Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ: Tăng cường tương tác trong dạy học thống kê ở THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 88 trang )

1

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI





TĂNG CƯờNG TƯƠNG TáC TRONG DạY HọC THốNG KÊ
ở TRƯờNG TRUNG HọC PHổ THÔNG


Chuyờn ngnh: Lý lun v Phng phỏp dy hc b mụn Toỏn


LUN VN THC S KHOA HC GIO DC



H Ni, 2014

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Vì
thế việc đổi mới phương pháp dạy học đóng vai trò hết sức quan trọng. Quan
điểm chung của đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định là tổ chức


cho học sinh được học trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác tích cực,
chủ động và sáng tạo mà cốt lõi là làm cho học sinh học tập tích cực, chủ
động, hay nói một cách khác giáo viên phải lấy người làm trung tâm nhằm
chống lại thói quen học tập thụ động. Quan điểm này một lần nữa đã được nêu rõ
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ( Nghị
quyết số 29- NQ/TW- 2013) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chưc hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy học.”
Chương trình phổ thông hiện nay vấn đề dạy học dựa trên các hoạt động
của học sinh có sự hướng dẫn của giáo viên đã được nhiều thầy cô giáo quan
tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, việc khai thác các hoạt động trong thực tiễn
giảng dạy còn nhiều hạn chế, vì hầu hết đều chưa thấy hết được tác dụng to
lớn của phương pháp trên nên chưa được coi trọng. Ngoài ra, giáo viên chưa
có nhiều kinh nghiệm, thiếu cơ sở lí luận để xây dựng các hoạt động tương
thích với nội dung trên.
3

Thống kê là khoa học về các phương pháp thu thập, tổ chức, trình bày,
phân tích và xử lí số liệu. Ngày nay, thống kê được ứng dụng rộng rãi vào hầu
hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và các ngành kinh tế, khoa học. Số người
học tập và làm việc liên quan đến thống kê ngày càng đông đảo. Hơn nữa,
Thống kê với các bài toán thường gắn liền với đời sống thực tế góp phần tăng
sự hứng thú, tích cực học tập cho học sinh, mang toán học gần gũi với đời
sống con người và giáo dục thế giới quan khoa học cho học sinh.Vì thế, tăng

cường việc dạy và học nội dung thống kê là cần thiết và quan trọng.
Tuy nhiên, việc dạy và học nội dung thống kê gặp nhiều khó khăn. Hầu
hết các giáo viên chưa đặt trọng tâm vào việc giảng dạy nội dung này, hơn
nữa việc nhận thức cũng cần đến loại hình tư duy mới đó là quá trình nhận
thức sự vật, hiện tượng và giải quyết vấn đề dựa trên sự phân tích các số liệu
khảo sát và điều tra. Thực tế cho thấy học sinh khi học nội dung thống kê chỉ
nắm kiến thức một cách máy móc, không hiểu rõ bản chất, ý nghĩa với thực tế
đời sống.
Từ những lí do trên, để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy
học nội dung thống kê ở trường THPT, nên đề tài được chọn là: “Tăng cƣờng
tƣơng tác trong dạy học Thống kê ở trƣờng Trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp nhằm tăng cường tương tác trong dạy học
nội dung thống kê ở trường THPT
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
 Hệ thống hóa lí luận về sự tương tác trong dạy học.
 Xây dựng một số biện pháp khi dạy và học nội dung thống kê, đặc biệt
là phương pháp dạy học theo dự án và dạy học theo phân nhóm.
 Điều tra thực trạng dạy và học thống kê ở trường THPT.
 Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi và tính hiệu quả của
4

những biện pháp đề ra.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Quá trình dạy và học nội dung thống kê ở trường THPT
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và vận dụng hợp lí các biện pháp nhằm tăng cường tương
tác dạy học nội dung thống kê thì sẽ giúp cho học sinh học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học, tăng tính
thực tiễn nội dung này.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1 Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu các tài liệu về lí luận và phương pháp dạy học môn Toán
có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu về chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, …có liên
quan đến đề tài.
6.2 Phƣơng pháp điều tra quan sát
- Tìm hiểu việc dạy và học nội dung thống kê ở trường THPT thực
nghiệm.
- Điều tra, thu thập ý kiến của các giáo viên và học sinh về tính hiệu quả
của các biện pháp đã được xây dựng.
6.3 Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Tiến hành dự giờ và dạy học một số tiết ở trường THPT thực nghiệm để
kiểm tra, đánh giá giờ học qua bài soạn.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Phương pháp sư phạm tương tác
1.2. Phương pháp dạy học theo dự án
1.3. Thực trạng giảng dạy môn Toán tại Trường THPT
5

Tổng kết chương 1
Chƣơng 2: Một số giải pháp tăng cƣờng tƣơng tác trong dạy học nội
dung Thống kê ở THPT
2.1. Nội dung kiến thức chương
2.2. Tìm hiểu tình hình thực tế dạy và học nội dung kiến thức
2.3. Một số điểm lưu ý khi dạy học chương Thống kê
2.4. Khả năng vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào dạy học
môn Toán

2.5. Tăng cường tương tác khi dạy học theo dự án.
2.6. Đề xuất qui trình dạy học theo dự án.
2.7. Đề xuất giải pháp tổ chức hoạt động nhóm sử dụng kĩ thuật “ các
mảnh ghép” với nhóm 3-3-3.
2.8. Thiết kế và tổ chức dạy học một số kiến thức trong nội dung Thống kê.
Tổng kết chương 2
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm
3.2. Nội dung thực nghiệm
3.3. Tổ chức thực nghiệm
3.4. Kết quả và đánh giá thực nghiệm
Tổng kết chương3I


