Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.42 KB, 81 trang )


Chương I:
Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
1.1. Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn quan trọng, được đánh giá
là khá hữu hiệu, tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh cho thuê
tài chính trên thế giới hiện nay phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua
các năm. Các sản phẩm của hình thức tín dụng này ngày càng đa dạng hơn, từ
máy fax, máy photocopy, máy tính đến xe tải, máy bay, tàu thủy...Trước khi đi
vào phân tích về lĩnh vực quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính, việc
tìm hiều những nét tổng quan về hình thức tín dụng này sẽ giúp chúng ta có thể
hiểu sâu sắc hơn.
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính có nguồn gốc từ việc cho thuê tải sản. Từ
những năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian gần vịnh Ba Tư
( hiện nay thuộc Iraq ), giao dịch cho thuê tài sản đầu tiên ra đời với việc cho
thuê các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, ruộng đất, nhà cửa. Sau đó,
vào khoản năm 1700 trước Công nguyên, vua Babylon đã ban hành nhiều văn
bản quy định về cho thuê tài sản.
Ở các nước có nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, giao dịch
cho thuê tài sản cũng đã xuất hiện hàng ngàn năm trước công nguyên. Người Hy
Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển việc cho thuê hầm mỏ. Người Hy
Lạp cổ đại cũng tiên phong tạo ra khái niệm ngân hàng cho thuê. Tài sản thuộc
1

quyền sở hữu của ngân hàng cho thuê đầu tiên được kí kết vào năm 370 trước
công nguyên trong đó bao gồm tên ngân hàng, tiền kí quỹ, tên văn phòng và đội
ngũ nhân viên.
Đến đầu thế kỷ 19 do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế
hàng hóa hoạt động thuê tài sản đã có sự thay đổi về tính chất của giao dịch và


xuất hiện hình thức cho thuê tài chính đầu tiên ở Mỹ. Hoạt động cho thuê tài
chính thời kỳ này đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng, chủng loại thiết bị tài
sản thuê. Những dạng hợp đồng cho thuê tài chính tạm thời bắt nguồn từ Hoa
Kỳ. Công ty cho thuê tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ United State Leasing
Corporation do Henry Shoeld sáng lập vào năm 1952 Công ty đã được thành lập
để phục vụ cho ngành công nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt.
Các nước châu Âu đã nối gót thành lập những công ty cho thuê vào cuối
thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 và có những bước phát triển mạnh mẽ ở
châu Á và châu Phi từ thập niên 70. Thập niên 80 đã đánh dấu việc cho thuê tài
chính được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Ở Việt Nam, phải đến năm 1995, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu
cầu vốn đầu tư trung và dài hạn ngày càng gia tăng, nghiệp vụ cho thuê tài chính
mới bắt đầu được thực hiện dưới hình thức tín dụng thuê mua bằng việc Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 149/QĐ-NHNN ngày 27/05/1995.
Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng được thành lập công ty trực thuộc
hoặc văn phòng Tín dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt động tín dụng
thuê mua. Tiếp theo đó ngày 09/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP
quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại
Việt Nam. Nghị định này đã là cơ sở hướng dẫn và là quyết định cho hàng loạt
các Công ty Cho thuê tài chính ra đời.
2

Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào
năm 1996 và hoạt động cho thuê cũng đã manh nha ở các ngân hàng thương mại
trước đó nhưng mãi đến khi Chính Phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP vào
ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự được
hình thành. Mới đây nhất, chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2008/NĐ-CP
sửa đổi và bổ sung một số điều về Nghị định 16/2001/NĐ-CP. Việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật này đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho
thuê tài chính ở Việt Nam.

Hiện nay ở Việt Nam đang có 13 công ty cho thuê tài chính được thành lập
dưới các hình thức khác nhau đang hoạt động. Trong số đó, có các doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước, có các doanh nghiệp dưới hình thức công ty cho thuê tài
chính 100% vốn nước ngoài, lại có doanh nghiệp thuộc hình thức đa sở hữu như
Công ty cho thuê tài chính liên doanh. Lượng vốn cấp theo hình thức cho thuê tài
chính chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với hình thức cấp vốn của ngân hàng. Trong khi đó,
với lợi thế của mình, đáng lẽ loại hình dịch vụ cho thuê tài chính phải được phát
triển nhanh chóng ở Việt Nam, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang cần thu
hút một lượng vốn lớn cho đầu tư cũng như cho tái đầu tư mở rộng. Dù vậy cũng
phải nhìn nhận hoạt động cho thuê tài chính đã phần nào giảm sức ép và gánh
nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn đối với doanh
nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay gồm:
+ Các công ty cho thuê tài chính của các Ngân hàng: Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, Công thương, Ngoại thương, Sài Gòn Thương Tín, Đầu tư
và Phát triển Việt Nam;
3

+ Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài gồm: Công ty cho thuê
tài chính ANZ-VTRAC; Cty cho thuê tài chính Kexim và Công ty cho thuê
tài chính Quốc tế Chailease;
+ Các loại hình khác: Công ty cho thuê tài chính Quốc tế VN (liên doanh);
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng
Á Châu; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính
Công nghiệp tàu thủy.
1.1.2. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính
• Theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC), một giao dịch thuê tài
sản thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn dưới đây đều được gọi là thuê tài chính:
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hợp đồng.
- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua bán tài sản tại thời điểm chấm

dứt hợp đồng.
- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động hữu dụng của tài
sản.
Trên cơ sở phân loại của IASC, các nước có những quy định cụ thể trong
pháp luật về cho thuê tài chính dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi
nước, có thể nhấn mạnh tiêu chuẩn này hay giảm bớt tiêu chuẩn khác nhưng về
cơ bản không có điều gì mâu thuẩn với các tiêu chuẩn chung.
• Ở Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của
Chính phủ về “ Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính” thì:
“Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ
sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của
4

bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng
tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả
thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê
tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp
đồng.”
Điểm khác biệt lớn giữa quan điểm về cho thuê tài chính ở Việt Nam so với
trên thế giới là đối tượng cho thuê là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển
và các động sản khác mà không áp dụng cho thuê đối với bất động sản.
1.1.4. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính
- Hoạt động cho thuê tài chính phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định
như Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ
giao dịch thuê nào thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn sau đều được gọi là giao

dịch thuê tài chính:
+ Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc
hợp đồng.
+ Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp
đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng.
+ Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu ích
của tài sản thuê.
+ Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả tiền lớn
hơn hoặc bằng giá trị thị trường của tài sản thuê tại thời điểm ký hợp đồng
5

- Đa phần các hợp đồng cho thuê tài chính được hai bên ký kết là để đầu tư
cho các tài sản thuê mới. Quyền lựa chon tài sản thuê trong các trường hợp đều
thuộc về bên thuê, công ty cho thuê tài chính có nghĩa vụ phải mua đúng loại tài
sản thuê mà bên thuê đã thỏa thuận hay cam kết với bên cung cấp tài sản.
- Tài sản thuê tài chính phải được mua bảo hiểm vật chất đầy đủ trong suốt quá
trình thuê. Phí bảo hiểm cho tài sản có thể do bên thuê hoặc bên cho thuê thanh
toán và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính nhưng người
hưởng thụ trong suốt quá trình thuê phải là bên cho thuê tài chính.
- Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang nên bên thuê
không được quyền chấm dứt hợp đồng trước hạn, trừ trường hợp do lỗi của bên
cho thuê hoặc bên thuê đề nghị xin chấm dứt hợp đồng trước hạn và phải được
bên cho thuê đồng ý.
- Thuê tài chính là một hình thức vay vốn, tài trợ vốn. Tổng số tiền thuê tài
chính được trả theo một lịch thanh toán do bên cho thuê và bên thuê thỏa thuận
và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính. Thông thường số tiền
thuê tài chính được trả theo định kỳ nhất định mà bên thuê đề nghị. Các khoản
tiền phải trả trong một kỳ bao gồm tiền gốc và tiền lãi thuê.
So sánh giữa cho thuê tài chính và cho vay trung dài hạn
Để các đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính trở nên nổi bật và dễ nhận

biết, ta có thể làm phép so sánh sau:
Về cơ bản, có thể coi cho thuê tài chính như một loại hình tín dụng trung và
dài hạn vì nó mang những đặc trưng cơ bản của loại hình tín dụng này:
- Bên cho vay (hay bên cho thuê) chuyển giao có thời hạn cho bên đi vay
(hay bên đi thuê) một lượng giá trị dựa trên những cơ sở tín nhiệm.
6

- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (hay cho
thuê) hay nói cách khác là bên đi vay (đi thuê) phải trả thêm phần lãi ngoài vốn
vay gốc.
Tuy nhiên cho thuê tài chính vẫn có thể phân biệt với tín dụng trung và dài
hạn thông thường của ngân hàng qua một số điểm sau:
- Trong cho vay trung và dài hạn thông thường, ngân hàng tài trợ vốn bằng
tiền cho khách hàng dùng số tiền đó mua tài sản phục vụ cho sản xuất kinh
doanh. Còn trong cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ cho khách hàng trực
tiếp bằng các tài sản máy móc thiết bị mà khách hàng đang cần dùng. Như vậy,
tài trợ bằng cho thuê tài chính đảm bảo sử dụng đúng mục đích vốn vay hơn so
với hoạt động cho vay thông thường.
- Lãi suất cho thuê của cho thuê tài chính cao hơn so với lãi suất tín dụng
trung và dài hạn của ngân hàng, do được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung và
dài hạn cộng với một tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý tài sản cho thuê của bên
cho thuê.
- Trong giao dịch tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng phần lớn có sự
tham của hai bên là người đi vay và ngân hàng, nhưng cũng có những trường
hợp có sự tham gia của bên thứ ba là người bảo lãnh trong trường hợp người đi
vay không đủ năng lực tài chính. Còn trong cho thuê tài chính, bên cạnh sự tham
gia của bên thuê, công ty cho thuê tài chính, người bảo lãnh còn có sự tham gia
rất quan trọng của một chủ thể thứ ba là các nhà cung cấp tài sản, nhưng cũng có
trường hợp chỉ có hai bên tham gia trong giao dịch mua và cho thuê lại.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, người đi vay có quyền định đoạt đối với

tài sản đầu tư bằng tiền vay (tài sản đó thuộc sở hữu của người vay, được thế
chấp cho ngân hàng). Do đó, khi cần thu nợ thường khó khăn vì xử lý tài sản thế
7

