KINH TẾ ĐỒN ĐIỀN TỈNH HẢI DƯƠNG
GIAI ĐOẠN 1883 - 1918
Chu Thị Thu Thủy
1
Tóm tắt: Kinh tế đồn điền là một bộ phận thuộc kinh tế nông nghiệp. Do đó, nghiên cứu về
kinh tế đồn điền sẽ góp phần làm sáng tỏ kinh tế nông nghiệp nói chung. Tuy nhiên, kinh tế
đồn điền thời kì thuộc địa, đặc biệt là kinh tế đồn điền tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 - 1918
vẫn chưa được đi sâu nghiên cứu.
Giai đoạn 1883 - 1918, kinh tế đồn điền của tỉnh Hải Dương có sự phát triển như thế nào?
Số đồn điền và diện tích đồn điền được khai thác là bao nhiêu? Tình hình trồng trọt và chăn
nuôi trong các đồn điền này như thế nào? Mặt tích cực và hạn chế của kinh tế đồn điền đến kinh
tế nông nghiệp và xã hội nông thôn của tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 - 1918 ra sao? Những vấn
đề đặt ra này sẽ được chúng tôi làm sáng tỏ trong bài viết này.
1. MỞ ĐẦU
Trong kinh tế nông nghiệp nói chung của tỉnh Hải Dương, nhất là giai đoạn 1883 - 1918,
chúng ta thấy nổi bật lên vai trò của kinh tế đồn điền. Đây là một ngành nông nghiệp mà sản
phẩm không dành cho việc tự tiêu thụ mà dành cho thương mại. Các điền chủ đã tạo ra một
ngành chăn nuôi có quy mô lớn và nhập các loại cây mới, có năng suất cao vào trồng trên
diện rộng, cũng như một vài cải tiến trong kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi và chế biến một số
sản phẩm đồn điền. Tuy nhiên, vấn đề kinh tế đồn điền tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 - 1918
vẫn chưa được nghiên cứu chuyên sâu. Trong khi đó, nghiên cứu về vấn đề này có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn sâu sắc. Nó góp phần khôi phục lại bức tranh nông nghiệp tỉnh Hải
Dương thời kì 1883 - 1918. Trên cơ sở đó, đánh giá khách quan, toàn diện về sự thống trị của
thực dân Pháp ở tỉnh Hải Dương nói riêng và Việt Nam nói chung.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Số đồn điền và diện tích đồn điền được khai thác
Chính quyền thực dân đã ban hành những nghị định, chính sách cướp đoạt ruộng đất
trắng trợn của nhân dân ta. Đây chính là điều kiện thuận lợi để tư bản Pháp nắm quyền sở
hữu lớn về ruộng đất, thúc đẩy sự ra đời của các đồn điền.
Thời kì 1883 - 1918, tỉnh Hải Dương có 24 đồn điền. Trong đó, có 8 đồn điền từ 0 đến
50 ha và 16 đồn điền trên 50 ha. Tuy nhiên, trong số 8 đồn điền từ 0 đến 50 ha được nhượng
với diện tích 150,4383 ha chỉ có 6 đồn điền được khai thác với diện tích 75,5783 ha. Còn
trong số 16 đồn điền trên 50 ha được nhượng với diện tích là 10.010,1300 ha thì chỉ có 10
đồn điền được khai thác với diện tích 6.466,2000 ha. Như vậy, trong tổng số đồn điền được
1
ThS, Trường ĐHSP Hà Nội 2
nhượng là 24, diện tích là 10.160,5683 ha thì chỉ có 16 đồn điền được khai thác với diện tích
là 6.517,7783 ha. Tỉ lệ được khai thác là 64,15%. Đây là một trong những tỉnh ở đồng bằng
có tỉ lệ diện tích khai thác so với diện tích được cấp nhượng lớn nhất, cùng với Hà Nội
(90,32%), Nam Định (100,00%), Vĩnh Yên (86, 50%), Phúc Yên (65,30%).
Tuy nhiên, các đồn điền được thiết lập ở Hải Dương không lớn lắm và việc trồng lúa
chiếm ưu thế. “Tính theo vùng, đồng bằng có tỉ lệ lớn nhất về đồn điền và diện tích đồn điền
được khai thác nhờ vào việc trồng lúa và sử dụng tá điền ở Hải Phòng, Hải Dương, Phúc Yên
và Vĩnh Yên”.