6

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VA THỰC TIỄN

1. Phƣơng pháp sƣ phạm tƣơng tác
1.1 Dạy học dựa vào tƣơng tác
Theo quan điểm dạy học hiện đại, dạy học cần thiết xem xét trên ba
phương diện:
- Về phương diện xã hội- lịch sử, dạy học là quá trình và kết quả của sự
tái sản xuất và phát triển những giá trị kinh nghiệm xã hội cơ bản, có chọn
lọc, ở từng cá nhân thuộc những thế hệ người học nhất định để thực hiện
những chức năng phát triển cá nhân và cộng đồng.
- Về phương diện tâm sinh lí: Dạy học là hình thức phổ biến của sự phát
triển cá nhân và cộng đồng. Mỗi cá nhân trong bất kì xã hội nào cũng đều
phát triển dưới hai hình thức: hình thức cá biệt, của riêng cá nhân và môi
trường hoạt động cá nhân quy định; hình thức phổ biến, chung cho cả thế hệ

hoặc vài thế hệ người thuộc cộng đồng nhất định.
- Về mặt sư phạm: Dạy học chính là việc gây ảnh hưởng có chủ định đến
hành vi học tập và quá trình học tập của người học, tạo ra môi trường và
những điều kiện để người học duy trì việc học, cải thiện hiệu quả chất lượng
học tập, kiểm soát quá trình và kết quả học tập của họ.
“ Dạy học là quá trình người dạy tiến hành các thao tác có tổ chức và
định hướng giúp người học bằng hoạt động của bản thân, từng bước có năng
lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh
thần, các hiểu biết, các kĩ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được
để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các yêu cầu thực tế đặt ra trong
toàn bộ cuộc sống của mỗi người học.
1.2 Các tác nhân
1.2.1 Người học
- Với năng lực cá nhân và trách nhiệm của mình, người học tham gia vào
một quá trình để kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành thái độ.
7

Người học tìm cách học và tìm cách hiểu, từ đó chuyển hóa những tri thức
của nhân loại thành kiến thức riêng của mình.
- Với tư cách là một tác nhân theo phương pháp sư phạm tương tác,
người học trước hết là người đi học chứ không phải là người được dạy. Trong
quá trình nhận thức, người học phải dựa trên chính tiềm năng của mình, khai
thác những kinh nghiệm, những tri thức đã được tích lũy để tiếp cận, khám
phá những chân trời mới. Nhờ vào sự hứng thú, người học tham gia tích cực
và biết tiếp tục quá trình học bằng cách đặt ra nhiệm vụ học tập cho chính bản
thân mình và phải hoàn thành nó. Đồng thời người học phải tham gia vào dự
án học tập của tập thể, hoàn thành nhiệm vu mà tập thể giao phó, chia sẻ, giúp
đỡ, đóng góp những ý kiến để tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ đã đề ra.
1.2.2 Người dạy
- Bằng kiến thức, kinh nghiệm của mình, người dạy chỉ cho người học

mục đích cần đạt, gợi cho họ hứng thú học tập, hướng dẫn cho họ cách học,
giúp học khắc phục khó khăn, phát hiện và sửa chữa sai lầm.
- Người dạy chỉ cho người học mục tiêu mà học phải đạt được, sắp xếp
nội dung, lựa chọn phương pháp dạy học và xây dựng môi trường cởi mở, làm
cho người học hứng thú học và đưa họ tới đích. Người dạy cần phải tạo cơ hội
cho người học được hoạt động, được bày tỏ, được thể hiện và tự khẳng định
được mình, tránh sự áp đặt một chiều.
- Chức năng chính của người dạy là giúp đỡ người học học và hiểu.
Người dạy phục vụ người học và phải làm nảy sinh tri thức ở người học theo
cách của một người hướng dấn.
1.2.3 Môi trường
- Môi trường là toàn bộ các yếu tố bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng
đến con người. Xung quanh người học và người dạy là thế giới vật chất, gia
đình, nhà trường, xã hội, chính trị và văn hóa. Tất cả các yếu tố này tạo thành
môi trường của người dạy và người học
8

- Môi trường là một tác nhân đóng một vai trò có ý nghĩa quan trọng vì
nó liên quan tới cả việc dạy và việc học.
Môi trường bên trong: Chỉ các mối quan hệ nội tại bên trong của người
dạy, người học như: tiềm năng trí tuệ, những xúc cảm, những giá trị của cá
nhân, vốn sống, giá trị đạo đức, phong cách dạy và học
Môi trường bên ngoài: Chỉ các yếu tố bên ngoài người học , người dạy
như: môi trường( không gian vật chất và tâm lí, thời gian, ánh sáng ), người
dạy ( hình thức bên ngoài, đời sống nội tâm, kĩ năng giao tiếp, ) ảnh hưởng
tới người học. Người học, đặc biệt là tập thể HS với không khí học tập thi đua
của lớp ảnh hưởng tới người dạy, nhà trường, tính di truyền, tập tính của cha
mẹ, những giá trị truyền thống, sự quan tâm của bố mẹ, xã hội, chế độ chính
trị, hệ thống định hướng, chính sách kinh tế- xã hội
Bộ ba tác nhân: người dạy, người học, môi trường tạo thành hạt nhân

của phương pháp sư phạm tương tác.
1.3 Các dạng tƣơng tác trong dạy học
Vấn đề xác định và phân loại tương tác trong dạy học là công việc khó
khăn bởi tính chất tích hợp và cơ động của nó trong hoạt động dạy học. Tuy
nhiên, việc làm này là quan trọng không chỉ giáo dục nhà trường mà cả đối
với giáo dục bên ngoài nhà trường. Bởi khi nào chúng ta nhận diện và thâu
tóm được các tương tác đấy thì lúc đó mới nghĩ đến chuyện làm nảy sinh, tổ
chức, điều khiển nhằm đạt được mục đích giáo dục đề ra.
Tương tác là sự tác động qua lại trực tiếp giữa các yếu tố trong một cấu
trúc hoặc giữa các cấu trúc với nhau trong một không gian, một thời gian cụ
thể. Trong quá trình dạy học, sự tương tác là sự tác động qua lại trực tiếp giữa
người học với người học, giữa người học với người dạy trong một không
gian, trong một thời gian nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập và các mục
tiêu dạy học đã được xác định. Sự tham gia tích cực của mỗi thành viên vào
hoạt động tương tác sẽ thúc đẩy hoạt động chung của lớp học và đạt được
mục tiêu đã định, đồng thời tạo sự gắn bó giữa các thành viên.
9

