Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bàn thêm về quan niệm thơ ca của cao bá quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.54 KB, 7 trang )

BÀN THÊM VỀ QUAN NIỆM THƠ CA
CỦA CAO BÁ QUÁT
Nguyễn Thị Tính
1

uan niệm về thơ của Cao Bá Quát đã được nhiều nhà nghiên cứu như
Trúc Khê, Lê Trí Viễn, Phương Lựu, Nguyễn Lộc, Vũ Khiêu, Trần Ngọc
Vương, Nguyễn Ngọc Quận, Nguyễn Thanh Tùng đề cập đến. Bài viết có
sự kế thừa, bổ sung và chú ý đến những quan niệm tạo nên sự cách tân
trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.

1. MỞ ĐẦU
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật thơ Cao Bá Quát là một trong những tiền đề lý luận cần
thiết để từ đó nghiên cứu sự cách tân đổi mới trong thơ ca của ông và toàn bộ thơ văn của ông.
Vì lẽ, quan niệm nghệ thuật là những cách hiểu, cách lý giải về nghệ thuật 
ở đây là thơ văn  nghệ thuật ngôn từ. Nó là tầm cảm, tầm trí tuệ trong việc nhận biết, xác
định và cắt nghĩa về nghệ thuật. Nó là kim chỉ nam, có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho ngòi
bút của tác giả.
Quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát được bộc lộ trực tiếp trong 12 bài thơ bàn về thơ
 luận thi thi  của ông (Hí tác thi luận, thập nhị thủ) và một số bài ông bàn về thơ với bạn bè
(Đồng Nguyễn Chuyết Hiên, Phạm Thúc Minh luận thi, đắc tâm tự ). Ngoài ra, quan điểm
của ông còn được thể hiện dưới nhiều dạng, như chủ động phát biểu chính thức về một tác
phẩm văn học của người khác, gởi gắm trong chính tác phẩm do mình sáng tác, hoặc là
những suy nghĩ nhân cảm thụ những giá trị văn học của quá khứ hoặc đương thời. Những ý
kiến, quan niệm khác nhau trong các dạng nói trên cũng đã được Trúc Khê, Lê Trí Viễn,
Phương Lựu, Nguyễn Lộc, Vũ Khiêu, Trần Ngọc Vương, Nguyễn Ngọc Quận, Nguyễn
Thanh Tùng đề cập đến. Trong bài viết này, trên cơ sở kế thừa ý kiến của các nhà nghiên
cứu đi trước, người viết đặc biệt chú ý, nhấn mạnh những quan niệm tạo nên sự cách tân
trong thơ chữ Hán của ông.
2. NỘI DUNG
Tư tưởng chính ảnh hưởng đến sự cách tân thơ chữ Hán Cao Bá Quát là thuyết "tính


linh". "Cao Bá Quát ảnh hưởng thuyết "tính linh" thời Minh Thanh" [4]. Dù chỉ nhắc đến từ
này 2 lần (trong bài Thương Sơn thi tập hậu tự và bài thơ Phục thứ tiền vận tự di kiêm trình
Phạm Phủ Doãn), song hầu hết các phát biểu trực tiếp về quan niệm văn chương và thực tế

1
ThS, Trường ĐHSP Hà Nội 2
Q
sáng tác của Cao Bá Quát là xoay quanh tư tưởng này. Ông bày tỏ: Tính linh quan xứ hảo chi
di (Chỗ qua hệ đến tính linh là chống cằm suy ngẫm  Phục thứ tiền vận tự di kiêm trình
Phạm Phủ Doãn). "Tính linh" trong quan niệm của Cao Bá Quát một mặt là "tính tình" ("gốc
ở tính tình", như ông đã nhấn mạnh) nhưng mặt khác, có thể nói là "thần tình", "linh cơ" hay
sự "biến hoá".
Biểu hiện đầu tiên của sự ảnh hưởng thuyết "tính linh" của Cao Bá Quát là ông luôn luôn
đề cao chữ "tình". Ông xác định rành rọt, dứt khoát: "Bàn về thơ, tuy có phải trọng về quy
cách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình" (Tựa Thương Sơn công thi tập). Cao Bá Quát
nhiều lần nhấn mạnh điều mà bản thân ông cho là cốt tuỷ này. Trong Thiên cư thuyết, ông
viết: "Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tuỳ từng nơi, khổ hay vui là tuỳ từng cảnh, song trông thấy
vật mà cảm đến việc, rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên
như thế!" Đây cũng là định hướng chính giúp ông phán xét có sức thuyết phục mọi hiện
tượng văn chương lớn nhỏ ở đời. Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự là một ví dụ. Ông viết
trong Hoa tiên truyện tự: "Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó
của đời không gì bằng sự gặp gỡ. Đem cái đó mà giải thích ra, theo loại mà suy rộng ra, thì
cái lý trong thiên hạ đã biết được quá nửa rồi. Ta đối với truyện Hoa tiên có một mối cảm là
vì thế". Ông đồng tình cùng quan niệm không thể "vong tình" với người thân của người xưa:
Tình cự năng vong huống khách tâm