Sự yếu kém của việc khai thác là một trong những nguyên nhân làm cho chỉ một số ít
đồn điền được cấp quyền sở hữu vĩnh viễn. Ở Hải Dương, số đồn điền được cấp nhượng vĩnh
viễn là 6 đồn điền với diện tích 3.802,3800 ha trên tổng số 24 đồn điền.
Bảng thống kê những đồn điền được cấp nhượng vĩnh viễn
ở khu vực đồng bằng Bắc Kì (1883 - 1918)
Tỉnh và vùng
Từ 0 đến 50 ha
Trên 50 ha
Tổng cộng
SL
DT (ha)
SL
DT (ha)
SL
DT (ha)
Hải Phòng
Hưng Yên
Hà Nội
Nam Định
Hải Dương
Bắc Ninh
Hà Đông
Vĩnh Yên
Phúc Yên
2
0
2
4
2
2
0
1
0
32,2000
0
1,8500
41,0168
61,1800
66,9200
0
6,0000
0
3
0
1
2
4
3
1
1
0
176,2860
0
320,0000
2.607,9300
3.741,2000
432,9499
85,0000
6.017,3600
0
5
0
3
6
6
5
1
2
0
208,4860
0
321,8500
2.648,9486
3.802,3800
490,8699
85,0000
6.023,3600
0
Đồng bằng
13
209,1686
15
13.371,7250
28
13.580,8930
[2, tr.276].
Như vậy, Hải Dương và Nam Định là tỉnh có số lượng đồn điền được cấp nhượng vĩnh
viễn lớn nhất ở vùng đồng bằng Bắc Kì. Tuy nhiên, diện tích đồn điền được cấp nhượng vĩnh
viễn của Hải Dương là 3.802,3800 ha, cao hơn của Nam Định 2.648,9486 ha.
Sở dĩ có sự mất cân đối giữa diện tích được cấp nhượng và diện tích được khai thác có
thể được giải thích bằng chính ngay chính sách nhượng đất và thực tế của việc nhượng đất.
Nhiều ruộng đất bị chiếm làm đồn điền, nhưng bị bỏ hoang do sự sao nhãng của những
điền chủ chỉ coi việc khai thác nông nghiệp là hoạt động phụ. Không ít điền chủ không có đủ
vốn để tiến hành công việc này. Số khác coi đầu cơ đất như một áp - phe có lợi.
Một số khác xin mua rồi bán lại ngay, vì thế một số đồn điền có thể chuyển qua tay nhiều
điền chủ. Ví dụ như:
- Với hợp đồng ngày 28/2/1889, ông Tuers de Cogolin, Tổng biên tập báo “Courrier de
Haiphong” đã mua khu đất với diện tích là 855 ha. Sau đó, tháng 12/1898, khu đất này đã
được nhượng cho M. Monne. Lúc này diện tích đồn điền đã tăng lên đến 1.809 ha. Đến tháng
1/1905, đồn điền này được nhượng tạm thời cho anh em nhà Richl [5, tr.53, 62].
- Đồn điền Grandmange: lúc đầu do M. Testard và Grandmange mua vào năm 1900.
Đến tháng 10/1901, đồn điền này được nhượng cho Grandmange.
Sự vội vàng trong việc nhượng đất không đi kèm với một chính sách đầu tư thích đáng
vào nông nghiệp và một chính sách chung về khai thác thuộc địa là một trong những nguyên
nhân của tình trạng diện tích được cấp nhượng nhiều, nhưng diện tích được đưa vào khai thác
chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Điều này có lẽ cũng ảnh hưởng đến tình trạng thiếu phương hướng
trong việc sử dụng đất trên phần lớn các đồn điền.
Thêm vào lí do trên, nhân công cũng là một vấn đề được đặt ra trong việc khai thác như
đã trình bày. Đặc điểm về phân bố dân cư và tâm lí của người Bắc Kì tạo ra những khó khăn
lớn cho việc tuyển mộ. Sự phi lí của bản thân việc chiếm đất lập đồn điền làm cho những khó
khăn đó càng lớn hơn.
Hơn nữa, những người nông dân Bắc Kì chưa có thói quen làm việc tập trung trên những
đồn điền trồng cây công nghiệp theo kĩ thuật mới về trồng trọt, chăn nuôi và chế biến nông
sản. Điều này đòi hỏi một quá trình đào tạo tốn kém và lâu dài.