Tương tác trong dạy học được quy về ba loại hay ba dạng tương tác chính:
 Tương tác người dạy- người học
 Tương tác người học- người học
 Tương tác người học, người dạy- môi trường
1.3.1 Tương tác người dạy- người học
Tương tác người dạy – người học là một trong những mối quan hệ tương
tác chủ đạo trong dạy học. Đồng thời cũng là phương tiện để người dạy và
người học cùng điều chỉnh hoạt động của bản thân để quá trình dạy học đảm
bảo tính thống nhất, vừa sức đối với người học.
Người học thông qua hoạt động học, tác động đến người dạy thông tin
dưới dạng các câu hỏi, thái độ, cử chỉ,… Người dạy đáp lại các tác động này
từ người học bằng các thông tin như câu trả lời, sự động viên, hoặc những lời

khuyên…Như vậy, trong tương tác nêu trên thì người học đã tác động và
người dạy đã phản ứng một cách chính xác và kịp thời trong môi trường mà
cả hai đều chấp nhận [6,41] .
Người dạy, bằng phương pháp sư phạm của mình đã tác động đến người
học thông qua những gợi ý về hướng đi. Khi cần thiết người dạy chỉ cho
người học các giai đoạn phải vượt qua, các phương tiện cần sử dụng và các
kết quả cần đat được. Khi đó người dạy đã tác động tới người học bằng cách
này hay cách khác với mục đích để người học đạt được mục tiêu học tập của
mình. Khi nhận được tác động của người dạy, phản ứng của người học là đi
theo con đường do người dạy vạch ra, lúc này nếu người học cảm thấy sung
sướng và thỏa mãn, người học sẽ dễ dàng có cảm tình với người dạy, ngược
lại họ sẽ cảm thấy nản lòng hoặc thiếu hứng thú. Lúc này, người dạy đã hành
động và người học thì phản ứng. Một phản ứng tích cực hoặc tiêu cực về phần
người học có thể thôi thúc người dạy tiếp tục hoặc tự điều chỉnh lại phương
pháp sư phạm của mình. Tất cả sự thỏa mãn hay hứng thú đều thể hiện sự
phản ứng của người học trước sự tác động của người dạy Đôi khi, người dạy
10

tạo ra những chướng ngại, vật cản để gia tăng cơ hội hoạt động và học tập cho
người học. Người học đáp lại những tác động từ người dạy bằng cách đi theo
con đường mà người dạy vạch ra.
Trong mối quan hệ tương tác này, xu hướng nắm thế chủ động nghiêng
về phía người dạy, tức là người dạy thường áp đặt, điều khiển. Tuy nhiên,
theo quan điểm đổi mới giáo dục thì xu hướng này cần vận hành theo theo
hướng ngược lại, nghĩa là người học cần nắm thế chủ động, tích cực thực hiện
và tham gia tương tác với thầy để tìm kiếm nguồn động lực, tìm kiếm hướng
giải quyết vấn đề của bản thân hay nhiệm vụ học tập. Chừng nào, sự dịch
chuyển vai trò nắm thế chủ động từ thầy sang trò được thực hiện tối ưu, khi
ấy quá trình học mới thực sự hướng vào người học, người học mới được đặt ở
vị trí trung tâm.

1.3.2 Tương tác người học- người học
- Tương tác người học- người học trong dạy học là quá trình giao tiếp
nhằm trao đổi lẫn nhau về mặt thông tin, ý tưởng, quan điểm tình cảm bên
trong và giữa các chủ thể người học với nhau nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
học tập.
- Xét về trình độ tương tác mà người học tham gia trong quá trình học
tập thì ta có thể phân thành các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Người học tiến hành các tương tác với đối tượng vật chất
bên ngoài môi trường. Lúc này người học sử dụng các giác quan để tác động
vào đối tượng, những hành động vật chất này của người học làm cho đối
tượng bộc lộ những dấu hiệu, bản chất, quy luật hay tính xu thế vận động và
chiếm lĩnh chúng.
- Giai đoạn 2: Người học tương tác với thầy, với bạn học để chia sẻ và
trao đổi nhằm chính xác hóa và tường minh hóa nhận thức ban đầu. Khi đó,
tính cá nhân trong nhận thức đã giảm nhiều và tri thức mới mang tính khách
quan và khoa học hơn.
11

- Giai đoạn 3: Người học tương tác với chính bản thân mình hay tương
tác nội tâm để suy xét lại vấn đề, tiến hành các thao tác tư duy như phân tích,
tổng hợp, đánh giá để nhận thức vấn đề học tập một cách đầy đủ và sâu sắc
hơn. Chính tương tác này đưa người học phát triển lên một trình độ mới, tạo
tiền đề cho sự sáng tạo trong quá trình học tập
Như vậy tương tác người học - người học có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong quá trình học tập của mỗi cá nhân. Chính nó tạo ra sự phát triển mạnh
mẽ nhất ở người học. Do đó, khi tổ chức các tương tác sư phạm trong quá
trình dạy học, người dạy phải điều khiển theo hướng dịch chuyển mọi dạng
tương tác về quan hệ tương tác này (mà quan trọng nhất là tương tác nội tâm).
Bởi chỉ khi nào ngườ i học tích cực trao đổi, chia sẻ, thậm chí cạnh tranh với
nhau trong học tập; chỉ khi nào họ day dứt, băn khăn với vấn đề khắc khoải

trong tâm trí, thì khi ấy họ mới thực sự học và cho dù kết quả của các tương
tác đó là gì thì cũng đã được xem là thành công trong dạy học.
1.3.3 Tương tác người dạy, người học- môi trường
Trong quá trình dạy học, người dạy và người học không chỉ chịu sự tác
động từ môi trường mà còn tác động trở lại cải tạo môi trường để phục vụ,
nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học.
Môi trường tác động tới người học, người dạy và hoạt động của họ trên
những phương diện sau:
 Tác động từ phía bên ngoài bao gồm: môi trường vật chất xung quanh,
bạn học, gia đình, nhà trường, xã hội.
 Tác động từ phía bên trong chủ thể bao gồm: tiềm năng, giá trị,
nhân cách…
Như vậy, việc tác động cải tạo môi trường dạy học nhằm nâng cao tính
tương tác của môi trường dạy học nhằm nâng cao tính tương tác của môi
trường dạy học cần tiến hành một cách tổng thể từ việc cải tạo môi trường vật
chất: nhiệt độ, ánh sáng, âm thanh, đến việc chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị,
đồ dùng dạy học; tạo bầu không khí thân mật, vui vẻ hợp tác trong lớp học; sự
12