(Tình sao có thể quên phương chi ở lòng con người 
Thuyền hồi quá Bắc Tự dư bão bệnh sổ nhật hĩ. Dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc
hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên, kỳ nhị); Vong tình năng hữu kỷ (Đã mấy
người quên hẳn được tình  Hữu sở tư) Cho nên, với Cao Bá Quát:

Hữu đan năng hoán cốt,
Đắc thủ vị diên tâm.
(Đồng Nguyễn Chuyết Hiên, Phạm Thúc Minh luận thi, đắc tâm tự)
(Có thuốc tiên mới đổi được cốt phàm,
Được tay chưa chắc theo được lòng.)
Thứ hai là Cao Bá Quát đề cao cá tính, thiên tư hay cái tôi (bản ngã). Ông đòi hỏi văn
phải tự mình làm ra (Văn tất kỷ xuất) và phản đối gay gắt lối thơ "uỷ mị, yếu ớt", thiếu cá tính
sáng tạo, mô phỏng, bắt chước máy móc cổ nhân. Ông trở đi trở lại quan niệm này nhiều lần.
Trong bài Văn tất kỷ xuất, Cao Bá Quát viết: "Há có đôi bàn tay khéo chạm trổ/ Mà lại đi làm
bài văn bằng cách chắp vá văn của người khác?/ Chọn lời phải thật lòng từ chính mình/ Văn
từ viết ra ắt hơn hẳn người khác/ Đánh cắp câu văn đồng nghĩa với cặn bã/ Câu thơ hay mới
mẻ vốn từ kinh sách điển tịch mà ra/ Khí văn thông thoáng ào ạt tựa giấy cỏ rậm/ Lời văn viết
ra tinh diệu như muốn vút tầng không/ Lam bản hoàn toàn không để ý đến/ Kẻ có tài văn xuất
chúng ai thèm theo lối của anh/ Buông lời chân thật có thể trở thành một nhà trong thiên hạ/
Vì thế ngọn bút cũng có sức mạnh quét được nghìn quân/ Cái tự mình tìm được không giống
cái mà mọi người cùng được/ Điều người khác đã nói mình cũng dễ dãi nhại theo/ Thì chỉ
đáng dùng làm đồ tế khí nơi tông miếu mà thôi". Trong bài Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh
ngữ khúc hậu, Cao Bá Quát tuyên bố dõng dạc: "Đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai
lại từng câu từng chữ/ Điều đó khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời".
Điều đáng nói là Cao Bá Quát không phủ nhận học vấn, tri thức hay sự kế thừa. Trong
thơ ca của mình, ông từng mơ có được một phần chất thơ của Đỗ Phủ: Phong tình cương bán
Đỗ Lăng thi (Phong tình gắng bằng nửa thơ Đỗ Lăng (Đỗ Phủ)  Thận Tư dĩ Phương Đình
chi cố thời quá Lê Hi Vĩnh. Thư hiên thị tịch phong thậm cảm tác tứ thủ. Dư tuy bất tòng diệc
liêu dĩ uỷ lương hữu dã. Nhiên phục thứ vận, kỳ tứ). Cái ông phê phán ở đây là sự bắt chước
cổ nhân "không quan hệ gì đến tính linh": "Nếu chỉ việc gì cũng bắt chước, lời nào cũng mô
phỏng, như: chia tay vặt ở đầu thôn mà ca câu "chén rượu Dương Quan", tạm qua chơi bên
xóm mà làm câu "tiếng gà điếm cỏ", sửa đổi lời thơ biên tái, khoe cái tuyệt diệu của Gia
Châu, trau chuốt thể thơ cung đình, huênh hoang cái tiếng nối theo Thiếu Bá; thì dẫu dùng
nghìn bài chất chứa bể khổ, có trăm vần vắt kiệt từ tấc dạ héo khô cũng không quan hệ gì đến
tính linh cả" (Thương Sơn thi tập hậu tự). Như vậy, Cao Bá Quát đòi hỏi tiếp thu phải tiếp thu