Việc đất nhượng làm đồn điền nhưng không được đưa vào khai thác là một trong những
biểu hiện của sự yếu kém của công cuộc khai thác thuộc địa về nông nghiệp của người Âu
cũng là biểu hiện của sự thất bại hay gần như vậy của công cuộc khai thác thuộc địa nói
chung trong giai đoạn này. Hàng ngàn ha bị bỏ hoang nằm trong tay các điền chủ đã ngăn trở
người bản xứ đang thiếu đất khai phá và canh tác.
Như vậy, một trong những mục tiêu của chính sách nhượng đất lập đồn điền là khai thác
đất hoang, mở rộng diện tích canh tác. Nhưng thực tế trên đã cho thấy công cuộc này của
người Pháp đã thất bại, ít nhất là một phần.
Đất nhượng cho các điền chủ người Pháp được sử dụng chủ yếu trong các hoạt động
chính là trồng trọt và chăn nuôi.
2.2. Trồng trọt
- Đặc điểm chung của việc trồng trọt
Theo nhà nghiên cứu Tạ Thị Thúy: “Sang những năm 1890, trồng trọt bắt đầu phát đạt
với sự xuất hiện của những đồn điền trồng cà phê, chè ở các tỉnh phía Tây Bắc Kì (Hà Nội,
Hòa Bình, Ninh Bình, Sơn Tây, Phú Thọ) và những đồn điền trồng lúa ở các tỉnh phía Đông
(Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Giang, Thái Nguyên, Quảng Yên) [2,
tr.281].
Thời kì 1883 - 1918, ở Hải Dương có 8 đồn điền của người Pháp dành riêng cho trồng
trọt với diện tích là 1.250,3183 ha. Trong đó, có 4 đồn điền từ 0 đến 50 ha, diện tích là
46,3183 ha và 4 đồn điền trên 50 ha, diện tích là 1.199,0000 ha. Các cây trồng chính ở các
đồn điền này là lúa, cà phê, thầu dầu
Trên các đồn điền kết hợp với chăn nuôi, một phần diện tích được dùng làm đồng
cỏ.Song hoạt động trồng trọt luôn luôn là hoạt động chính.
Trên các đồn điền không phối hợp với chăn nuôi hay phối hợp ở mức độ nhất định, tất cả
hay gần như tất cả diện tích đồn điền được dành cho trồng trọt. Ở đây, sức kéo và phân bón
chủ yếu là do những người làm việc trên đồn điền đảm bảo, vì rằng các đồn điền đó được
khai thác phần lớn bằng việc trồng lúa, chuyên canh hay kết hợp với các loại cây trồng khác
và bằng chế độ tá điền. Tá điền chịu trách nhiệm nuôi gia súc mà trâu là vật nuôi chính. Kiểu
chăn nuôi của họ không đòi hỏi nhiều đồng cỏ, bãi chăn thả lắm. Trâu có thể được thả trên
cánh đồng sau vụ gặt. Rơm rạ có thể dùng làm thức ăn cho trâu.
Do chịu tác động bởi các yếu tố đất đai, khí hậu, nhân công, mục đích và khả năng của
các điền chủ trong việc xin và khai thác đất ngành trồng trọt nên các đồn điền của người Pháp
phát triển theo hai hướng chính là du nhập những cây trồng mới có giá trị kinh tế cao như cà
phê, chè, cao su, thuốc lá… và duy trì, mở rộng các loại cây trồng bản xứ như lúa, sắn, khoai,
ngô… Hai hướng trồng trọt này được thực hiện trên hai dạng đồn điền: chuyên canh và đa
canh.
+ Chuyên canh:
Chuyên canh không phải là phát hiện của các điền chủ Pháp ở Bắc Kì. Độc canh lúa là
phương thức trồng trọt truyền thống của người bản xứ. Trong khung cảnh của một nền kinh tế
tự túc, điều đó phản ánh tính chất đơn điệu của một nền sản xuất và sự yếu kém của nó.
Tiến hành khai thác đồn điền, các điền chủ đã áp dụng hình thức trồng trọt này trên một
số đồn điền trồng lúa bằng tá điền và kĩ thuật truyền thống. Lối canh tác này không hơn gì lối
canh tác của người bản xứ, và thực ra đây chỉ là một hình thức tập trung sản phẩm cho
thương mại chứ không đóng góp gì vào việc thay đổi cơ cấu cây trồng và kĩ thuật canh tác.