Người học
Người dạy
Môi trường
chuẩn bị về tâm lí, kiến thức để người học tham gia vào quá trình tương tác
tích cực với các thành tố khác trong hoạt động dạy học để đồng hóa tri thức.
Quan niệm trên thể hiện một cách nhìn toàn diện, biện chứng về yếu tố
môi trường và sự ảnh hưởng của nó tới người học nói riêng và toàn bộ hoạt
động dạy học nói chung. Song ở đây cần xác định rõ đâu là giới hạn thực sự về
vai trò của người dạy trong việc tạo dựng và tổ chức môi trường để sự tác động
của nó tới người học và hoạt động học theo hướng có lợi nhất. Sự tác động của
yếu tố môi trường lên hoạt động dạy học không thể kiểm soát hết được. Chúng

ta chỉ có thể nhận diện, tổ chức và điều khiển một số tác động của các yếu tố từ
môi trường. Tất nhiên, những yếu tố thường có ảnh hưởng rất lớn và đôi khi
mang tính quyết định tới hiệu quả của hoạt động dạy học. Việc ý thức đầy đủ
các yếu tố môi trường và tác động của chúng tới hoạt động dạy học luôn cần
thiết. Vì sự ảnh hưởng từ môi trường ấy phải được tính đến cả ở tầm vĩ mô và
vi mô, cả ở việc xây dựng chương trình đến quá trình triển khai nó trong thực
tiễn, cả ở việc quản lí đến cấp độ thực thi việc dạy học, cả ở việc lập kế hoạch
dạy học đến thực tế tổ chức hoạt động dạy hoc trên lớp học.
Như vậy, người dạy cần tổ chức môi trường dạy học để nó có thể đáp
ứng tốt cho nhu cầu người học. Trong phạm vi ảnh hưởng của mình, người
dạy có thể tạo ra môi trường dạy học hiệu quả thông qua việc thiết kế và tổ
chức các tình huống dạy học.
Mối quan hệ qua
lại giữa ba tác nhân của QĐSPTT được thể hiện qua sơ
đồ sau:






Hình 1. Mối liên hệ giữa ba tác nhân của quan
điểm
sư phạm tương tác
.
13

Như vậy, QĐSPTT đặc biệt làm gia tăng giá trị các mối quan hệ tác động
qua lại của ba tác nhân người học, người dạy và môi trường. Sự tham gia đa
dạng của ba tác nhân người học, người dạy và môi trường là nguồn gốc của

các quan hệ năng động giữa chúng, đó cũng chính là yếu tố đặc trưng nhất của
QĐSPTT
1.4 Phƣơng pháp học, phƣơng pháp dạy và ảnh hƣởng của môi
trƣờng (các thao tác)
Trong hoạt động sư phạm, cùng với các tác nhân, các thao tác cũng có
một vị trí hết sức quan trọng, đó là các hành động của người học khi học, của
người dạy khi giúp đỡ người học trong quá trình học và các hành động này
đều chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh. Như vậy, về bản chất,
hoạt động sư phạm bao gồm phương pháp học và phương pháp sư phạm, cả
hai phương pháp này đều chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh.
* Phương pháp học: Người học có nhiệm vụ là học cách học. Để
đạt được nhiệm vụ này người học phải có một phương pháp học. Phương
pháp học là hình ảnh khái quát của một quá trình mà người học với tư cách
là tác nhân chính tiến hành để kiến tạo, thu lượm, chiếm lĩnh tri thức hay
rèn luyện một kỹ năng mới. Phương pháp học miêu tả con đường mà người
học phải đi theo bằng cách đưa ra hành động học, trong đó người học phải sử
dụng tất cả các năng lực của cá nhân mình (kiến thức, kinh nghiệm đã tích
luỹ được, huy động hệ thống thần kinh, ) để lĩnh hội một tri thức mới.
* Phương pháp sư phạm : Người dạy tự nguyện từ bỏ vai trò chủ thể,
người dạy trở thành người đạo diễn, thiết kế, tổ chức, trọng tài, cố vấn,
kích thích những hoạt động nhận thức, kiến tạo tri thức của người học. Người
dạy không phải là người thông báo tri thức có sẵn cho người học, người học
phải hoạt động để tự mình kiến tạo hoặc tham gia kiến tạo tri thức. Phương
pháp sư phạm là hình ảnh khái quát của toàn bộ quá trình can thiệp của
người dạy nhằm mục đích hướng người học thực hiện phương pháp học.
14

Người dạy mong muốn tạo nên một không khí thuận lợi cho người học, do
vậy cần đến tri thức, kinh nghiệm, phẩm chất sư phạm của mình và chú ý đến
các khả năng của môi trường cũng như nhu cầu của người học. Người dạy

giúp đỡ người học.
* Ảnh hưởng của môi trường : “Môi trường là toàn bộ các yếu tố và
các điều kiện xung quanh và ảnh hưởng đến con người” Khi nói tới môi
trường đó không chỉ là yếu tố bên ngoài còn chỉ ra các yếu tố bên trong của
người dạy và người học. Đây chính là cách nhìn mới về môi trường văn hoá
dạy học nói riêng, môi trường văn hoá giáo dục nói chung. Đó là tiềm năng
xúc cảm, giá trị, vốn sống, phong cách, nhân cách. Mố i quan hệ biện
chứng giữa yếu tố bên trong và bên ngoài, khẳng định vai trò chủ động của
người học và người dạy trước những tác động từ bên ngoài.
Môi trường có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến người dạy và
người học và hoạt động của họ. Sự ảnh hưởng này đến từ nhiều phía, có khi
ảnh hưởng từ một yếu tố, có khi ảnh hưởng cộng hưởng của nhiều yếu tố
một lúc làm cho tác động của môi trường được gia tăng và phức tạp hơn đến
người học và tác động sư phạm của người dạy.
Những đòi hỏi của môi trường buộc người học và người dạy phải thích
nghi, qua đó làm phát triển chính họ (sắp xếp lại hệ thống giá trị, kinh
nghiệm, nâng cao vốn sống,…). Người dạy và người học có thể thay đổi được
môi trường. Điều này được thể hiện ở sự tác động qua lại, tương hỗ giữa người
dạy, người học và môi trường; hành động của người này gây nên phản ứng của
người kia. Người dạy với phong cách dạy của mình tác động lên người học làm
cho người học thay đổi phong cách học của mình. Như vậy, môi trường là tập
hợp của nhiều nhân tố và các giá trị khác nhau. Các nhân tố và giá trị này tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động dạy và học.
Môi trường của hệ thống học và dạy khác nhau ở chỗ: môi trường của
hoạt động học có người dạy và các yếu tố xoay quanh phương pháp học,
15