chấp phức tạp. Đối với cho thuê tài chính, quyền sở hữu tài sản vẫn do bên cho
thuê nắm giữ và bên thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian cho thuê.
Vì thế bên thuê không được hạch toán vào tài sản có của mình mà chỉ được hạch
toán vào tài sản ngoại bảng và tất nhiên cũng không được sử dụng làm vật bảo
đảm trong tài sản thế chấp. Đồng thời, cũng nhờ vậy mà khi xảy ra tình huống
xiết nợ thì điều đó dễ dàng cho công ty cho thuê tài chính để thu hồi tài sản.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thường yêu cầu người vay
phải có tài sản đảm bảo và kéo theo nhiều thủ tục giấy tờ. Còn trong cho thuê tài
chính, tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên cho thuê nên người thuê không bị đòi hỏi
có tài sản thế chấp và nhờ đó giảm bớt một số công đoạn thủ tục, giấy tờ.
1.1.4. Phân loại hoạt động cho thuê tài chính.
Việc áp dụng cho thuê tài chính có sự cải biến tùy theo điều kiện kinh tế và
môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia, nhưng sự khác biệt là không nhiều do
quan hệ cho thuê hiện nay đã có mối quan hệ toàn cầu, doanh nghiệp của một
nước hoàn toàn có thể sử dụng sản phẩm được thuê từ một tổ chức nước ngoài.
Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính, các ngân hàng, tổ chức tài chính của
các nước phát triển cũng đã thâm nhập vào các nước đang phát triển dưới hình
thức thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh hoặc liên doanh.
Điều này giúp cho thuê tài chính thâm nhập sâu hơn vào các nước đang phát
triển và sự khác biệt về quan điểm cho thuê tài chính giữa các quốc gia dần dần
thu hẹp lại.
Theo số đối tác tham gia giao dịch, cho thuê tài chính thường có hai hình
thức chủ yếu sau:
a, Cho thuê tài chính giản đơn (có sự tham gia của hai bên)
8


Theo hình thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản được
dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua tài sản
hoặc tự xây dựng. Đây là hình thức được các công ty kinh doanh bất động sản và
các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện. Các tổ chức tài chính rất ít khi
áp dụng hình thức tài trợ này.
Ký hợp đồng thuê (1)

Bàn giao tài sản thuê (2)
Thanh toán tiền thuê (3)
(1) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng
(2) Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng và giao tài sản
cho bên đi thuê
(3) Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê
Sơ đồ 1.1: Cho thuê tài chính hai bên
b, Cho thuê tài chính thông thường (có sự tham gia của 3 bên) :
Theo hình thức này, có sự tham gia của ba bên là bên cho thuê, bên đi thuê
và bên cung cấp. Bên thuê được quyền lựa chọn, thỏa thuận với bên cung cấp về
sản phẩm. Bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu đã được hai
bên thỏa thuận trong hợp đồng của bên đi thuê.
9
Bên cho thuê
Bên đi thuê

(1) (3)
(4) (5)
(6)

(2)
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên
(1) Bên thuê được chủ động lựa chọn máy móc thiết bị, thỏa thuận với nhà

cung cấp bằng hợp đồng hoặc bản ghi nhớ.
(2) Bên thuê – Bên cho thuê ký kết hợp đồng cho thuê tài chính trên cơ sở
hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua máy móc
thiết bị, kết quả thẩm định của bên cho thuê đồng ý cho thuê.
(3) Bên cho thuê – Nhà cung cấp ký kết hợp đồng mua bán máy móc thiết bị
là tài sản thuê theo thỏa thuận giữa bên thê và nhà cung cấp.
(4) Nhà cung cấp giao hàng cho bên thuê, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài
sản giao nhận.
(5) Bên cho thuê thanh toán tiền tiền mua tài sản thuê cho nhà cung cấp.
(6) Bên cho thuê thanh toán tiền thuê tài chính theo hợp đồng cho thuê
chính.
Đây là hình thức cho thuê được sử dụng phổ biến nhất, có đến 80% hợp đồng
thuê tài chính trên thế giới áp dụng theo phương thức này. Các công ty cho thuê
tài chính đã áp dụng phương thức này là chủ yếu để tài trợ cho doanh nghiệp, đặc
biệt là đối với cho thuê thiết bị. Sở dĩ như vậy là vì, phương thức này có những
ưu điểm nổi trội sau đây:
10
Nhà cung cấp
Bên thuê Bên cho thuê

- Về phía bên thuê: Bên thuê được quyền lựa chọn nhà cung cấp, trực tiếp
thỏa thuận, đám phán cho nhà cung cấp về những đặc tính của sản phẩm nhằm
lựa chọn ra sản phẩm phù hợp nhất, thỏa mãn tối đa yêu cầu của bên thuê.
- Về phía bên cho thuê: Bên cho thuê không phải mua sản phẩm trước, như
vậy sẽ giảm bớt những chi phí về kho bãi, hao mòn trong quá trình dữ trự và hơn
nữa còn giúp quay vòng vốn nhanh hơn nhờ không phải dự trữ hàng tồn kho.
Mặt khác bên thuê trực tiếp nhận sản phẩm từ nhà cung cấp, nhờ vậy bên
thuê giảm được rủi ro xảy ra khi bên thuê từ chối nhận hàng do những sai sót về
mặt kỹ thuật. Việc lắp đặt bảo dưỡng, sửa chữa sản phẩm đều thuộc nhà cung
cấp và bên thuê nên bên cho thuê không phải quan tâm đến tình trạng hoạt động

