rõ vấn đề cần thảo luận chưa? Có thể gợi ý để các nhóm xác định
chính xác vấn đề.
- Có ai là người chưa tham gia? Ai nói quá nhiều? Ai không quan tâm?
- Kiểm soát thời gian làm việc của các nhóm cả lớp.
4) Trình bày kết quả làm việc nhóm
Có nhiều cách giúp trình bày kết quả làm việc của nhóm:
o Một nhóm báo cáo, các nhóm bổ sung
o Từng nhóm thuyết tình riêng
20
o Nhóm chỉ theo dõi toàn bộ phần trình bày của các nhóm, so sánh và đưa
nhận xét, hoặc đặt câu hỏi chuyên biệt.
o Trưng bày áp phích
o Ghi ý kiến lên bảng.
5) Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá
o Giáo viên phải kết nối được ý kiến các nhóm
o Giúp đỡ để các nhóm thực hiện đúng yêu cầu, nhiệm vụ của nhóm
o Bổ sung, làm rõ được vấn đề cần giải quyết, nâng thành khái quát, lý luận
chung.
o Bài học, hành động thực tế từ những kết quả thu được của phần làm việc các
nhóm.
Lưu ý:
Nếu các nhóm đảm bảo được yêu cầu, nội dung, thời gian kế hoạch thảo luận
nhóm hay ngược lại giáo viên cũng phải là người rút kinh nghiệm (ưu điểm, hạn chế
cần khắc phục) khen ngợi những nhóm, thành viên làm việc tích cực đạt kết quả cao.
Bất kỳ phương pháp dạy học tích cực nào cũng có điểm mạnh và mặt hạn chế
không thể tránh khỏi, do đó, thường trong một giờ học sẽ có nhiều phương pháp được
lựa chọn. Tuy nhiên, dù lựa chọn phương pháp nào thì người giáo viên vẫn là người
chủ đạo bám theo hoạt động của các nhóm, lựa chọn các phương án tiết kiệm thời
gian, nội dung không trùng lặp, lôi cuốn được sự tham gia của mọi thành viên trong
tập thể học sinh.
Dù phương pháp thảo luận nhóm đôi khi không mang lại kết quả như mong
muốn thì người giáo viên cũng phải giúp học trò học bài học từ sự không thành
21
công của mình, đó mới là điều quan trọng nhất. Đó mới thực sự là vai trò và giá trị
của Người Thầy.
3. Kết luận
Kính thưa Quý đồng nghiệp,
Sau nhiều năm làm nghề dạy học, tôi thấy rằng việc thay đổi phương pháp dạy
học và dạy học bằng phương pháp tích cực thực sự không làm lu mờ hay suy giảm vai
trò, vị trí của người thầy trong mắt học sinh, mà ngược lại, sự thay đổi phương pháp
(đổi mới phương pháp) làm cho chúng ta an lòng, phụ huynh và học sinh hy vọng về
một khả năng tiến bộ của chất lượng nền giáo dục nước nhà hôm nay cho thế hệ tương
lai. Trên thực tế, cách làm này còn giảm áp lực cho chúng ta, thay đổi việc mỗi ngày
đi dạy gặp gỡ những học sinh khác nhau, bài học nhiều năm giống nhau trong cùng
một không gian một cách thức tiến hành được quy định không đổi (!).
Tôi chỉ có một niềm hy vọng những giá trị, những phương pháp dạy học mới
mà tôi đã cố gắng áp dụng sẽ thấm vào học sinh của tôi, trở thành nhân cách, phẩm
chất, giá trị làm người, giúp các em sẽ hình thành thói quen có được những giải pháp
khác nhau trong cuộc đời, trở thành người tài, tránh xa được con đường xấu. Trong
hiện tại học sinh tích cực chủ động tham gia việc học, nâng nhận thức cuộc sống, ý
thức pháp luật, biết được mình là ai? Muốn học cái gì? Và trở nên người như thế
nào ở tương lai.
Chúng ta không phải là người thầy cuối cùng trong cuộc đời của các em nhưng
thiết nghĩ với hàng trăm, hàng nghìn giờ học bản thân các em đã trải qua. Với những
gì chúng ta đã trao sẽ thấm vào các em, trở thành kỹ năng học tập, làm việc, kỹ năng
sống, giúp các em trở nên có nghị lực mạnh mẽ, biết suy nghĩ học hỏi để sống một
cách tử tế trong cuộc đời này.
22
Dù làm việc này không phải dễ dàng, dạy học theo phương pháp mới đòi hỏi
người thầy phải luôn bồi dưỡng về chuyên môn, năng lực và phẩm chất cá nhân, đó
thật sự là một áp lực và là một đòi hỏi nhưng là áp lực và đòi hỏi có ý nghĩa, giá trị.
Nó mang lại hạnh phúc cho người dạy lẫn người học, mang cơ hội làm cho cuộc sống
lại trở nên tốt đẹp hơn.
Kính chào và chúc sức khỏe Quý đồng nghiệp!
23