yếu tố bên trong là của người học. Môi trường của hoạt động dạy thì có
người học và các yếu tố xoay quanh phương pháp dạy, yếu tố bên trong là
của người dạy. Sự vận động tương hỗ của phương pháp dạy và học đều chịu

tác động phù hợp của các yếu tố bên ngoài nhưng hiệu quả lại phụ thuộc
nhiều vào mức độ phù hợp của các yếu tố bên trong của người dạy và người
học, chẳng hạn như sự phù hợp về xúc cảm, giá trị, phong cách. Trong hoạt
động sư phạm, phạm vi tác động của môi trường tập trung ở ba yếu tố
chính và sự ý thức của người dạy và người học về ảnh hưởng của yếu tố môi
trường là rất quan trọng
.












Hình 2. Tác động của môi
trường
đến hoạt động dạy và học


Theo sơ đồ trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy cơ chế tương tác của môi
trường đến người học có thể diễn ra theo hai hướng sau:
- Hướng thứ nhất, môi trường tương tác trực tiếp đến người học;
- Hướng thứ hai, môi trường tương tác đến người học thông qua người dạy.
Trong thực tế dạy học, hướng tương tác thứ nhất mang tính tự phát và
thường diễn ra ở tầm vĩ mô nên khó kiểm soát, còn hướng tương tác thứ

 Hứng thú
 Tham gia
 Trách nhiệm

 Lập kế hoạch
 Hướng dẫn
 Hợp tác
 Ảnh hưởng
 Thích nghi
Người dạy
Người học
Môi trường
16

hai lại ít được người dạy quan tâm khai thác, do đó trở nên mờ nhạt. Vì vậy,
trước đây, môi trường chưa được phát huy đúng chức năng trong quan hệ với
các yếu tố khác của hệ dạy học, đặc biệt là với yếu tố học.Thực tiễn dạy học ở
trường THPT, khó có thể cùng một lúc xem xét và khai thác tất cả các tác
động có lợi của môi trường đến người học và phương pháp học của họ.
Vì vậy, trong phương pháp sư phạm của mình, người dạy phải xác định một
số yếu tố của môi trường để tác động vào (những yếu tố bên trong người học)
nhằm phát huy các tác động tích cực và hạn chế các tác động không có lợi
của môi trường đến hoạt động dạy và học.

Vấn đề đặt ra là người dạy tác động vào môi trường bằng cách nào
để môi trường tác động tích cực đến người học? Người dạy không tác động
trực tiếp vào môi trường mà tác động thông qua một yếu tố trung gian, để
thông qua yếu tố trung gian ấy tác động đến các yếu tố khác của môi
trường, làm cho các yếu tố này trở nên có ý nghĩa đối với người học. Yếu tố
trung gian đó là gì, khai thác nó như thế nào?

Trong quá trình diễn ra hoạt động sư phạm các yếu tố của môi trường có
thể gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến người học và người dạy,
điều đó làm cho người học phải thay đổi và thích nghi với những điều kiện
ấy. Như vậy, môi trường gây ảnh hưởng đến phương pháp học và phương
pháp sư phạm, quan hệ của môi trường đến người học là quan hệ ảnh hưởng
và thích nghi.
Để phối hợp chặt chẽ ba tác nhân với các thao tác và thu hút sự chú ý
vào sự kết hợp này, bộ ba thao tác (học, giúp đỡ và ảnh hưởng) trả lời lại bộ
ba tác nhân (người học, người dạy và môi trường). Mối quan hệ đó được thể
hiện trong bảng sau :

17

Bảng 1. Sự phối hợp bộ ba tác nhân, chức năng và thao tác của PPSPTT

Tác nhân
Chức năng
Thao
tác

Người học
Người dạy
Môi trường

Môi trường
Học
Giúp đỡ
Ảnh hưởng
Phương pháp học
Phương pháp dạy

Các yếu tố của môi trường

1.5. Ƣu, nhƣợc điểm của quan điểm sƣ phạm tƣơng tác
1.5.1. Ưu điểm
- PPSPTT xác định cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm ba yếu tố:
Người dạy – Người học và Môi trường, đó là ba nhân tố trung tâm, cơ bản
nhất của hoạt động dạy học.
- PPSPTT khẳng định chức năng của từng yếu tố: Người học– người thợ,
người dạy – người hướng dẫn, môi trường và các ảnh hưởng của nó.
- PPSPTT xác định mối quan hệ qua lại (các liên đới) giữa các yếu tố
và giữa các bộ phận trong một yếu tố.
- PPSPTT phân tích rõ bộ máy học và tính năng động của nó (cơ sở
thần kinh nhận thức), cùng các điều kiện khác (vốn sống, phong cách, xúc
cảm) ở người học làm cơ sở cho tác động sư phạm đạt hiệu quả cao.
- PPSPTT mô tả một cách toàn diện và phong phú (môi trường vật chất, môi
trường tinh thần, môi trường bên trong và môi trường bên ngoài) mà trước đây,
trong lý luận dạy học, các điều kiện này chưa được quan tâm và đánh giá đúng
mức về ảnh hưởng của chúng tới việc tổ chức các hoạt động sư phạm của người
dạy. PPSPTT cũng thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố bên trong và bên
ngoài, khẳng định vai trò chủ động của người học và người dạy trước những tác
động từ bên ngoài.
- PPSPTT xác nhận các thành phần không thể thiếu của PPSPTT là: sự
hứng thú, sư phạm hợp tác và sư phạm thành công, các khâu của hoạt động dạy
học: lập kế hoạch, dẫn dắt hoạt động và giao tiếp (tổ chức hoạt động và hợp tác).
18