của tài sản.
Trên đây là hai hình thức cho thuê cơ bản. Từ hai hình thức này còn có
nhiều hình thức biến tướng, đó là hình thức cho thuê hợp vốn, mua và cho thuê
lại, cho thuê giáp lưng...
c, Cho thuê hợp vốn:
Đây là hình thức cho thuê đặc biệt kết hợp từ hai hình thức cho thuê cơ bản
trên. Trong hình thức cho thuê này, nhiều bên cho thuê cùng tài trợ cho một bên
thuê, trong đó bên cho thuê đứng ra làm đầu mối. Hình thức này được áp dụng
khi nhu cầu thuê tài chính của bên thuê vượt quá giới hạn cho thuê của một công
ty cho thuê tài chính hoặc nhằm phân tán rủi ro hoặc cũng có trường hợp do bên
thuê yêu cầu ( Ở Việt Nam, tổng dư nợ cho thuê tài chính của một công ty cho
thuê tài chính không được vượt quá 30% vốn tự có đối với một khách hàng và
80% vốn tự có đối với nhóm khách hàng có liên quan). Sự liên kết của các bên
cho thuê có thể xảy ra theo chiều ngang (giữa nhiều nhà sản xuất, giữa các định
11

chế tài chính với nhau ) hoặc theo chiều dọc (giữa các công ty mẹ với các chi
nhánh của mình).
d, Mua và cho thuê lại ( tái cho thuê):
Đây là hình thức cho thuê mà trong đó công ty cho thuê tài chính mua tài
sản thuộc sở hữu của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó theo hình
thức cho thuê tài chính để bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Trong giao dịch mua và cho thuê lại, bên thuê đồng
thời là bên cung ứng tài sản cho thuê. Bên mua và cho thuê lại (gọi là bên cho
thuê) là các công ty cho thuê tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Việt
Nam.
Hình thức cho thuê này được sử dụng trong trường hợp nhiều doanh nghiệp
thiếu vốn lưu động để khai thác hết tài sản cố định hiện có, nhưng lại không đủ
uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân hàng. Đồng thời doanh nghiệp vẫn muốn
duy trì năng lực sản xuất hiện có nên không thể bán bớt tài sản cố định của mình.

Trong hoàn cảnh này, hình thức giao dịch mua và cho thuê lại sẽ giúp doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng trên, ngoài ra phương thức này cũng có thể được sử
dụng như một giải pháp tình thế cho vẫn đề nợ quá hạn mà không phải sử dụng
đến biện pháp thanh lý. Điều này còn nhằm ngăn chặn việc phá sản của doanh
nghiệp, đông thời giúp ngân hàng giảm được thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra khi
doanh nghiệp thực sự lâm vào tình trạng phá sản. Có thể coi phương thức mua và
cho thuê lại như là sự chuyển hóa từ vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn.
e, Cho thuê giáp lưng:
Dù các công ty tài chính có thể tài trợ được cho cả những doanh nghiệp
không nhận được sự tin tưởng cao từ ngân hàng hoặc các công ty cho thuê tài
chính khác nhưng cũng không có nghĩa là tài trợ cho bất cứ ai. Ví dụ trong
12

những trường hợp doanh nghiệp đã không thực hiện được những hợp đồng trong
quá khứ, hay doanh nghiệp chưa được bên cho thuê biết đến (như các công ty
nước ngoài chỉ chấp nhận tài trợ cho những công ty lớn của Việt Nam ). Trong
những trương hợp này, dưới sự đồng ý của bên cho thuê, bên thuê thứ nhất sẽ
cho bên thuê thứ hai (người thực sự cần sử dụng tài sản vào thời điểm đó ) thuê
lại tài sản mà mình đã thuê từ bên cho thuê. Kể từ khi hợp đồng cho thuê lại
được kí kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ cùng tài sản thuê được chuyển giao từ
bên thuê thứ nhất sang bên thuê thứ hai. Các chi phí pháp lý, di chuyển tài sản
phát sinh từ hợp đồng này do bên thuê thứ nhất và bên thuê thứ hai thỏa thuận
với nhau. Dù bên đi thuê thứ nhất chỉ là trung gian giữa bên cho thuê và bên đi
thuê thứ hai nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý về việc thực hiện hợp đồng
đối với bên cho thuê. Bù lại, bên đi thuê thứ nhất sẽ nhận được phần chênh lệch
giữa hai khoản tiền thuê như là hoa hồng trách nhiệm.
f, Cho thuê bằng vốn vay:
Đây cũng là một biện pháp trong trường hợp công ty cho thuê không đủ
điều kiện tự tài trợ cho khách hàng. Không giống như quan hệ đồng tài trợ trong
cho thuê hợp vốn, bên cho thuê sẽ vay vốn từ các ngân hàng hoặc các định chế

tài chính khác để mua tài sản cho thuê. Bên cho thuê vẫn là trái chủ trong quan
hệ cho thuê, còn bên cho vay là trái chủ của bên cho thuê. Hay nói cách khác,
vốn tài trợ trong phương thức này bao gồm hai phần, một phần là vốn của bản
thân bên cho thuê và một phần là vốn vay được cung cấp từ các bên cho vay.
Vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ nhưng không được
vượt quá 80% và khoản cho vay được đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê và
cam kết chuyển nhượng hợp đồng cho thuê và các khoản tiền thuê.
13

