Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Luận văn luật tìm hiểu luật kiểm toán độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.98 KB, 23 trang )

Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, hoạt động kiểm toán đã xuất hiện trên 300 năm và kiểm toán độc
lập có tính chuyên nghiệp đã có từ 150 năm nay. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hoạt động
kiểm toán độc lập mới được hình thành vào năm 1991, tính đến nay chỉ được hơn 20
năm. Vẫn còn khá non trẻ nhưng kiểm toán độc lập ở Việt Nam trong hơn 20 năm qua
đã có những bước phát triển đáng kể, góp phần tạo nên môi trường đầu tư bình đẳng,
thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế; đặc biệt kiểm toán độc lập là cơ sở cho việc
công khai minh bạch thông tin kinh tế, tài chính giúp thị trường chứng khoán Việt
Nam phát triển trong 10 năm qua Qua 20 năm hoạt động, bên cạnh những thành tựu
đạt được, thì kiểm toán độc lập tại Việt Nam vẫn còn đó những hạn chế, thiếu sót. Một
trong những nguyên nhân tồn tại những hạn chế này đó là việc pháp luật về kiểm toán
độc lập vẫn chưa được hoàn chỉnh, văn bản pháp luật cao nhất mới ở cấp Nghị định
Chính phủ Nhận thấy sự cần thiết phải có một hệ thống Luật Kiểm toán độc lập tại
Việt Nam, Chính phủ và cụ thể là Bộ Tài Chính đã tiến hành soạn lập nên bộ Luật
Kiểm toán độc lập và được Quốc Hội thông qua. Luật Kiểm toán độc lập được Quốc
hội khoá XII thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 3 năm 2011, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2012. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu sâu hơn về bộ Luật này
Trang 1
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
PHẦN I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1. Sự cần thiết của việc ban hành Luật Kiểm toán độc lập
1.1. Đánh giá hoạt động Kiểm toán độc lập từ năm 1991 đến năm 2011
Hoạt động Kiểm toán độc lập tại Việt Nam ra đời vào năm 1991, sau 5 năm đầu
tiên kể từ ngày Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường (1986), với việc hình
thành công ty kiểm toán đầu tiên vào ngày 13/5/1991. Qua 20 năm hoạt động, kiểm
toán độc lập đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trong nước cũng như hội nhập với kinh tế thế giới, song vẫn còn đó những hạn chế,
thiếu sót nhất định, cụ thể:
a. Những điểm mạnh:
− Đến tháng 6/2010, cả nước đã có 162 doanh nghiệp kiểm toán, với trên


6.700 người làm việc, trong đó hơn 1.300 người có chứng chỉ hành nghề kiểm toán
viên, cung cấp dịch vụ cho khoảng 29.000 khách hàng với tổng doanh thu năm 2010
đạt gần 2.750 tỷ đồng. (“Đề cương giới thiệu Luật Kiểm toán độc lập”, năm 2011,
trang 1)
− Thông qua hoạt động dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính, kế toán, các
công ty kiểm toán đã góp phần giúp các doanh nghiệp, các dự án quốc tế, các cơ quan,
đơn vị sự nghiệp nắm bắt được kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đường lối, chính sách kinh
tế, tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lý, tạo lập được những thông tin tin cậy và
tăng cường lòng tin của người sử dụng các thông tin tài chính, từng bước đưa công tác
quản lý tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp vào nề nếp.
− Hoạt động kiểm toán độc lập đã xác định được vị trí trong nền kinh tế thị
trường, đã góp phần ngăn ngừa và phát hiện lãng phí, góp phần thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, thực hiện công khai minh bạch thông tin tài chính, phục vụ cho công tác
quản lý, điều hành kinh tế - tài chính của doanh nghiệp và Nhà nước.
− Đã hình thành tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, bước đầu hỗ trợ cơ
quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động kiểm toán, đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán
viên góp phần duy trì và phát triển hoạt động kiểm toán độc lập được xã hội chấp
nhận.
b. Những hạn chế:
− Quy mô thị trường kiểm toán còn nhỏ, số lượng kiểm toán viên còn ít,
chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã - hội:
+Đối tượng kiểm toán hiện nay đa số là những doanh nghiệp lớn, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Nhà nước, ngân hàng và các tổ chức
tín dụng, công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán,…Vẫn còn rất nhiều
các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thực hiện kiểm toán.
+Tính đến tháng 6/2010 đã có 1.300 kiểm toán viên có chứng chỉ hành
nghề, số lượng kiểm toán viên làm việc tại các công ty kiểm toán là 1.200, bình quân
mỗi công ty kiểm toán chỉ có 8 kiểm toán viên. So với nhu cầu kiểm toán ngày nay thì
Trang 2
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập

con số này vẫn còn rất hạn chế, vì vậy áp lực làm việc của mỗi kiểm toán viên là rất
lớn.
− Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán còn chưa
đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế:
+Ngoài kiểm toán viên của các công ty kiểm toán lớn, đa số các kiểm toán
viên còn lại ở các công ty hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng
hành nghề chuyên nghiệp. Số lượng kiểm toán viên có chứng chỉ kiểm toán quốc tế
còn hạn chế (khoảng 480 người).
+Việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của kiểm toán
viên đôi khi vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Chế tài xử phạt hành vi vi
phạm của kiểm toán viên chưa đủ mạnh để phòng ngừa và răn đe nên cũng ảnh hưởng
đến chất lượng dịch vụ kiểm toán.
+Nhiều công ty kiểm toán mới thành lập quá nhỏ, số lượng kiểm toán viên
có chứng chỉ chỉ đạt mức yêu cầu tối thiểu (3 người), trong đó thậm chí có người còn
làm kiêm nhiệm công tác quản lý. Tỷ lệ nhân viên có chứng chỉ kiểm toán viên còn
quá thấp, hay xáo trộn Những điều đó đã dẫn đến chất lượng dịch vụ của một số
công ty kiểm toán nhỏ vẫn chưa đạt yêu cầu.
+Việc kiểm tra chủ yếu đánh giá về việc tuân thủ pháp luật và các quy
định về kiểm toán mà chưa đi sâu vào đánh giá chất lượng kết luận của báo cáo kiểm
toán do Bộ Tài chính và Hội nghề nghiệp không có đủ lực lượng cán bộ có chứng chỉ
hành nghề để thực hiện kiểm tra (vì người đi kiểm tra đòi hỏi cũng phải có chứng chỉ
hành nghề).
1.2. Sự cần thiết phải có Luật Kiểm toán độc lập
Được hình thành và phát triển từ năm 1991 nhưng đến năm 1994 thì Chính phủ
mới chính thức ban hành Nghị định 07/CP ngày 29/01/1994 về “kiểm toán độc lập
trong nền kinh tế quốc dân”. Sau 10 năm thực hiện Nghị định 07, đến tháng 3/2004
Chính phủ ban hành Nghị định 105/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 07. Nghị định này
đã được sửa đổi, bổ sung tại các Nghị định 133/2005/NĐ-CP ngày 31/10/2005 và Nghị
định 30/2009/NĐ-CP ngày 30/03/2009.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thị trường dịch vụ tài chính và kiểm toán

độc lập trong mấy năm gần đây, Nghị định 105 cho thấy còn có những hạn chế bởi vì
Nghị định về kiểm toán độc lập chưa tương xứng với vai trò, vị trí của hoạt động kiểm
toán độc lập trong nền kinh tế.
Cho đến trước khi Luật Kiểm toán độc lập được ban hành và có hiệu lực vào
ngày 01/01/2012 thì mới chỉ có Nghị định là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh các
vấn đề về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán, khách hàng,
đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả kiểm toán,…nên không
đảm bảo được hiệu lực pháp lý đầy đủ để những tổ chức, cá nhân có liên quan thực thi
quyền và trách nhiệm của mình.
Trong khi đó, ở hầu hết các nước phát triển và có hoạt động kiểm toán độc lập
hình thành từ sớm như Anh, Mỹ, Canada, cộng đồng châu Âu… đều có luật hoặc các
Trang 3
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
điều khoản luật về kiểm toán độc lập hoặc luật kế toán viên công chứng. Ví dụ tại
Anh, Mỹ, việc quy định về báo cáo tài chính và kiểm toán được quy định cụ thể trong
1 chương của Luật Công ty. Tại Liên bang Nga có Luật Kiểm toán được Hội đồng
Liên bang phê duyệt từ năm 2001. Ở Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore đều có
Luật Kế toán viên công chứng được ban hành từ nhiều năm qua trong đó đều có các
quy định chung về các qui tắc hoạt động của các kế toán viên công chứng.
Vì vậy, để tạo lập và hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc
lập ở Việt Nam, tiếp tục góp phần phát triển nền kinh tế xã hội, thì việc ban hành Luật
Kiểm toán độc lập là cần thiết và phù hợp với bối cảnh hiện nay trên các phương diện
sau:
+ Một là, việc ban hành Luật sẽ tạo ra một khung pháp lý cao nhất về kiểm
toán độc lập, luật này nếu được ban hành sẽ khắc phục được những hạn chế của Nghị
định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập, tạo điều kiện cho dịch vụ kiểm toán phát
triển cả về quy mô cũng như chất lượng.
+ Hai là, Luật kiểm toán độc lập sẽ quy định các nội dung chặt chẽ hơn về
điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, điều kiện để cấp chứng
chỉ kiểm toán viên, điều kiện hành nghề kiểm toán,… quy định về các nguyên tắc kiểm