Bên cạnh những ưu điểm trên, PPSPTT vẫn còn một số hạn chế như sau
1.5.2 Hạn chế
- Trong PPSPTT, môi trường được nhìn nhận ở nhiều bình diện, nhiều
mức độ khác nhau, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc xem xét môi trường như

một yếu tố tĩnh, có sẵn, tồn tại xung quanh và ảnh hưởng đến người dạy,
người học và hoạt động của họ. Điều quan trọng không chỉ ở chỗ xác định, cụ
thể hoá quan hệ qua lại đa dạng, phức tạp giữa môi trường và người học mà
cần chỉ ra được những phương tiện, cách thức để khai thác những tác động
tích cực và hạn chế các tác động không tích cực của môi trường đến người
học và phương pháp học của họ.
- Trong PPSPTT, những gì thuộc về nội dung (kiến thức) thì được tác giả
đồng hoá vào nhân tố môi trường. Trong khi đó, kiến thức đã tồn tại từ trước đến
nay và vận động như một nhân tố thuộc cấu trúc của hoạt động dạy học.
2. Phƣơng pháp dạy học theo dự án
2.1 Khái niệm dạy học theo dự án
Dự án: Thuật ngữ “ dự án” trong tiếng Anh là “ project” có nghĩa là phác
thảo, dự thảo, thiết kế. Khái niệm dự án ngày nay được hiểu là một dự định,
một kế hoạch trong đó cần xác định rõ mục tiêu, thời gian, điều kiện cơ sở vật
chất, nhân lực và cần thực hiện nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Dạy học theo dự án (Project Based – Learing ) là một phương pháp dạy
học tích cực trong đó GV hướng dẫn HS thực hiện một nhiệm vụ học tập
phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành, tự độc lập kế
hoạch, thực hiện và đánh giá kết quả.
Trong phương pháp DHTDA nhấn mạnh đến việc hướng dẫn HS thực
hiện dự án học tập gắn liền với thực tiễn và gắn liền với nội dung môn học.
Các hoat động của dự án học tập được thiết kế một cách có hệ thống, liên
quan tới nhiều lĩnh vực và kết quả của dự án là những sản phẩm có thể công
bố, giới thiệu được như: sản phẩm thật, bài viết, bài báo cáo
19

DHTDA hướng người học đến việc tiếp thu các kiến thức và hình thành
các kỹ năng thông qua quá trình giải quyết một vấn đề có tính chất phức hợp.
Các DHTDA cho phép tạo ra cho người học có nhiều cơ hội học tập hơn, đa
dạng hơn về chủ đề và quy mô, có thể được tổ chức rộng rãi ở các cấp học,

bậc học khác nhau. DHTDA đặt người học vào những vai trò tích cực như:
Người giải quyết vấn đề, điều tra viên hay người viết bài báo cáo
2.2 Những đặc điểm của phƣơng pháp dạy học theo dự án.
- Định hướng thực tiễn và nghề nghiệp
Quá trình thực hiện dự án học tập phải luôn gắn liền với thực tiễn, phải
có sự kết hợp giữa lí thuyết và sự vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Sản phẩm
phải có ý nghĩa thực tiễn nhất định.
- Định hướng hứng thú người học
Trong dạy học dự án, người học tham gia tích cực và tự lực vào các giai
đoạn của quá trình dạy học. GV đóng vai trò là người tư vấn, hướng dẫn, định
hướng hành động. DHTDA chú ý đến hứng thú, nhu cầu của người học.
Người học được tham gia trong quá trình chọn lựa đề tài, nội dung học tập
phù hợp, tự chọn các nguồn thu thập thông tin.
- Định hướng hành động
Kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, huy động nhiều giác quan. Học sinh
khám phá, giải thích và tổng hợp thông tin một cách ý nghĩa.
- Tính tự lực cao của người học
Học sinh tham gia tích cực và tự lực vào tất cả các giai đoạn của quá
trình dạy học.
- Cộng tác làm việc
Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, việc học mang tính
xã hội. DHTDA thúc đẩy sự cộng tác giữa HS và GV, giữa các HS với nhau.
Nhiều khi, sự cộng tác được mở rộng đến cộng đồng. Sự làm việc mang tính
cộng tác của HS có tầm quan trọng như phương tiện làm phong phú hơn và
mở rộng sự hiểu biết của HS về những điều các em đã học.
20

- Định hướng sản phẩm
Kết quả của DHTDA là một sản phẩm có thể trưng bày hoặc công bố:
bài trình chiếu, sản phẩm thật, tranh ảnh

- Có tính phức hợp
DHTDA yêu cầu phải huy động và sử dụng phức hợp các kiến thức khác
nhau của nhiều môn học và liên quan đến nhiều lĩnh vực.
- Tạo ra môi trường học tập tương tác
2.3 Mục tiêu của dạy học theo dự án
- DHTDA hướng đến sự phát triển các kĩ năng tư duy, nhận thức như:
phân tích, tổng hợp, đánh giá, tư duy sáng tạo, tư duy tích cực
- DHTDA hướng tới việc nâng cao kĩ năng chuyên môn, kĩ năng sử
dụng các thiết bị khoa học kĩ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin vào quá
trình học tập.
- DHTDA hướng tới các vấn đê của thực tiễn nhằm kết hợp chặt chẽ nội
dung học tập và thực tiễn
- DHTDA hướng đến phát triển các kĩ năng cơ bản như kĩ năng giao tiếp,
kĩ năng giải quyết vấn đề phức hợp, các vấn đề mâu thuẫn, kĩ năng làm việc
theo nhóm.
2.4 Những tiêu chuẩn của dạy học theo dự án
- Dự án phải được đặt ở vị trí trung tâm của quá trình dạy học, thông qua
các hoạt động của dự án người học tiếp cận và chiếm lĩnh được các tri thức
cốt lõi của nội dung học tập.
- Xuyên suốt dự án phải có các câu hỏi định hướng, là cái sẽ hướng
người học đến việc phát hiện ra các vấn dề, các nội dung cốt lõi của môn học.
Câu hỏi định hướng sẽ giúp dự án tập trung vào những hoạt động dạy học
trung tâm.
Có ba dạng câu hỏi định hướng: câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và
câu hỏi nội dung
21