1.1.5. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính
a) Đối với bên đi thuê:
- Bên đi thuê dễ dàng tiếp cận nguồn tài trợ từ cho thuê tài chính: Do đặc
thù của cho thuê tài chính là quyền sở hữu tài sản thuộc về bên cho thuê, các
công ty cho thuê tài chính, các công ty tài chính không quá khắt khe trong việc
xem xét uy tín của khách hàng để đưa ra quyết định cho vay. Điều này tạo thuận
lợi rất lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay
các doanh nghiệp mới thành lập. Thông thường đối với các khoản vốn vay trung
và dài hạn, các ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp
hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng
với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm
bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Việc
không đòi hỏi tài sản đảm bảo còn giúp thủ tục cho thuê tài chính được thực hiện
nhanh chóng, đơn giản.
- Cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt đồng vốn hơn
thay vì mua tài sản cố định: Thuê tài chính giúp cho bạn tiếp cận được với rất
nhiều loại thiết bị, từ những thiết bị văn phòng đơn giản như máy photocopy,
máy tính, xe tải, xe ô tô cho tới các dây chuyền sản xuất hiện đại. Mặc dù thuê
tài chính không trực tiếp chuyển vốn cho doanh nghiệp, tuy nhiên hình thức này
hoàn toàn có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt lượng tiền cần để khởi sự hoặc mở
rộng kinh doanh.

Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động
trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng
loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã
lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty
14

cho thuê tài chính và sau đó công ty sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy
doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn
được sử dụng tài sản. Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên
mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời
điểm mua lại.
Việc sử dụng tài sản cho thuê không ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của
doanh nghiệp ( hay nói cách khác là không ảnh hưởng đến nguồn tài trợ từ vốn
vay ngân hàng ) do tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng. Hơn nữa, dù
không phải bỏ ngay ra một khoản tiền đểu lớn để mua tài sản nên doanh nghiệp
không bị đọng vốn, có thể sử dụng số tiền đó để phục vụ cho những hoạt động
khác nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, lịch trả nợ cũng thường
được các công ty cho thuê tài chính điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hạn chế sự lạc hậu, bắt kịp tôc độ
phát triển của khoa học công nghệ, qua đó nâng cao năng lực sản xuất: để tăng
cường khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn phải chú ý đến việc đổi mới
công nghệ, dây chuyền sản xuất nhằm tăng năng suất hoạt động, tạo ra những
sản phẩm tiến tiến, hạ giá thành sản phẩm. Cho thuê tài chính là một kênh đáp
ứng nhu cầu đó của khách hàng. Lợi ích này đặc biệt quan trọng nếu ngành kinh
doanh của doanh nghiệp phải dựa nhiều vào các công nghệ tân tiến như thế hệ
máy tính mới nhất, các công cụ truyền thông, dây chuyền công nghệ mới hoặc
các thiết bị khác. Nhiều hợp đồng thuê ngắn hạn có thể sẽ tiết kiệm hơn là việc
sau một hai năm lại mua thiết bị mới. Ngoài ra, do các tài sản đều thuộc sở hữu
của bên cho thuê nên bên đi thuê không phải quan tâm đến rủi ro về mặt pháp lý.

15

- Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hưởng lợi ích từ lá chắn thuế: Tài
sản cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho
thuê được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác,
bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng
làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai doanh nghiệp
đều nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế.
b, Đối với nhà cung cấp:
Hoạt động cho thuê tài chính giúp nhà cung cấp thúc đẩy việc tiêu thụ sản
phẩm. Mặt khác, đối với loại hình cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên,
dù người muốn sử dụng sản phẩm chưa có điều kiện để thanh toán, nhà cung cấp
vẫn được nhận tiền ngay mà không phải sử dụng đến những biện pháp như cho
mua trả góp, vay trả chậm để bán được hàng.
c, Đối với nền kinh tế:
- Cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế: cũng như các hoạt
động tín dụng khác, các công ty cho thuê tài chính thu hút vốn từ các nguồn
nhàn rỗi trong nền kinh tế và thông qua hoạt động cho thuê tài chính của mình,
chuyển vốn đến tay những đối tượng đang cần vốn dưới dạng tài sản. Đặc biệt,
trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay, nguồn vốn được chu chuyển không chỉ
trong nội bộ một nền kinh tếmà mở rộng giữa các quốc gia với nhau. Điều đó
được thể hiện thông qua việc các công ty cho thuê tài chính cung cấp các loại
máy móc, thiết bị cho thuê được mua từ nước ngoài hoặc thông qua các hoạt
động liên doanh, mở chi nhánh, thành lập công ty cho thuê tài chính 100% vốn
đầu tư nước ngoài của các tổ chức tài chính quốc tế. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện
nay, phần lớn các công ty cho thuê tài chính là công ty con của ngân hàng mẹ.
16

Hoạt động huy động vốn của các công ty này còn rất hạn chế và nguồn vốn hoạt
động chủ yếu hình thành từ việc đi vay ngân hàng mẹ.

- Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ bổ sung, giúp hoàn thiện hệ
thống tài chính của nền kinh tế: nhu cầu tài trợ vốn trung và dài hạn là rất cao,
nhưng khả năng đáp ứng của ngân hàng đối với nguồn vốn này là có hạn. Điều
này là do nguồn vốn huy động được của các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn là
nguồn ngắn hạn, mà việc chuyển đổi từ nguồn ngắn hạn sang tài trợ dài hạn
mang lại nhiều rủi ro. Phương thức tài trợ cho thuê là hình thức tài trợ bổ sung
góp phần đa dạng hóa loại hình dịch vụ trong hệ thống tài chính. Nếu doanh
nghiệp cần có máy móc, thiết bị ngay lập tức, việc đi thuê sẽ được chấp thuận
nhanh hơn nhiều so với các khoản vay tín dụng, và không cần nhiều thủ tục giấy
tờ phiền hà, các yêu cầu về tín dụng cũng dễ chịu hơn. Nhất là với các doanh
nghiệp đang ở giai đoạn khởi đầu, việc thuê tài chính sẽ dễ dàng hơn nhiều so
với việc đi vay ngân hàng. Thông qua hoạt động của mình, các công ty tài chính
cũng đóng vai trò là trung gian giúp gắn chặt hệ thống tài chính với lĩnh vực sản
xuất.
1.2. Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.1. Khái niệm rủi ro.
Rủi ro là một khái niệm luôn song hành cùng với tất cả các lĩnh vực. Trong
hoạt động tín dụng, rủi ro là một phạm trù rất quan trọng mà cho thuê tài chính
cũng không phải là ngoại lệ. Có nhiều quan niệm về rủi ro và những hậu quả mà
rủi ro gây ra, tuy nhiên khái niệm chung nhất về rủi ro có thể được đưa ra như
sau: Rủi ro là bất cứ điều gì không chắc chắn có thể ảnh hưởng tới các kết quả
so với những gì chúng ta mong đợi.
17

Lĩnh vực tài chính nói chung, tài chính ngân hàng nói riêng không chỉ là
lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế mà còn là một trong những lĩnh vực nhạy
cảm nhất về rủi ro. Hoạt động tín dụng chiếm từ 60% đến 70% các chỉ số trong
hoạt động tài chính ngân hàng. Do đó nói đến rủi ro trong lĩnh vực tài chính thì
rủi ro tín dụng là rủi ro thường được quan tâm nhất. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng:

Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế, rủi ro tín dụng là rủi ro mất vốn do
bên đối tác không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Ở Việt Nam, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước
ban hành ngày 22/04/2005 “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Tại sổ tay tín dụng của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam cho rằng
“Rủi ro tín dụng là tình trạng khách hàng không thực hiện nghĩa vụ tài chính đã
cam kết”.
Từ các khái niệm về rủi ro tín dụng, xuất phát từ đặc thù hoạt động cho thuê
tài chính thì có thể hiểu:
Rủi ro hoạt động cho thuê tài chính là những tổn thất mà công ty cho thuê
tài chính phải gánh chịu khi bên thuê không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
mình theo cam kết tại hợp đồng cho thuê tài chính.
1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tồn tại khách quan cùng với sự tồn
tại của hoạt động này. Về bản chất, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng
trung dài hạn, vì vậy hoạt động cho thuê tài chính có những rủi ro giống như
hoạt động tín dụng nói chung, đồng thời có những rủi ro đặc thù. Có nhiều tiêu
18

chí để phân loại, nhưng khái quát lại có thể phân rủi ro trong hoạt động cho thuê
tài chính bao gồm: rủi ro về tài chính, rủi ro hoạt động và rủi ro khác.
1.1.2.1. Rủi ro tài chính.
Rủi ro tài chính là những rủi ro liên quan trực tiếp đến việc thu hồi tiền thuê
gây nên những thiệt hại về mặt tài chính cho bên thuê. Các rủi ro về tài chính bao
gồm:
• Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn:
Rủi ro này rất đáng lo ngại bởi nó sẽ làm trì trệ cũng như làm đảo lộn kế hoạch
kinh doanh của công ty cho thuê tài chính. Thậm chí nếu người thuê vĩnh viễn

không trả tiền thuê thì có thể khiến việc thu hồi vốn đầu tư trở nên khó khăn
hoặc công ty bị mất vốn. Khi rủi ro này xảy ra, thiệt hại đối với công ty cho thuê
tài chính là không nhỏ. Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn trong các
trường hợp sau:
- Bên thuê không đủ khả năng thanh toán tiền thuê khi đến hạn do
tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém. Doanh nghiệp rơi vào
tình trạng như vậy xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể do tình hình kinh tế,
môi trường kinh doanh hoặc do năng lực quản trị của chính doanh nghiệp. Sự
không đủ khả năng thanh toán này có thể xảy ra tạm thời hoặc là vĩnh viễn tùy
vào mức độ yếu kém và khả năng phục hồi của người thuê. Trong trường hợp
này, các công ty cho thuê tài chính có thể tham gia hỗ trợ doanh nghiệp bằng các
biện pháp gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ, tài trợ thêm máy móc thiết bị cần thiết,
khuyến nghị về cách thức sản xuất, định hướng thị trường để người thuê có thể
vượt qua được tình hình khó khăn trước mắt, phục hồi sản xuất kinh doanh để
tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ hoàn trả trong thời gian tiếp theo.
19