toán, nội dung kiểm toán, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán,
của kiểm toán viên hành nghề và các điều bị cấm, hạn chế để đảm bảo nâng cao chất
lượng dịch vụ và tính độc lập của hoạt động kiểm toán. Những nội dung đó là hết sức
cần thiết, nhằm điều chỉnh các hành vi của doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán viên
trong suốt quá trình hoạt động. Đó cũng là tiêu chí, điều kiện để cơ quan quản lý nhà
nước giám sát chất lượng đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, phải được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
+ Ba là, việc ban hành Luật kiểm toán độc lập sẽ nâng cao vai trò của cơ
quan quản lý nhà nước trong việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động doanh nghiệp
kiểm toán, cấp chứng chỉ kiểm toán viên và các biện pháp nhằm nâng cao năng lực
giám sát, cưỡng chế thực thi, xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán.
+ Bốn là, Luật kiểm toán độc lập ra đời sẽ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận với dịch vụ kiểm toán, trong đó có doanh nghiệp có lợi ích
công chúng bắt buộc phải kiểm toán. Đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu hội nhập
trong lĩnh vực này.
+ Năm là, ban hành Luật Kiểm toán độc lập để đáp ứng được yêu cầu hội
nhập trong lĩnh vực kiểm toán theo tinh thần Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày
29/11/2006 của Quốc hội phê chuẩn nghị định thư gia nhập hiệp định thành lập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) của Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.
2. Mục tiêu của việc ban hành Luật Kiểm toán độc lập
Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động
Trang 4
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
kiểm toán độc lập, bảo đảm kiểm toán là công cụ quản lý, góp phần lành mạnh hóa,
minh bạch thông tin kinh tế, tài chính theo đúng chủ trương cải cách kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN và tiến trình hội nhập.
Quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của kiểm toán viên, doanh nghiệp

kiểm toán, đơn vị được kiểm toán và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt
động kiểm toán độc lập.
Tăng cường đối tượng kiểm toán theo luật định, đặc biệt là đơn vị có lợi ích
công chúng, bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư, Nhà nước và tổ chức, cá nhân có liên
quan.
Mở rộng thị trường dịch vụ kiểm toán, tăng cường chất lượng dịch vụ, tạo lập
vị thế cho Hội nghề nghiệp để hỗ trợ cơ quan nhà nước quản lý hoạt động kiểm toán
độc lập.
3. Bố cục của Luật Kiểm toán độc lập
Luật Kiểm toán độc lập gồm 8 Chương với 64 Điều:
Chương I. Những quy định chung gồm 13 Điều (Từ Điều 1 đến Điều 13) quy
định những vấn đề: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; mục đích kiểm toán; giải
thích từ ngữ và một số điểm có tính chất nguyên tắc chung.
Chương II. Kiểm toán viên và kiểm toán viên hành nghề gồm 6 Điều (Từ Điều
14 đến Điều 19) quy định về tiêu chuẩn kiểm toán viên; điều kiện đăng ký hành nghề
kiểm toán; quyền và nghĩa vụ của kiểm toán viên hành nghề, các trường hợp kiểm
toán viên hành nghề không được thực hiện kiểm toán.
Chương III. Doanh nghiệp kiểm toán gồm 17 Điều (Từ Điều 20 đến Điều 36)
quy định các nội dung liên quan đến doanh nghiệp kiểm toán, bao gồm: Loại doanh
nghiệp được cung cấp dịch vụ kiểm toán; điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán; hồ sơ cấp, thời hạn cấp
Chương IV. Đơn vị được kiểm toán gồm 3 Điều (từ Điều 37 đến Điều 39) quy
định đơn vị được kiểm toán thuộc đối tượng bắt buộc theo quy định của pháp luật,
quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán.
Chương V. Hoạt động kiểm toán độc lập gồm 4 mục với 13 Điều (từ Điều 40
đến Điều 52) quy định về: phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán; báo cáo
kiểm toán; hồ sơ kiểm toán và kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Chương VI. Kiểm toán báo cáo tài chính đơn vị có lợi ích công chúng gồm 6
Điều (từ Điều 53 đến Điều 58) quy định đơn vị có lợi ích công chúng; việc chấp
thuận doanh nghiệp kiểm toán; việc công khai thông tin của doanh nghiệp kiểm toán