được hồn cốt, thần tình một cách linh hoạt nghệ thuật của cổ nhân. Ông bày tỏ: "Ông Tô
Đông Pha bàn về viết chữ có nói là "không học cũng xong", ai mà hiểu được ý của ông thì có
thể cùng bàn chuyện làm thơ" (Thương Sơn thi tập hậu tự). "Quan niệm "không học là hơn"
còn có thể gợi ý cho sự tự do cá nhân của người nghệ sĩ  điều đó rất có ý nghĩa cho vấn đề
phong cách cá nhân trong văn chương. Và như thế, quan niệm của Cao Bá Quát thật gần gũi
với quan điểm lý luận mỹ học và lý luận văn học của chúng ta ngày nay" [3, tr.33].
Có thể nói, khi phát biểu về quan niệm nghệ thuật, Cao Bá Quát đầy bản lĩnh và chính
kiến. Không dễ dãi theo phong trào "thi tất Thịnh Đường", "phản Tống quy Đường" đang
thịnh hành đương thời, Cao Bá Quát đưa ra quan điểm của cá nhân mình. Ông quan niệm cần
tiếp thu tinh hoa của quá khứ. Trong bài Bình sinh ngũ thập vận, ông ca ngợi nền văn hoá Lý
 Trần Việt Nam:
Lý trần uý tài tảo,
Khinh khoái nhược sương khả.
(Thời Lý, Trần văn tài tươi tốt,
Nhẹ nhàng sảng khoái như mũi tên sương).
Ông đánh giá cao thơ Tô Đông Pha đời Tống:
Uất uất thiên vạn thiên,
Lâm lang xán di thảo.
Tam Đường thuỳ tự âm,
Tư nhân trác cô kiểu.
(Dạ thính Phan Sinh tụng Tô Pha)
(Đẹp đẽ bóng bẩy muôn nghìn bài,
Di cảo xán lạn như ngọc quý.
Trong Tam Đường ai là người tiếp nối tiếng thơ ấy,
Con người ấy trác việt, trơ trọi, cứng cỏi.)
Ông cũng bày tỏ thái độ trước sự phê phán đánh giá Tô Đông Pha không đúng của Ngô
Thế Vinh:
Cố tai Trọng Phu thị,
Nhĩ thực bất tự liệu.
Dư tử nha hậu tuệ,

Xuy điểm hà nhiễu nhiễu.
Tệ sách vô trường đồ,
Kiển nô khiết diểu niểu.
(Dạ thính Phan Sinh tụng Tô Pha)
(Cố chấp thay Trọng Phu,
Tai nghe bừa mà không tự nhìn sáng.
Những lời học mót nhặt nhạnh của ông đã thừa,
Mà sao cứ nhiễu chuyện nhằm vào một điểm mà chê cười.
Sự soi mói tệ hại không phải là con đường dài rộng,
Bọn ngựa què nghiến răng trước con tuấn mã.)
Như vậy, Cao Bá Quát không ủng hộ phong trào "phản Tống quy Đường", "thi tất Thịnh
Đường". Ông bày tỏ rõ ràng quan điểm: những gì là tinh hoa, tốt đẹp của cổ nhân phải học
tập, không cứ phải Tống hay Đường.
Trên cơ sở đòi hỏi "Văn tất kỷ xuất", học tập tinh hoa của cổ nhân, phê phán thứ văn bắt
chước cặn bã, Cao Bá Quát hướng tới hai đặc điểm cơ bản mà ông mong muốn có được: đó
là sự tự nhiên và phóng khoáng.
Ông xác định, làm thơ cần chú trọng sự chân tình, mộc mạc hơn là chạy theo sự cầu kỳ
về câu chữ:
Huyễn phục phi tráng nhan,
Phồn âm biến đại nhã.
(Vị mính tiểu kệ đồng Phan sinh dạ toạ)
(Áo loè loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ,
Âm điệu rườm rà làm mất thể thơ đại nhã.)
Thơ đại nhã là một thể thơ hay trong Kinh thi  một thành tựu văn học dân gian rực rỡ
của Trung Quốc cổ đại. Cao Bá Quát cho rằng muốn có thơ hay, mẫu mực như thể thơ đại
nhã thì không nên quá chú trọng đến sự rườm rà của âm điệu. Ông chủ trương sáng tác phải
bình dị, mộc mạc như Tô Đông Pha và Hoàng Đình Kiên:
Tô, Hoàng khí cách quân hưu tiếu,
Bình đạm môn phong tưởng vị phương!
(Phục dụng tiền vận hoạ Di Xuân)