- Bên thuê có ý định lừa đảo: Tài sản thuê vẫn khai thác có hiệu quả
nhưng bên thuê dây dưa không trả nợ mà lấy nguồn thu từ dự án dùng vào mục
đích khác. Với nguyên nhân này, khi các khoản thuê bắt đầu phát hiện có vấn đề,
công ty cho thuê tài chính cần phải có biện pháp mạnh, dứt khoát quyết liệt
nagya từ đầu buộc bên thuê phải thực hiện các nghĩa vụ của mình.
• Tiền thuê nhận được không đủ bù đắp số tiền bỏ ra tài
trợ, trong các trường hợp như
- Xảy ra vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính dẫn tới tranh chấp, phải tố
tụng tại các cơ quan chức năng, dẫn tới trì trệ hoạt động sản xuất, tài sản thuê
phải ngừng hoạt động, không được bảo dưỡng và bị xuống cấp dẫn tới giá trị thu
hồi thấp.
- Công ty cho thuê tài chính tài trợ khách hàng với lãi suất cố định trong khi
phải đi huy động vốn với lãi suất thả nổi. Khi lãi suất huy động vốn trên thị

trường biến động theo chiều hướng tăng lên thì lãi suất cho thuê thu về không đủ
bù đắp cho chi phí bỏ ra để có số vốn tài trợ ban đầu gây thiệt hại vốn cho công
ty.
1.1.2.2. Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là những rủi ro liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện
cho thuê. Các rủi ro hoạt động bao gồm:
• Rủi ro về dự án đầu tư:
Hoạt động thuê tài chính gắn liền với quá trình thực hiện dự án đầu tư của bên
thuê. Vì vậy hiệu quả của dự án đầu tư quyết định đến khả năng trả tiền thuê của
bên thuê tài chính.
• Rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng thuê tài chính, hợp
đồng mua tài sản, hợp đồng bảo hiểm tài sản
20

Hợp đồng cho thuê tài chính là văn bản pháp lý cao nhất xác định giao dịch
thuê tài chính giữa bên thuê và bên cho thuê. Các rủi ro pháp lý thường gặp trong
quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng có thể là: người ký hợp đồng không đúng
quy định, loại tài sản thuê trong hợp đồng không đúng với tài sản thuê trong thực
tế, hay một số điều khoản thỏa thuận không đúng quy định của pháp luật...
Các rủi ro về pháp lý trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua tài
sản có thể là do nhà cung cấp tài sản không có thực hoặc đã phá sản giải thể
trong khi đã chuyển tiền mua tài sản. Có trường hợp các điều khoản trong hợp
đồng không phù hợp với thông lệ quốc tế (trường hợp tài sản phải nhập khẩu),
mô tả về tài sản, giao nhận, giá cả, bảo hiểm, bảo hành, bảo trì...không rõ ràng,
khi xảy ra tranh chấp gây thiệt hại lớn cho bên cho thuê.
Cũng như vậy, các rủi ro về pháp lý trong quá trình ký kêt và thực hiện hợp
đồng bảo hiểm tài sản có thể là do: các điều khoản không được xác định rõ ràng
dẫn đến bên bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc chỉ bồi thường một phần thiệt
hại; rủi ro đối với tài sản thuê không thuộc phạm vi bảo hiểm...
• Rủi ro về tài sản cho thuê.

Loại rủi ro này liên quan đến giá trị còn lại (giá trị thu hồi) của tài sản cho
thuê, có thể do các nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân liên quan đến chất lượng tài sản thuê: tài sản sau khi cho
thuê có thể bị lỗi thời, hư hỏng, mất phẩm chất hoặc tài sản thuộc loại hàng
chuyên dùng, đặc chủng nên không chuyển nhượng, cho thuê lại hoặc bán đi
được.
- Tài sản thuê bị mất hoặc không được mua bảo hiểm nên khi rủi ro xảy ra
với tài sản làm tài sản hư hỏng không có nguồn để bù đắp. Nếu tài sản do nhà
21

cung cấp giao cho người cho thuê không đúng theo hợp đồng thì không được
phép kinh doanh.
- Nguyên nhân do phía nhà cung cấp cố ý lừa đảo, chiếm dụng vốn của công
ty cho thuê. Có nhiều cách để nhà cung cấp thực hiện ý đồ của mình, nhưng điển
hình nhất vẫn là thông đồng với người thuê để làm sai lệch giá tài sản so với thị
trường, gây thiệt hại cho công ty cho thuê tài chính.
1.1.2.3. Rủi ro khác
Bên cạnh hai nhóm rủi ro trên, có thể có các nguyên nhân khác nữa trên các
phương diện sau:
- Rủi ro do môi trường kinh doanh biến động: Tình hình kinh tế ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động cho thuê tài chính. Kinh tế lâm vào suy thoái, mất ổn
định làm cho việc sản xuất bị trì trệ, các doanh nghiệp sẽ giảm nhu cầu thuê máy
móc thiết bị, khả năng trả lãi cho thuê cũng giảm do lợi nhuận của các doanh
nghiệp giảm.
- Rủi ro do tiến bộ khoa học kĩ thuật: Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển,
nếu không kịp thời đổi mới, tài sản cho thuê sẽ trở nên lạc hậu hoặc ngày càng
suy giảm chất lượng-hao mòn vô hình.
- Rủi ro bất khả kháng: do các nguyên nhân như: thiên tai, dịch bệnh, hỏa
hoạn, khủng bố...
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro hoạt động cho thuê tài chính