và kiểm toán viên hành nghề được chấp thuận; báo cáo minh bạch; trách nhiệm của
đơn vị có lợi ích công chúng và về tính độc lập, khách quan.
Chương VII. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp gồm 3 Điều (từ Điều 59
đến Điều 61) quy định về: các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập; xử lý
Trang 5
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập và giải quyết tranh chấp.
Chương VIII. Điều khoản thi hành gồm 3 Điều (Điều 62 đến Điều 64) quy
định về điều khoản chuyển tiếp, hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành.
PHẦN II: PHÂN TÍCH NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA LUẬT KIỂM TOÁN
ĐỘC LẬP
1. Chương I: Những quy định chung: gồm 13 Điều (từ Điều 1 đến Điều 13)
Chương này quy định các điểm chung về: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp
dụng, giải thích từ ngữ, giá trị của Báo cáo kiểm toán, nguyên tắc hoạt động kiểm
toán độc lập, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và quản lý nhà hoạt động kiểm toán
độc lập. So với Nghị định 105/2004/NĐ-CP và Nghị định sửa đổi bổ sung
133/2005/NĐ-CP thì nội dung chương này đã được hoàn thiện, cụ thể, rõ ràng và phù
hợp hơn với thực tiễn hoạt động kiểm toán độc lập. Cụ thể:
Về Phạm vi điều chỉnh và Đối tượng áp dụng (Điều 1, Điều 2), phạm vi điều
chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật là: “kiểm toán viên (KTV), kiểm toán viên hành
nghề, doanh nghiệp kiểm toán (DNKT), chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước
ngoài tại Việt Nam, đơn vị được kiểm toán, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và các
tổ chức, cá nhân khác liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập”. Tuy nhiên, không
nên điều chỉnh cho đối tượng là thành viên tham gia cuộc kiểm toán, vì thành viên
tham gia cuộc kiểm toán rất đa dạng, cao nhất có thể là Phó Tổng Giám đốc công ty
kiểm toán, các kỹ sư hoặc nhân viên đánh máy nhưng họ không là người chịu trách
nhiệm về kết quả kiểm toán vì không ký báo cáo kiểm toán, không thể quy định tiêu
chuẩn, điều kiện, trách nhiệm chung cho tất cả họ được; họ thuộc vào đối tượng điều
chỉnh là “tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập”.
Về Giá trị của báo cáo kiểm toán (Điều 7), luật nêu ra giá trị của các báo cáo

kiểm toán về báo cáo tái chính, báo cáo kiểm toán tuân thủ, báo cáo kiểm toán hoạt
động và mục đích sử dụng của các báo cáo này. Báo cáo kiểm toán không có giá trị
pháp lý (vì kiểm toán độc lập là một dịch vụ) nhưng có giá trị thực tế rất cao đối với
người sử dụng, giúp người sử dụng thông tin báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán
có thể yên tâm, tin tưởng vào thông tin kinh tế, tài chính được kiểm toán viên xác
nhận để đưa ra các quyết định kinh tế; đối với người ký báo cáo kiểm toán phải chịu
trách nhiệm pháp lý trước xã hội.
Về Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán (Điều 12), lần đầu tiên, Tổ chức nghề
nghiệp về kiểm toán được quy định trong văn bản pháp luật cao và là một đối tượng
điều chỉnh của Luật kiểm toán độc lập. Các nội dung quy định tại Điều 12 Luật kiểm
toán độc lập và các công việc Bộ Tài chính đã và tiếp tục xem xét để chuyển giao cho
Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thể hiện rõ quan điểm về quản lý hoạt động kiểm
toán độc lập của Việt Nam được triển khai thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý
Nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, bảo
đảm việc tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
của KTV, KTV hành nghề và DNKT theo quy định của Luật này, của Chính phủ và
Trang 6
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
của Bộ Tài chính. Đặc trưng của Kiểm toán độc lập là tính chất độc lập cao của nghề
nghiệp nên cần có tổ chức nghề nghiệp hoạt động theo nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự
quản, tự chịu trách nhiệm thì mới được xã hội thừa nhận tính độc lập của kiểm toán
viên hành nghề.
Theo lịch sử ra đời và phát triển nghề kiểm toán độc lập, và thông lệ quốc tế
được nhiều nước thừa nhận, hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức cho kiểm toán viên
hành nghề, tổ chức thi và cấp chứng chỉ kiểm toán viên, kiểm soát chất lượng dịch vụ
và đạo đức hành nghề, công bố chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán đều là những
công việc do tổ chức nghề nghiệp kiểm toán thực hiện và được nhà nước thừa nhận.
Ở Việt Nam, tất cả những việc trên đều do Nhà nước làm ngay từ khi ra đời hoạt
động kiểm toán độc lập; Do đó Nhà nước cần chuyển giao theo lộ trình phù hợp
những công việc này cho tổ chức nghề nghiệp theo đúng vị trí của nó. Chuyển giao là