(Khí phách như Tô, Hoàng bác đừng cười
Phong cách bình dị, mộc mạc tưởng cũng không hại gì!)
Ông chủ trương làm thơ tự nhiên, không đẽo gọt. Tứ thơ cần thanh thoát, tao nhã:
   
Văn nhã tức ngô sư
(Hoạ lưỡng Thị độc nguyệt dạ du liên trì)
(Tao nhã tức thầy ta)
   
Nhược tùng tiêu khắc khoa tam muội,
Khủng dữ ôn nhu biệt nhất môn.
(Hí tác thi luận, kỳ thập)
(Nếu từng giờ từng phút đem khoe cái bí quyết của thơ mình,
Thì e rằng tính ôn hoà nhu nhược sẽ trở thành một môn phải riêng.)
Vì thế, hứng thơ đến, theo Cao Bá Quát, rất tự nhiên, bất chợt, không thể có sự gượng ép,
như cơn mưa đến tự nhiên giục thi nhân có thơ ca: Đầy trời mưa đúng lúc  Giúp ta có hứng
ngâm  Chèo thuyền giục tay bút  Đối khách thơ mới ra  Tinh thần tràn mặt giấy  Tí tách
vó ngựa phi  Ngân hà tranh rửa bút  Tầm sét mượn tu từ  Khạc lời nghĩ theo gió  Ngọc
nẩy kết ý hay  Rào rào tiếng vang dội  Lời chọn thấm đẫm tình  Chắc sớm tìm li châu"
(Ưng thị vù thôi thi). Với tư tưởng đó, Cao Bá Quát bày tỏ sự quý trọng Kinh Thi, thơ Tô
Đông Pha Ông cũng mến mộ thơ Cù Tiên và đánh giá thơ Cù Tiên phải khuyên son tròn
như mặt trời vì lẽ Công hữu Hoài Các, Tào, Lê Quang, Thuận Chi phong trí thậm nhã (Ông
có văn phong rất tao nhã kiểu Hoài Các, Tào, Lê Quang, Thuận Chi).
Theo Cao Bá Quát, chính sự tự nhiên ấy khiến cho thơ không gò bó, phóng khoáng.
Những vần thơ được Cao Bá Quát ưa chuộng là thơ hào sảng, sống động, phóng khoáng, cá
tính. Ông yêu mến thơ Nguyễn Văn Siêu vì: Phương Đình thi tối hào/ Khinh khoái phục trầm
trước/ Tuy tại pháp độ trung/ Diệc bất giả thằng trước/ Thập vi nhi ngũ công/ Phong khách
dữ sắc trạch/ Hứng thú sở đáo thì/ Cảnh vật hạo phân thố (Thơ ông Phương Đình rất hào
sảng/ Vui tươi nhẹ nhàng lại trầm lắng rõ ràng/ Dù trong khuôn khổ pháp độ/ Cũng không
vay mượn (ý thơ) và ràng buộc trong sự đẽo gọt/ (Giống như) mười vòng vây mà dùng nhiều
quân sĩ công kích/ Phong độ sang trọng cùng với sắc thái nhuần thấm/ Nguồn cảm hứng đúng