Cái mới trong chế độ chuyên canh mà các điền chủ đưa vào khu vực đồn điền nông nghiệp là
việc trồng một số cây mới, cây công nghiệp, trên một diện tích khiêm tốn, và kéo theo là một
vài yếu tố mới về kĩ thuật trồng trọt và chế biến sản phẩm.
Thời kì 1883 - 1918, ở Hải Dương có 5 đồn điền chuyên canh. Cụ thể là chuyên trồng
trọt với diện tích là 615,0583. Tỉnh không có đồn điền nào kết hợp với chăn nuôi. Trong số 5
đồn điền chuyên canh trên, lúa là cây trồng chủ đạo. Như vậy, có thể khẳng định, trong thời
gian này, lúa là cây trồng chính được trồng trên các đồn điền chuyên canh, chiếm toàn bộ số
lượng đồn điền và diện tích đồn điền, thu hút sự tham gia của nhiều điền chủ. Trong số các
tỉnh ở vùng đồng bằng Bắc Kì, Hải Dương là tỉnh có nhiều đồn điền chuyên canh thứ hai (5
đồn điền) sau Bắc Ninh (7 đồn điền, diện tích là 860,8800 ha).
Bảng thống kê Các đồn điền chuyên canh ở khu vực đồng bằng
Bắc Kì (1883 - 1918)
Tỉnh và vùng
ĐĐ chuyên trồng trọt
ĐĐ kết hợp với chăn
nuôi
Tổng cộng
ĐĐ
DT (ha)
ĐĐ
DT (ha)
ĐĐ
DT (ha)
Hải Phòng
Hà Nội
Nam Định
Hưng Yên
Bắc Ninh
Hải Dương
Phúc Yên
Vĩnh Yên
0
0
0
0
1
0
2
1
0
0
0
0
25,5500
0
765,9200
447,1417
2
7
3
3
8
5
3
0
281,0000
41,3700
2.541,3100
104,4600
941,8800
615,0583
379,2000
0
2
7
3
3
9
5
5
1
281,0000
41,3700
2.541,3100
104,4600
967,4300
615,0583
1.145,1200
447,1417
Đồng bằng
4
1.238,6117
31
4.902,2683
35
6.142,8800
[2, tr.284]
+ Đa canh
Thời kì 1883 - 1918, ở Hải Dương có 9 đồn điền đa canh với diện tích 5.897,4600 ha.
Trong đó có 3 đồn điền chuyên trồng trọt với diện tích là 630,2600 ha và 6 đồn điền kết hợp
với chăn nuôi có diện tích là 5.267,2000 ha [2, tr.290].
Bảng thống kê Các đồn điền đa canh ở khu vực đồng bằng
Bắc Kì (1883 - 1918)
Tỉnh và vùng
ĐĐ chuyên
trồng trọt
ĐĐ kết hợp với chăn
nuôi
Tổng cộng
ĐĐ
DT (ha)
ĐĐ
DT (ha)
ĐĐ
DT (ha)
Hải Phòng
Hưng Yên
Hải Dương
Hà Nội
Nam Định
Bắc Ninh
Phúc Yên
Vĩnh Yên
Hà Đông
6
1
3
2
3
5
2
1
1
84,4300
139,0900
630,2600
111,2766
107,6322
497,0320
6.278,3600
4.193,2570
85,0000
5
0
6
0
0
1
3
3
1
302,1400
0
5.267,2000
0
0
16,0000
3.430,7425
1.464,8270
100,0000
11
1
9
2
3
6
5
4
2
386,5700
139,0900
5.897,4600
111,2766
107,6322
513,0320
9.709,1025
5.658,0770
185,0000
Đồng bằng
24
12.126,3300
19
10.580,9090
43
22.707,2400
[2, tr.290]
Tỉnh Hải Dương có các đồn điền đa canh lúa và cà phê sau: đồn điền của Liên danh
Levaché, Trelluyer, Fournier, của Lamotte và Riel [2, tr.291]. Tuy nhiên, giữa lúa và cà phê
trên các đồn điền đa canh, lúa vẫn chiếm ưu thế.
- Những cây trồng mới
+ Cà phê
Cà phê là loại cây đầu tiên được người Pháp trồng ở Bắc Kì. Nó được các cha cố đưa vào
đây ngay cả trước khi người Pháp xâm lược.