cách nói của Việt Nam. Theo Luật và quy định của nhiều nước thì Nhà nước chỉ nên
quy định các tiêu chuẩn, điều kiện của người hành nghề, những việc được làm và
không được làm, loại hình doanh nghiệp, giám sát và xử lý sai phạm của người hành
nghề chứ Nhà nước không nên phình tổ chức bộ máy hành chính để xem xét từng
người hành nghề kiểm toán có đủ điều kiện hay không, họ hành nghề thế nào, chất
lượng ra sao khi mà lực lượng kiểm toán viên hiện nay là 1700 người và trong
tương lai sẽ là hàng nghìn người (như có chuyên gia nước ngoài đã nói Việt Nam cần
7000 kiểm toán viên vào năm 2020). Tại Việt Nam cũng đã có tiền lệ giao các chức
năng này cho Hội xã hội nghề nghiệp như: Luật Luật sư năm 2006 đã có Chương V
quy định về tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư, Nghị định của Chính phủ quy
định Nhà nước hỗ trợ kinh phí khi giao cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện
các công việc hỗ trợ cơ quan Nhà nước
Về Các hành vị bị nghiêm cấm (Điều 13), so với Nghị định 105/2004/NĐ-CP
thì đây cũng là một nét mới cũng như là một sự bổ sung rất cần thiết và phù hợp với
hoạt động kiểm toán độc lập. Đây là một trong những yếu tố cần thiết của luật phù
hợp với các Chuẩn mực kiểm toán để quy định về những điều bị nghiêm cấm trong
hoạt động kiểm toán đối với kiểm toán viên, kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp
kiểm toán, đơn vị được kiểm toán và thành viên tham gia cuộc kiểm toán nhằm nâng
cao chất lượng của cuộc kiểm toán và cũng là cơ sở để xây dựng những chế tài xử lí
các hành vi vi phạm của các đối tượng nêu trên trong cuộc kiểm toán.
2. Chương II: Kiểm toán viên và Kiểm toán viên hành nghề: gồm 6 Điều (từ Điều
14 đến Điều 19)
Chương này quy định về tiêu chuẩn kiểm toán viên; điều kiện đăng ký hành
nghề kiểm toán; quyền và nghĩa vụ của kiểm toán viên hành nghề, các trường hợp
kiểm toán viên hành nghề không được thực hiện kiểm toán.
Điều 14 quy định Tiêu chuẩn kiểm toán viên. Theo đó, kiểm toán viên phải có
đủ các tiêu chuẩn sau: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt,
có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan, có bằng tốt nghiệp đại học
trở lên thuộc các chuyên ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán hoặc chuyên
Trang 7

Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
ngành khác theo quy định của Bộ Tài chính và phải có Chứng chỉ kiểm toán viên theo
quy định của Bộ Tài chính. Quy định này nhằm mở rộng đối tượng có đủ tiêu
chuẩn trở thành kiểm toán viên, tạo điều kiện tăng số lượng kiểm toán viên, đáp ứng
nhu cầu của xã hội về kiểm toán độc lập ngày càng tăng.
Luật cũng có quy định về việc thừa nhận đối với những người có chứng chỉ
kiêm toán viên nước ngoài. Theo đó, người có chứng chỉ nước ngoài được Bộ Tài
chính công nhận, nếu đạt kỳ thi sát hạch bằng tiếng Việt về pháp luật Việt Nam và có
hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết,
trung thực, khách quan thì được công nhận là kiểm toán viên.
Điều 15: Đăng ký hành nghề kiểm toán quy định đối với kiểm toán viên hành
nghề, để được ký báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải đăng ký hành nghề theo
quy định. Để được đăng ký hành nghề kiểm toán, kiểm toán viên phải có thời gian
thực tế làm kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước, hoặc kiểm
toán nội bộ từ đủ 36 tháng trở lên và tham gia đầy đủ chương trình cập nhật kiến
thức. Khi đăng ký hành nghề kiểm toán viên được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
hành nghề kiểm toán theo quy định của Bộ Tài chính. Giấy chứng nhận đăng ký hành
nghề kiểm toán chỉ có giá trị khi người được cấp có hợp đồng lao động làm toàn bộ
thời gian cho một doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước
ngoài tại Việt Nam. Những người được cấp chứng chỉ KTV trước ngày 01/01/2012
không phải tuân thủ điều kiện 36 tháng thực tế làm kiểm toán.
Kiểm toán viên hành nghề chỉ được hành nghề trong doanh nghiệp kiểm toán,
nghiêm cấm kiểm toán viên, kiểm toán viên hành nghề thực hiện hành nghề kiểm
toán với tư cách cá nhân. Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam còn non trẻ, mới
hình thành và phát triển. Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển
đổi, nhu cầu về kiểm toán ngày càng tăng nhưng phần lớn là do yêu cầu bắt buộc bởi
pháp luật hơn là từ chính bản thân các chủ sở hữu doanh nghiệp (ví dụ các doanh
nghiệp FDI, các doanh nghiệp có vốn sở hữu của Nhà nước…). Nhiều đối tượng
được kiểm toán chưa thực sự coi trọng kiểm toán mà chỉ thực hiện để “đối phó”; các
cổ đông cũng chưa thực sự hiểu về giá trị kiểm toán vì thế việc lựa chọn kiểm toán