lúc/ Cảnh vật trong thơ của ông lớn lao, phơi phới xen kẽ nhau  Phục hoạ Phương Đình
phân vận, dư đắc động, xuân, chước tam vận, kỳ tam). Ông cho rằng thơ Lý Bạch được
người đời truyền tụng chính vì sự "sống động, phong phú" của thơ ông: Thanh Liên Khả thị
nhất gia danh/ Xoang điệu hưu khan dĩ phóng sinh/ Đẩu tửu bách thiên tùng điệt đãng/ Khởi
ưng biến xứ tận ca hành (Thanh Liên (Lý Bạch) cũng đáng một danh gia/ Không cần xem xét
đến xoang điệu thi gia này mà là sự sống động phong phú của ông ta/ Uống hết đấu rượu làm
trăm bài thơ xuất phát từ sự xuề xoà tự nhiên không gò bó/ Thế cho nên khắp nơi người ta
vừa đi vừa ngâm vừa hát thơ ông  Hí tác thi luận, kỳ tứ). Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến
phong cách thơ Cao Bá Quát mà chúng tôi sẽ bàn tới ở những phần sau.
Cũng cần lưu ý, để có được những vần thơ tự nhiên phóng khoáng ấy, theo Cao Bá Quát,
không hề đơn giản. Nghệ sĩ phải là người đi nhiều, đọc nhiều: Cước để giang sơn vạn dư lý/
Quy lai mãn phúc trữ đồ thư (Vết chân đã in khắp trên non sông muôn dặm/ Khi trở về trong
bụng chứa đầy đầy sách vở  Đề sát viện Bùi công "Yên Đài anh ngữ" khúc hậu), Bách trác
thiên ma phương thị học/ Nhất tri bán giải vị vi văn (Trăm giũa nghìn mài mới gọi là sự học/
Hiểu biết nửa vời thì chưa làm văn chương được  Hí tác thi luận, kỳ nhất). Do đó, theo Cao
Bá Quát, Tô Đông Pha làm thơ tự nhiên như vậy, là vì sinh thời ông đã đọc vạn cuốn sách:
Bình sinh vạn quyển thư,
Xúc tiệp nhất mang miếu.
(Dạ thính Phan Sinh tụng Tô thi)
(Bình sinh Tô tử đã đọc vạn cuốn sách,
Chớp mắt là nắm được những điều bề bộn trong sách vở.)
Quan điểm này của Cao Bá Quát giống như tư tưởng của Đỗ Phủ: Độc thư tam vạn
quyển/ Hạ bút như hữu thần. Đó là đòi hỏi vốn liếng hiểu biết. Điều đó sẽ quy định ngòi bút
của tác giả, khiến cho tác giả có được ý đẹp lời hay.
Cao Bá Quát còn quan niệm, để có được văn chương đặc sắc, quan trọng là còn phải có
sự sáng tạo thần tình của người cầm bút, thêm nữa, lòng thi sĩ cần "yên", xa rời dục vọng:
Long nhãn tòng thiện hoạ,
An đạo cố năng cầm.
(Đồng Nguyễn Chuyết Hiên, Phạm Thúc Minh luận thi,
đắc tâm tự, kỳ nhất)

(Mắt rồng tuỳ ở người vẽ giỏi,
Có giữ lòng yên với đạo mới đàn hay.)
3. KẾT LUẬN
Như vậy, Cao Bá Quát có quan điểm khá toàn diện về văn chương, từ quan niệm về
người sáng tác cho đến khí cốt của tác phẩm. Ông đề cao chữ "tình", sự sáng tạo, sự thần diệu
của ngòi bút Những điều đó là những nhân tố mang ý nghĩa chi phối, làm nên sự cách tân
thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Hiền, Lược sử thi pháp Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ sông Cửu Long điện tử, URL:
, 2008.
2. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII

nửa đầu thế kỷ XIX, tập II, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, H., 1978.
3. Nguyễn Ngọc Quận, Quan niệm của Cao Bá Quát về văn học, Tập san Khoa học Xã hội và Nhân
văn  Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, số 6, tr. 3135,
1988.
4. Nguyễn Thanh Tùng, Tìm hiểu quan niệm thi học của Cao Bá Quát, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Cán bộ trẻ Trường ĐHSP Hà Nội, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội;
hieuquanniemthihoc
cuacaoba.html, 2010.

MORE COMMENTARY ON CAO BA QUAT’S
CONCEPTION OF POETRY
Nguyen Thi Tinh
Abstract
Cao Ba Quat’s conception of poetry has been dealt by many researchers such as Trúc Khê, Lê
Tri Vien, Phuong Luu, Nguyen Loc, Vu Khieu, Tran Ngoc Vuong, Nguyen Ngoc Quan, Nguyen Thanh
Tung, etc. This writing is an inheritance, supplementary and focus on conceptions that created
innovation of Cao Ba Quat’s poetry in Han Chinese.


×