a, Nợ xấu:
Nợ xấu và phân loại nợ xấu của các tổ chức tín dụng được pháp luật nước ta
quy định trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc
Ngân hàng nhà nước. Theo Nghị định này, Nợ xấu là các khoản nợ quá hạn từ 90
ngày trở lên và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
22

theo thời hạn đã cơ cấu lại hoặc các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại)
mà công ty cho thuê tài chính có đủ cơ sở đánh giá là khả năng trả nợ của khách
hàng bị suy giảm thì công ty cho thuê tài chính chủ động tự quyết định phân loại
các khoản nợ đó vào các nhóm nợ thuộc nợ xấu.
Trong trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với công ty
cho thuê tài chính mà có bất kỳ khoản nợ nào bị xếp vào nhóm nợ xấu thì các
khoản nợ còn lại của khách hàng đó cũng bị xếp vào nhóm nợ xấu đó.
Để có thể đánh giá mức độ nợ xấu của công ty cho thuê tài chính ta dùng
công thức sau:
Nợ xấu
Công thức : Tỷ lệ nợ xấu (%) = x 100%
Tổng dư nợ cho thuê
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu số nợ gốc là nợ xấu trong một trăm đồng
dư nợ cho thuê. Chỉ tiêu này là căn cứ để đánh giá chất lượng cho thuê tài chính.
b, Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá
hạn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn (%): Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu số nợ gốc đã quá
hạn trong một trăm đồng dư nợ cho thuê. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng công
tác thẩm định cho thuê cùng với năng lực quản lý tài sản cho thuê sau khi đã giải
ngân.
Công thức: Nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho thuê

23


- Tỷ lệ nợ quá hạn ròng (%): Đây là chỉ tiêu nợ quá hạn đã được điều chỉnh
bởi quỹ dự phòng rủi ro. Chỉ tiêu này có ý nghĩa phản ánh về hoạt động của công
ty ở khía cạnh mức độ an toàn trong kinh doanh cũng như khả năng chống đỡ
cũng như khả năng chống đỡ của công ty trước các rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Nợ quá hạn – Dự phòng rủi ro
Công thức : Tỷ lệ nợ quá hạn ròng = x 100%
Dư nợ cho thuê – Dự phòng rủi ro
c, Lãi treo:
Lãi treo là các khoản lãi cho thuê đến hạn mà khách hàng không trả được
nên công ty cho thuê tài chính đưa ra ngoại bảng để theo dõi.
Chỉ tiêu này cho biết đồng vốn của công ty cho thuê tài chính đem đầu tư có
thu được hiệu quả hay không. Chỉ tiêu này cũng phản ánh về mức độ rủi ro của
hoạt động cho thuê tài chính chủ yếu ở khía cạnh hiệu quả sinh lời của vốn kinh
doanh, đồng thời thể hiện chất lượng của hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Có thể phân các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
thành hai nhóm là các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan, cụ thể như
sau:
a, Các nhân tố khách quan:
∗ Chính sách kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý:
Chính sách kinh tế vĩ mô có tác động lên toàn bộ nền kinh tế, từ đó có
những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bên
thuê. Một khi Chính phủ có những chính sách phù hợp, tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng trả lãi cho

24

thuê của các doanh nghiệp thuê tài chính cao hơn, giảm thiểu rủi ro cho các công
ty cho thuê tài chính.
Môi trường pháp lý cũng có những tác đến động rủi ro hoạt động cho
thuê tài chính. Pháp luật quy định tất cả các yếu tố trong quy trình cho thuê tài
chính, từ loại tài sản thuê, đến đăng kí quyền sở hữu, lãi suất, các nghiệp vụ bảo
lãnh...Vì vậy, môi trường pháp lý tốt tạo niềm tin cho những người tham gia, có
thể bảo vệ quyền lợi cho tất cả các bên, đồng thời không có kẽ hỡ cho những kẻ
có ý định xấu. Môi trường pháp lý thuận lợi còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động
cho thuê tài chính hoạt động có trật tự, hiệu quả.
∗ Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội:
Sự ảnh hưởng này dễ thấy trong thời gian vừa qua (2008), khi nền kinh tế
thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng, mà đặc biệt là ngành Ngân hàng-Tài
chính, các hoạt động kinh doanh đều bị thu hẹp lại. Khi đó, đối tượng khách
hàng của cho thuê tài chính không chỉ ít đi mà việc thu hồi lãi cũng trở nên khó
khăn, khả năng gặp phải rủi ro của công ty cho thuê tài chính cao lên. Môi
trường chính trị-xã hội cũng có những ảnh hưởng nhất định, thể hiện qua lối
sống, thói quen, phong tục sử dụng tài sản của người kinh doanh, người tiêu
dùng. Ví dụ như thói quen sử dụng đồ rẻ tiền không đảm bảo chất lượng có thể
dẫn tới việc tài sản nhanh chóng xuống cấp, hư hỏng không thu hồi về được.
∗ Môi trường tự nhiên:
Bên cạnh các yếu tố của tự nhiên như về thiên tai, địch họa có ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố khí hậu của từng quốc gia cũng có
ảnh hưởng đến hoạt động cho thuê tài chính. Khí hậu phức tạp, điều kiện tự
nhiên không ổn định còn làm cho việc bảo quản, sử dụng tài sản cho thuê khó
25

×