viên nhiều khi cũng chưa chú ý đến chất lượng kiểm toán. Việc một cá nhân cung cấp
dịch vụ trong điều kiện hiện nay khó có thể bảo đảm độ tin cậy của ý kiến kiểm toán.
Do đó, Luật quy định pháp nhân mới được cung cấp dịch vụ kiểm toán là để bảo đảm
đầu vào của việc cung cấp dịch vụ này phải ở một mức độ nhất định, bảo đảm tuân
thủ đầy đủ các yêu cầu, thủ tục kiểm toán, yêu cầu soát xét, từ đó bảo đảm sự tin cậy
của ý kiến kiểm toán, giúp tăng cường lòng tin của công chúng vào ý kiến kiểm toán.
Điều 16, Luật quy định Những người không được đăng ký hành nghề kiểm toán
gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; người đang bị cấm hành nghề kiểm toán theo
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; người đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; người đã bị kết án một trong các tội về kinh tế, chức vụ liên quan đến
tài chính, kế toán mà chưa được xóa án; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào cơ sở chữa bệnh, đưa vào cơ sở giáo
dục; người có tiền án về tội kinh tế từ nghiêm trọng trở lên; người có hành vi vi phạm
Trang 8
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
pháp luật về tài chính, kế toán, kiểm toán và quản lý kinh tế bị xử phạt vi phạm hành
chính trong thời hạn một năm, kể từ ngày có quyết định xử phạt; người bị đình chỉ
hành nghề kiểm toán.
Trong chương này, Luật cũng quy định quyền và nghĩa vụ của kiểm toán viên
hành nghề (Điều 17, Điều 18) cũng như các trường hợp không được thực hiện kiểm
toán của kiểm toán viên hành nghề (Điều 19) một cách cụ thể, rõ ràng và phù hợp
hơn so với Nghị định 105 về kiểm toán độc lập.
3. Chương III: Doanh nghiệp kiểm toán: gồm 17 Điều (Từ Điều 20 đến Điều 36)
Chương này quy định các nội dung liên quan đến doanh nghiệp kiểm toán, bao
gồm: Loại doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ kiểm toán; điều kiện cấp giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán; hồ sơ cấp, thời hạn cấp Một số
điểm mới được quy định trong Chương này:
Về doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại
Việt Nam và điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán (Điều 20, 21). Luật quy định các
loại hình doanh nghiệp được kinh doanh dịch vụ kiểm toán: (1) công ty TNHH hai

thành viên trở lên; (2) công ty hợp danh; (3) doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, khi đã
chấp nhận việc đăng ký của cá nhân dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân thì không
có lý do gì không cho cá nhân đăng ký dưới hình thức công ty TNHH một thành viên.
Luật quy định chỉ có những doanh nghiệp có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh dịch vụ kiểm toán mới được cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Doanh nghiệp kiểm toán phải có tối thiểu 5 kiểm toán viên hành nghề kiểm
toán (thay vì chỉ có 3 kiểm toán viên như trước đây). Người đại diện theo pháp luật,
Giám đốc (hoặc Tổng Giám đốc) các doanh nghiệp kiểm toán phải là kiểm toán viên
hành nghề. Đối với Công ty TNHH phải có ít nhất 2 thành viên là kiểm toán viên
hành nghề và phải bảo đảm mức vốn pháp định theo quy định của Chính phủ và phần
vốn góp của thành viên là tổ chứ c không được vượt quá mức do Chính phủ quy định,
cụ thể:
+ Theo như Khoản 1 Điều 5 của Nghị định 17/2002/NĐ-CP Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kiểm toán độc lập thì “Vốn pháp
định đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn là 3 (ba) tỷ đồng Việt Nam; từ ngày 01
tháng 01 năm 2015, vốn pháp định là 5 (năm) tỷ đồng Việt Nam”. Quy định về mức
vốn pháp định không chỉ áp dụng cho loại hình công ty TNHH 2 thành viên trở lên
mà quy định chung cho loại hình công ty TNHH bao gồm cả công ty TNHH kiểm
toán 1 thành viên có vốn đầu tư nước ngoài. Các công ty TNHH 1 thành viên có vốn
đầu tư nước ngoài phải thực hiện yêu cầu về vốn pháp định theo quy định của Nghị
định số 17 chỉ còn một số công ty đã thành lập và hoạt động trước khi Luật kiểm toán
độc lập có hiệu lực thì vẫn tiếp tục được phép hoạt động theo hình thức Công ty
TNHH 1 thành viên đến hết thời hạn của Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy phép
đầu tư (theo quy định tại Khoản 3 Điều 62 Luật kiểm toán độc lập). Quy định này sẽ
Trang 9
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
giúp cho việc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp kiểm toán này khi xảy ra rủi
ro kiểm toán và bình đẳng với Công ty TNHH 2 thành viên trở lên.
+ Khoản 1 Điều 7 Nghị định 17 quy định “Công ty trách nhiệm hữu hạn
kiểm toán phải có ít nhất 02 (hai) thành viên góp vốn là kiểm toán viên đăng ký hành