Khi đã áp đặt được ách thống trị lên nước ta, chính quyền thực dân Pháp đã khuyến
khích việc trồng cà phê ở Bắc Kì với nhiều chính sách ưu đãi như đất trồng cà phê được miễn
thuế trong 6 năm đầu và với sự vận động của Phòng Canh nông Bắc Kì, cà phê Đông Dương
xuất sang Pháp được hưởng mức thuế tương đương với biểu giá của cà phê nước ngoài nhập
vào Đông Dương (136 Francs 1 tạ). Sau đó, luật thuế quan 5/8/1913 qui định về việc nhập
miễn thuế vào Pháp đối với một số sản phẩm thuộc địa, trong đó có cà phê kể từ năm 1914
được thông qua. Văn bản này được công bố trên “Công báo xứ Đông Dương thuộc Pháp”
ngày 25/9/1913.
Do đó, việc trồng cà phê đã thu hút được sự tham gia của nhiều điền chủ. Một số điền
chủ muốn lợi dụng những ưu đãi của chính quyền, trồng trên đồn điền của mình vài chục, vài
trăm cây cà phê để được lĩnh thưởng, được miễn thuế đất. Chỉ một ít cây cà phê trồng xuống
là đủ để cả một đồn điền có thể được công nhận đã được khai thác và phần đất chưa được
khai thác không bị thu hồi với cớ là cần được dùng làm đồng cỏ cho đàn gia súc phải nuôi để
lấy phân bón cho cà phê. Tuy nhiên cũng có những điền chủ lập ra những đồn điền lớn và
tiến hành việc trồng trọt một cách nghiêm túc.
Năm 1914, Henri Brenier công bố con số 1.270.000 gốc cà phê ở Bắc Kì, trong đó, Hải
Dương chiếm 75.000 gốc, chiếm 5,5% [2, tr.296].
Cà phê ở Hải Dương được trồng thử trên các đồn điền nằm ở chân những ngọn núi vùng
Đông Triều trong thung lũng Thông. Tại đây, cà phê được trồng xen với những cây trồng
khác nên chỉ vài hecta mỗi đồn điền.
Tuy nhiên, từ việc trồng cà phê cho đến việc chế biến sản phẩm kĩ thuật vẫn còn ở trình
độ thủ công. Công việc được tiến hành chủ yếu bằng sức người. Các điền chủ lợi dụng nhân
công rẻ và sẵn có ở đây để trồng cà phê. Việc phá hoang, đào hố, trồng cây, xới đất… được
thực hiện chủ yếu bằng tay với những công cụ thô sơ của nông dân bản xứ. Trong khi đó,
phân hóa học lại chưa được sử dụng với số lượng lớn mà chủ yếu dựa vào phân chuồng nên
năng suất cà phê không cao. Việc thu hoạch (hái, chọn, phơi) cà phê do đàn bà đảm nhiệm.
Cà phê tiêu thụ tại chỗ thì được chế biến gần như toàn bộ bằng tay. Còn cà phê đem đi xuất
khẩu thì còn ở dạng sơ chế.
Do việc trồng cà phê ở Bắc Kì nói chung và Hải Dương nói riêng trong giai đoạn này
vẫn còn ở giai đoạn thử nghiệm. Do kinh nghiệm và những hiểu biết của các điền chủ về việc
trồng cà phê ở một xứ nhiệt đới rất hạn chế. Hơn nữa, việc trồng cà phê lại phụ thuộc quá
nhiều vào chăn nuôi. Phần lớn diện tích trồng cà phê phải dành làm đồng cỏ. Năng suất cà
phê bị quyết định bởi số lượng phân bón, nghĩa là quy mô đàn gia súc, trong khi chính chăn
nuôi cũng là ngành rất bấp bênh. Việc sản xuất cà phê lại rất tốn kém, đòi hỏi đầu tư vốn lớn,
sự chăm sóc kĩ càng mà thời gian thu hồi vốn và lợi nhuận lại lâu. Do đó, việc trồng cà phê ở
Hải Dương chưa thực sự nhiều và đạt hiệu quả cao.
+ Thuốc lá:
Trong giai đoạn này, việc trồng thuốc lá ở Bắc Kì vẫn chỉ là thăm dò, thử nghiệm. Bởi
đây là loại cây trồng đòi hỏi số vốn lớn cho việc thí nghiệm, trồng, chăm bón và chế biến.