Câu hỏi khái quát( CHKQ): Là những câu hỏi giới thiệu khái quát nhất,
đầy đủ nhất những ý tưởng xuyên suốt bài học. Câu hỏi khái quát thường có
đặc điểm:

- Bao quát được các nhiệm vụ học tập quan trọng của bài học
- Đòi hỏi tư duy bậc cao, không thể trả lời bằng việc đơn thuần là nhắc
lại những kiến thức. Học sinh phải vận dụng nhiều kiến thức và kết hợp với
thực tiễn để có thể trả lời được.
- Được diễn giải bằng ngôn ngữ của HS nhằm thu hút sự chú ý của học
sinh, khơi dậy lòng ham muốn giải quyết vấn đề.
- Được lặp lại một cách tự nhiên thông qua người học và lịch sử môn học.
- Dẫn đến những câu hỏi quan trọng khác làm mở rộng vấn đề, mở rộng
tính phức tạp và phong phú của vấn đề.
Câu hỏi bải học( CHBH): Là những câu hỏi bó hẹp trong một chủ đề
hoặc một bài học cụ thể. CHBH dùng để hỗ trợ và phát triển CHKQ. Câu hỏi
bài học có đặc điểm:
- Thường mở ra và gợi ý những hướng nghiên cứu, thảo luận
-Được thiết kế nhằm khuyến khích và duy trì sự hứng thú của học sinh,
cho phép học sinh trả lời theo cách sáng tạo, độc đáo. Các câu hỏi này nên có
tính mở để có thể phù hợp với các sở thích khác nhau của người học.
- Đòi hỏi tư duy bậc cao, không thể trả lời bằng việc nhắc lại những kiến
thức có sẵn trong sách giáo khoa.
Câu hỏi nội dung( CHND): Là những câu hỏi hỗ trợ trực tiếp kiến thức
về nội dung và mục tiêu bài học, là những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời dựa
trên thực tế bài học. Câu hỏi nội dung hầu hết chú trọng vào sự kiện hơn là
giải thích hiện tượng, liên quan trực tiếp đến hệ thống kiến thức học sinh thu
Các CHND giúp HS xác định ai, cái gì, ở đâu và khi nào cũng như hỗ trợ
cho câu hỏi bài học và câu hỏi khái quát bằng cách nhấn mạnh vào việc hiểu
các nội dung chi tiết trong bài.
22

- Phải thách thức người học tạo ra cái mới, đó là các kĩ năng mới, những
hiểu biết mà người học chưa từng có trước đó và họ đã tự mình tìm ra các tri
thức đó để giải quyết các công việc của mình.

- DHTDA phải tăng khả năng tự chủ, khả năng tự đưa ra quyết định,
tăng thời gian tự làm việc và tăng trách nhiệm của mỗi cá nhân.
- DHTDA phải “ thực”, tức là đề tài cần gắn với đời sống thực tế xung
quanh chứ không phải là các tình huống giả định. Học sinh thể hiện việc học
của mình trước những đối tượng thực tế, tham khảo các chuyên gia trong lĩnh
vực nghiên cứu, hoặc trao đổi thông qua công nghệ hiện đại.
- DHTDA cần có bước nghiệm thu dự án và đòi hỏi các hình thức đánh
giá đa dạng. Khi triển khai dự án luôn luôn kiểm chứng mức độ lĩnh hội bằng
các phương pháp đánh giá khác nhau. Học sinh được xem mẫu và hướng dẫn
trước để thực hiện. Cần tạo cơ hội để rà soát, phản hồi, điều chỉnh trong suốt
quá trình thực hiện
2.5 Các giai đoạn của dạy học theo dự án.
Mỗi DAHT thường gồm ba giai đoạn chính sau:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành dự án
Trong giai đoạn này người học được tích lũy các kiến thực cơ bản của
môn học, người học tìm mối liên hệ với cuộc sống xung quanh và phát hiện ra
các tình huống có vấn đề từ đó hình thành nên ý tưởng của dự án và chuẩn bị
các công việc để thực hiện dự án. Trong giai đoạn này người dạy ngoài nhiệm
vụ truyền đạt các kiến thức cơ bản của môn học còn nhiệm vụ khéo léo đặt
người học vào trong các tình huống có vấn đề để người học dựa trên đó hình
thành các dự án giải quyết những vấn đề đó, sau đó người dạy kiểm tra tính
khả thi của kế hoạch được đề ra bởi người học và đóng góp ý kiến.
- Giai đoạn 2: Thực hiện dự án
Đây là giai đoạn quan trọng khi người học bằng chính những kiến thức
cơ bản của mình có , thu thập thông tin, dữ liệu để thực hiện các nhiệm vụ của
23

dự án. Giai đoạn này người học phải đặt nhiều câu hỏi để giải quyết các
nhiệm vụ của mình. Người học phải học cách làm việc nhóm, học cách tư duy
bậc cao, học cách vượt qua khó khăn Và quan trọng nhất, đây là giai đoạn