nghề tại công ty. Vốn góp của các kiểm toán viên hành nghề phải chiếm trên 50%
vốn điều lệ của công ty”. Quy định này có dựa trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một
số nước trên thế giới, như ở Nga yêu cầu 51% vốn điều lệ của DNKT phải thuộc về
các KTV. Quy định về KTV hành nghề không được đồng thời là thành viên góp vốn
của hai DNKT trở lên để đảm bảo tính độc lập và bảo mật thông tin của DNKT vì
nếu cho phép KTV hành nghề góp vốn vào nhiều DNKT thì sẽ xảy ra trường hợp
KTV đăng ký hành nghề ở một DNKT nhưng lại tham gia góp vốn vào nhiều DNKT
khác và có thể chi phối chính sách tài chính và hoạt động của DNKT này, dẫn đến sự
cạnh tranh không lành mạnh giữa các DNKT
+ Đối với thành viên là tổ chức của công ty TNHH hai thành viên trở lên
được quy định ở Điều 6 Nghị định 17/2002/NĐ-CP: (1) Thành viên là tổ chức được
góp tối đa 35% vốn điều lệ của công ty TNHH kiểm toán hai thành viên trở lên, nếu
có nhiều tổ chức góp vốn thì tổng số vốn góp của các tổ chức tối đa bằng 35% vốn
điều lệ; (2) Thành viên là tổ chức phải cử một người làm đại diện cho tổ chức vào
Hội đồng thành viên. Người đại diện của thành viên là tổ chức phải là KTV và phải
đăng ký hành nghề tại DNKT mà tổ chức tham gia góp vốn; (3) KTV hành nghề là
người đại diện của thành viên là tổ chức không được tham gia góp vốn vào DNKT đó
với tư cách cá nhân. Quy định này dựa trên quy định tại Điều 52 Luật doanh nghiệp,
theo đó quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua khi được đại diện số
phiếu ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp. Do vậy, các thành viên
là cá nhân phải chiếm ít nhất 65% vốn để có thể thông qua quyết định của Hội đồng
thành viên mà không bị ảnh hưởng bởi tổ chức tham gia góp vốn. Việc khống chế tỷ
lệ tối đa bằng 35% nhằm hạn chế việc lợi dụng tỷ lệ vốn góp lớn để chi phối điều lệ,
chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán. Việc chi phối này có
thể dẫn đến việc doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề có thể không
đảm bảo chất lượng dịch vụ, không tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp nếu muốn tối đa
hoá lợi nhuận.
Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam được kinh doanh
dịch vụ kiểm toán theo quy định của pháp luật. Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán
nước ngoài tại Việt Nam phải có ít nhất hai kiểm toán viên hành nghề, trong đó có

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc chi nhánh; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc chi nhánh
doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài không được giữ chức vụ quản lý, điều hành
doanh nghiệp khác tại Việt Nam; Doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài phải có văn
bản gửi Bộ Tài chính bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ và cam kết của chi
nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam; Doanh nghiệp kiểm toán
nước ngoài phải bảo đảm duy trì vốn không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy
định của Chính phủ.
Trang 10
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
Doanh nghiệp kiểm toán phải bảo đảm điều kiện kinh doanh trong suốt quá
trình hoạt động. Nếu không bảo đảm các điều kiện đó trong 3 tháng liên tục thì bị
đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán. Quá 60 ngày không khắc phục thì sẽ bị thu
hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán.
Về hồ sơ, thủ tục liên quan đến việc cấp, cấp lại và thu hồi Giấy chứng nhận
đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán cũng được quy định cụ thể trong chương
này từ Điều 22 đến Điều 27. Thẩm quyền cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép thành lập và
hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán là công việc thuộc chức năng quản lý của cơ
quan Nhà nước cụ thể là Bộ Tài Chính. Việc quy định tập trung các quyền này vào
một cơ quan quản lý Nhà nước là khá thuận lợi, đảm bảo quản lý thống nhất, giảm
bớt thủ tục hành chính… Tuy nhiên, Bộ Tài chính cũng cần cân nhắc và có kế hoạch
phát triển nhân sự phù hợp thì mới thực hiện được. Hiện tại, Bộ Tài chính đang thực
hiện chức năng tương tự đối với doanh nghiệp bảo hiểm, chứng khoán, tuy nhiên đặc
điểm của doanh nghiệp bảo hiểm, chứng khoán là quy mô lớn, ít thay đổi, số lượng
doanh nghiệp không nhiều; khác với đặc điểm của các doanh nghiệp kiểm toán là có
số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng quy mô nhỏ (25-30 người) và thay đổi hàng
ngày. Ngoài ra: (1) Nếu tập trung việc cấp phép tại Bộ Tài chính thì không thuận tiện
cho các doanh nghiệp trong cả nước khi thành lập, điều chỉnh giấy phép. Nếu đưa về
Sở Tài chính các tỉnh, thành phố thì bộ máy sẽ rất nặng nề. (2) Bộ Tài chính chỉ cấp
phép cho hoạt động kiểm toán độc lập khi có đủ các điều kiện quy định; Vậy nếu
doanh nghiệp không đủ điều kiện hoạt động kiểm toán nhưng vẫn đủ điều kiện kinh