Tuy nhiên, ở tỉnh Hải Dương cũng có những đồn điền trồng thử nghiệm thuốc lá như đồn
điền Lamothe. Vùng trồng nhiều thuốc lá là huyện Vĩnh Bảo. Theo báo cáo tháng 2/1908,
diện tích trồng thuốc lá nơi đây tăng 100 mẫu so với năm 1907. Ngoài Vĩnh Bảo là nơi trồng
thuốc lá với diện tích lớn thì loại cây này còn được trồng ở Vĩnh Lại, Thanh Miện, Hiệp Sơn,
Ninh Giang song chủ yếu chỉ để đáp ứng cho nhu cầu địa phương [4, tr.94].
+ Chè
Chè không phải là phát hiện của các điền chủ người Pháp ở Đông Dương. Nó đã được
thuần hóa từ xa xưa và được sử dụng phổ biến trong dân gian.
Ở Hải Dương, trên các đồi thấp vùng Đông Triều, chè được trồng tại các đồn điền của
Marty, Lamotte, với chỉ vài hecta mỗi đồn điền.
+ Cao su
Cao su là thứ cây lần đầu tiên được các điền chủ đưa vào trồng thử ở Bắc Kì. Theo báo
cáo tháng 2/1908 của Công sứ tỉnh Hải Dương về tình hình hoạt động của các đồn điền người
Âu ở tỉnh Hải Dương năm 1907 thì đồn điền Pivot nằm ở Đông Triều với diện tích 1.451,35
ha đã trồng cao su, bên cạnh lúa, cà phê… [5, tr.53, 62].
- Những cây trồng bản địa
+ Lúa
Trồng lúa không phải là mục đích ban đầu của việc khai thác thuộc địa về nông nghiệp
của người Pháp ở Bắc Kì. Tuy nhiên, ngành trồng trọt này đã sớm ra đời và nhanh chóng phát
triển ngay từ cuối thế kỉ XIX. Lúa luôn luôn là cây trồng chiếm ưu thế trên các đồn điền của
người Pháp ở Bắc Kì. Những năm 1930, trong các đồn điền thuộc tỉnh Hải Dương có 1.600
ha trồng lúa [3, tr.422].
+ Ngô
Đây là cây trồng bản địa, được đưa vào trồng trọt từ sớm, thu lợi ngay mà vốn đầu tư lại
ít nên được các điền chủ trồng nhiều. Theo báo cáo tháng 1/1909 của Công sứ tỉnh Hải
Dương về hoạt động của các đồn điền người Âu ở tỉnh Hải Dương thì đồn điền Grandmange
diện tích trồng lúa không nhiều mà chủ yếu trồng ngô và cà phê [4, tr.137].
Như vậy, trong trồng trọt, các điền chủ Pháp đã du nhập vào khu vực đồn điền những
yếu tố mới như trồng các loại cây mới, cải tiến kĩ thuật trồng trọt và chế biến một số nông
phẩm. Tuy nhiên, chế độ đa canh vẫn chiếm ưu thế. Cây mới, dù giá trị kinh tế cao, chỉ chiếm
một diện tích rất hạn chế và một giá trị kinh tế nhỏ bé. Cây trồng bản địa chiếm phần lớn diện
tích, trong đó lúa luôn luôn là cây trồng chính.
2.3. Chăn nuôi
Ở Hải Dương không có đồn điền dành riêng cho chăn nuôi. Chăn nuôi trên các đồn điền
kết hợp với trồng trọt. Có 5 đồn điền trên 50 ha kết hợp chăn nuôi với trồng trọt, có diện tích
5.267,2000 ha. Do các cây trồng chính ở các đồn điền này là lúa, cà phê, chè, thầu dầu nên
trong chăn nuôi, gia súc (trâu, bò) là vật nuôi chính và được nuôi ở tất cả các đồn điền trên.
Tỉnh có 560 trâu, bò, trong đó 200 của Roustan và 380 của Lamotte [2, tr.330].
Trong các đồn điền trồng lúa, gia súc chủ yếu là trâu. Nó không chỉ cung cấp phân bón
mà còn cung cấp sức kéo. Trâu được dùng để cày bừa đất và vận chuyển sản phẩm. Nhất là
trong điều kiện các điền chủ người Pháp ít sử dụng máy móc trong nông nghiệp thì sức kéo
và phân bón từ trâu là một điều kiện rất quan trọng để phát triển các đồn điền trồng lúa.