phát hiện ra được những năng lực phẩm chất, thế mạnh của mình và dần dần
định hướng nghề nghiệp tương lai cho bản thân. Trong toàn bộ giai đoạn này,
người dạy chỉ đóng vai trò là cố vấn và hỗ trợ người học để thực hiện các
công việc của dự án.
-Giai đoạn 3: Đánh giá và nghiệm thu dự án.
Trong giai đoạn này, người học bằng những kiến thức của mình thu nhận
được sẽ phải bảo vệ dự án của mình và đưa ra các bằng chứng chứng minh
cho sự thành công của dự án dựa trên các mục tiêu ban đầu. Người dạy sẽ tổ
chức các hoạt động để giúp người học thể hiện được những kết quả thu được.
Với ba giai đoạn trên, thực tế khi tiến hành DHTDA, người dạy có thể
linh hoạt chia nhỏ các giai đoạn hoặc chia một giai đoạn thành nhiều bước
thực hiện sao cho phù hợp với hoàn cảnh, với đối tượng HS.
2.6 Phƣơng pháp đánh giá kết quả trong dạy học theo dự án.
2.6.1 Các kiểu đánh giá trong quá trình dạy học
1. Tiền đánh giá: Mục đích là để biết trình độ xuất phát của học sinh khi
bắt đầu tiếp nhận một chủ đề mới của chương trình học. Dựa vào đó giáo viên
xây dựng kế hoạch học tập cho phù hợp với trình độ của người học.
2. Đánh giá quá trình: được dùng thường xuyên trong quá trình dạy học
để theo dõi sự tiến bộ của HS từ đó GV thay đổi biện pháp, kế hoạch giảng
dạy cho phù hợp.
3. Đánh giá tổng kết: nhằm xem xét kết quả học tập của học sinh sau một
giai đoạn nhất định theo quy định chung. Từ đó GV thu thập thông tin về HS đề
điều chỉnh mục tiêu, nội dung phương pháp dạy học ở các nội dung tiếp theo.
1.3.1. Các công cụ đánh giá trong quá trình dạy học theo dự án
Đánh giá là một yếu tố quan trọng trong quá trình dạy học nói chung và
24

DHDA nói riêng. Đối với DHDA thì học sinh đóng vai trò trung tâm nên việc
kiểm tra đánh giá trong suốt quá trình từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc la rất cần
thiết cho học sinh. Trong DHDA thường sử dụng các loại phiếu đánh giá sau:

phiếu đánh giá cá nhân, sổ theo dõi dự án.
Phiếu đánh giá cá nhân: Phiếu được phát cho học sinh ngay từ lúc bắt
đầu dự án và được thu lại khi dự án kết thúc. Nó cho phép học sinh tự đánh
giá năng lực bản thân. Có thể cho học sinh tự đánh giá trước và sau khi thực
hiện dự án để theo dõi sự thay đổi của bản thân
Sổ theo dõi dự án: Được phát cho học sinh ngay từ đầu. Sổ theo dõi dự
án cho phép giáo viên được quá trình thực hiện dự án của học sinh. Sổ theo
dõi dự án bao gồm:
- Các ý tưởng ban đầu
- Kế hoạch thực hiện dự án.
- Phiếu phân công nhiệm vụ trong nhóm
- Thông tin quan sát, tranh ảnh, bài viết
- Biên bản thảo luận nhóm
- Bảng đánh giá quá trình thực hiện dự án
2.7 Vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học theo dự án.
2.7.1 Vai trò của giáo viên
Vai trò của GV trong dạy học dự án khác biệt so với vai trò mà hầu hết
các GV đã quen thuộc. Trong lớp học truyền thống, GV nắm giữ tất cả những
kiến thức và truyền tải đến HS; sự giao tiếp, trao đổi thông tin trong lớp học
truyền thống chỉ mang tính một chiều. Với DHTDA giáo viên không còn điều
khiển tư duy cho HS nữa mà vai trò lúc này là người hướng dẫn, người tư
vấn, là bạn học, cho phép người học tự xây dựng kiến thức của họ.
- Khi bắt đầu dự án, các nguồn tài liệu tham khảo ban đầu rất quan trọng
để giúp người học có thêm kiến thức và định hướng các công việc cần làm. Vì
vậy GV cần cung cấp các nguồn tài liệu tham khảo đa dạng cho HS; tư vấn
thêm cho dự án; các phầm mềm tin học
25

- Dành thời gian tích hợp trên lớp để người học thực hiện các công việc:
thảo luận nhóm, viết đề cương dự án, viết- chỉnh sửa- kiểm tra các bản báo

cáo. GV cần đưa ra các phản hồi sớm nhất liên quan đến dự án để người học
kịp điều chỉnh trong quá trình thực hiện.
- GV cần truyền cảm hứng được cho người học . Với đặc điểm DHTDA,
đặc biệt là những dự án kéo dài, người học thường bị chi phối bởi nhiều yếu
tố và khi thực hiện dự án sẽ có những thời điểm người học bị bế tắc và chán
nản dễ dẫn đến việc từ bỏ. Khi đó, GV bên cạnh việc hướng dẫn cho HS
truyền đạt kiến thức giúp họ giải quyết vấn đề, tạo động lực cho người học,
giúp họ tái tạo hứng thú và thực hiện tiếp dự án.
2.7.2 Vai trò của học sinh
DHTDA cũng làm thay đổi vai trò của HS. Học sinh được đưa ra nhiều
quyết định, được cộng tác làm việc, được đưa ra sáng kiến, được trình bày
trước đám đông. Mặc dù lúc đầu có thể là thách thức lớn, nhưng hầu hết học
sinh đều nhận thấy công việc dự án này rất ý nghĩa, có liên quan thực tế đến
đời sống và rất hấp dẫn. Vì vậy, người học rất tích cực, thực hiện tốt dự án và
ghi nhớ nhanh kiến thức mới.
- Tham gia lựa chọn đề tài, nội dung học tập sao cho phù hợp với khả
năng và hứng thú của từng cá nhân qua đó khuyến khích được tích cực, tự
lực, tính trách nhiệm và sự sáng tạo của HS.
- HS làm việc với các thành viên trong nhóm trong một khoảng thời gian
nhất định để giải quyết những nội dung học tập phức hợp.
- HS hệ thống kiến thức, thiết lập mối quan hệ giữa các nội dung kiến
thức của môn học và được tạo điều kiện học tập trong môi trường hợp tác.
- HS phải tạo ra các sản phẩm học tập đáp ứng các yêu cầu đề ra, đảm
bảo tính thẩm mý, khoa học, kinh tế do đó khơi gợi sự tò mò và óc sáng tạo
của người học qua việc cho phép chủ dộng, tự do tưởng tượng trong quá trình
học tập.

×