Còn ở các đồn điền cà phê, phân bón từ gia súc rất quan trọng trong phát triển loại cây
này: “Không có phân, việc trồng cà phê ở Bắc Kì là vô ích”. “Việc trồng cà phê không thể
thực hiện được nếu không có những đàn gia súc lớn, tỉ lệ với đồn điền”. Do đó, việc trồng cà
phê đi đôi với chăn nuôi bò hay các gia súc khác là một công thức trồng trọt và một cơ cấu
canh nông phổ biến trên các đồn điền của người Pháp ở Bắc Kì nói chung và Hải Dương nói
riêng. Chăn nuôi đảm bảo sự thành công và sự tồn tại của đồn điền.
Như vậy, với việc lập các đồn điền và sự xuất hiện của ngành trồng trọt trên các đồn điền
đó, chăn nuôi đã ra đời và phát triển. Tuy nhiên, chăn nuôi vẫn chỉ là một ngành phụ, phụ
thuộc vào trồng trọt, dù nó rất quan trọng và cần thiết.
3. KẾT LUẬN
Tóm lại, trong khu vực kinh tế đồn điền ở tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 - 1918, chúng
ta có thể thừa nhận những khía cạnh kinh tế mới mà các điền chủ đã đưa vào thuộc địa. Đó là
một ngành nông nghiệp mà sản phẩm không dành cho việc tự tiêu thụ mà dành cho thương
mại. Các điền chủ cũng tạo ra một ngành chăn nuôi có quy mô lớn và nhập các loại cây mới,
có năng suất cao vào trồng trên diện rộng, cũng như một vài cải tiến trong kĩ thuật trồng trọt,
chăn nuôi và chế biến một số sản phẩm đồn điền.
Tuy nhiên, kết quả thu được rất hạn chế: diện tích được khai thác, canh tác rất nhỏ so với
diện tích được nhượng. Chăn nuôi vẫn là một ngành phụ của trồng trọt. Kĩ thuật nông nghiệp
của người bản xứ là kĩ thuật chính được vận dụng vào sản xuất trong đồn điền. Năng suất cây
trồng vì thế còn rất thấp. Trong nền kinh tế thuộc địa nói chung đồn điền đóng vai trò rất
quan trọng, nhưng giá trị kinh tế của khu vực này rất nhỏ bé. Nền kinh tế truyền thống bản xứ
có bị tác động ít nhiều do sự tác động của các đồn điền, nhưng kết cấu của nền sản xuất và
kinh tế nông nghiệp chưa có thay đổi gì đáng kể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dillemann, Tình hình các huyện tỉnh Hải Dương năm 1900, Thư viện tỉnh Hải Dương,
1932.
2. Tạ Thị Thúy, Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kì 1884 - 1918, Nxb Thế giới, H., 1996.
3. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương, Địa chí Hải Dương,
Tập I, Nxb Chính trị Quốc Gia, H., 2008.
4. Hồ sơ 58-01: Rapports économiques de la province de Hai Duong des mois de Janvier
1906 à Juin 1909.
5. Hồ sơ 154-02: Renseignement statisques sur les cultures et la colonisation agricole des
provinces du Tonkin 1907.
6. Hồ sơ 154: Renseignement statisques sur les cultures et la colonisation agricole des
provinces au Tonkin 1906.
7. Hồ sơ 555: Autorisation d’occupation des consessions agricoles dans les huyen de Chi
Linh et Dong Trieu (province de Hai Duong) accordée aux européens, demeurant aux
provinces du Tonkin 1900-1909.
THE PLANTATION ECONOMY IN HAI DUONG PROVINCE DURING
THE PERIOD 1883 - 1918
Chu Thi Thu Thuy
Abstract
The plantation economy is a part of the agricultural economy. Therefore, conducting
research on the plantation economy will help have a clear understanding about the
agricultural economy in general. However, the plantation economy in the colonial period,
especially, that in Hai Duong province during the period 1883 - 1918 has not been
researched deeply and thoroughly.
So, during the period 1883 - 1918 how did the plantation economy in Hai Duong
province develop? How many plantations were cultivated and what is the area of plantation
which was cultivated? How was the fact of cultivating and breeding in those plantations?
How did the plantation economy have negative and positive effects on the agricultural
economy and rural society in Hai Duong province during the period 1883 - 1918? The above
mentioned questions will be given clear answers in the writing.