doanh các dịch vụ khác lại phải quay về Sở Kế hoạch và Đầu tư và ngược lại là rất
không thuận tiện cho doanh nghiệp
Một trong những nội dung quan trọng trong Chương này của Luật đó là quy
định về Quyền và Nghĩa vụ của Doanh nghiệp kiểm toán (Điều 28 và Điều 29). Về
nghĩa vụ của doanh nghiệp kiểm toán, để bảo đảm chất lượng kiểm toán, Luật quy
định doanh nghiệp kiểm toán phải bố trí nhân sự có trình độ chuyên môn phù hợp;
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiểm toán viên hành nghề; từ chối kiểm
toán khi không bảo đảm tính độc lập, không đủ năng lực chuyên môn, không đủ điều
kiện kiểm toán, khi đơn vị được kiểm toán có yêu cầu trái với đạo đức nghề nghiệp,
trái với chuyên môn, nghiệp vụ. Các doanh nghiệp kiểm toán phải tự kiểm soát chất
lượng hoạt động và chịu sự kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán theo quy định của
Bộ Tài chính. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kiểm toán được quy định rõ ràng,
cụ thể, không nhập nhằng là một yếu tố quan trọng cho doanh nghiệp kiểm toán thực
hiện tốt công việc của mình, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của cuộc kiểm toán.
4. Chương IV: Đơn vị được kiểm toán: gồm 5 Điều (Từ Điều 37 đến Điều 41)
Chương này quy định đơn vị được kiểm toán thuộc đối tượng bắt buộc theo
quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán. Đây là một
điểm mới quan trọng, rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn hoạt động kiểm toán độc
lập được quy định trong Luật này so với Nghị định 105/2004/NĐ-CP và Nghị định
133/2005/NĐ-CP sửa đổi bổ sung.
Trang 11
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
Về đơn vị được kiểm toán, Điều 37 Luật này quy định doanh nghiệp, tổ chức
mà pháp luật quy định báo cáo tài chính hàng năm phải được doanh nghiệp kiểm
toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm toán, bao
gồm: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tổ chức tín dụng được thành lập và
hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng; tổ chức tài chính, doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; công ty đại chúng, tổ chức phát hành và
tổ chức kinh doanh chứng khoán. Và doanh nghiệp, tổ chức phải được doanh nghiệp
kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm toán,

bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, trừ doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh
vực thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật phải được kiểm toán đối với
báo cáo tài chính hàng năm; doanh nghiệp, tổ chức thực hiện dự án quan trọng quốc
gia, dự án nhóm A sử dụng vốn nhà nước, trừ các dự án trong lĩnh vực thuộc bí mật
nhà nước theo quy định của pháp luật phải được kiểm toán đối với báo cáo quyết toán
dự án hoàn thành; doanh nghiệp, tổ chức có vốn góp của Nhà nước và dự án sử dụng
vốn nhà nước khác do Chính phủ quy định phải được kiểm toán đối với báo cáo tài
chính hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự án hoàn thành; doanh nghiệp kiểm toán,
chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam phải được kiểm toán đối
với báo cáo tài chính hàng năm.
Đối tượng kiểm toán bắt buộc đã được mở rộng. Trước đây, Nghị định số
105/2004/NĐ-CP chỉ yêu cầu 2 đối tượng bắt buộc phải được DNKT kiểm toán là
BCTC hàng năm của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và báo cáo quyết toán các dự
án đầu tư hoàn thành từ nhóm A trở lên. Theo quy định của Luật KTĐL, đối tượng
bắt buộc phải kiểm toán được mở rộng hơn, Điều 37 quy định BCTC hàng năm của
DNNN và báo cáo quyết toán dự án hoàn thành của doanh nghiệp, tổ chức thực hiện
dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A sử dụng vốn nhà nước (trừ DNNN, các dự
án hoạt động trong lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước) và BCTC hàng năm của DNKT
phải được DNKT kiểm toán. Ngoài ra khoản 2 Điều 37 quy định: doanh nghiệp, tổ
chức có vốn góp của Nhà nước và dự án sử dụng vốn nhà nước khác do Chính phủ
quy định phải được kiểm toán đối với BCTC hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự
án hoàn thành. Điều 53 quy định các đơn vị có lợi ích công chúng phải được kiểm
toán BCTC hàng năm như tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, doanh nghiệp bảo
hiểm, môi giới bảo hiểm, công ty đại chúng, tổ chức phát hành doanh nghiệp, tổ
chức khác có liên quan đến lợi ích công chúng do tính chất và quy mô hoạt động.
Về nghĩa vụ của đơn vị được kiểm toán, Điều 39 quy định đơn vị được kiểm
toán phải cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời, trung thực các thông tin, tài liệu theo
yêu cầu của KTV và CTKT; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính pháp lý của
các thông tin và tài liệu đã cung cấp Đây là điều mà trước đây chưa được quy định
rõ ràng. Với quy định này, những hạn chế trong phạm vi kiểm toán gây ảnh hưởng

đến ý kiến của KTV trên báo cáo kiểm toán do không được cung cấp đầy đủ tài liệu,
hoặc được cung cấp tài liệu không kịp thời sẽ được hạn chế rất nhiều. Đặc biệt, Luật
quy định doanh nghiệp được kiểm toán, người chịu trách nhiệm lập ra BCTC phải
điều chỉnh các sai sót của BCTC theo kiến nghị của các KTV để đảm bảo báo cáo
kiểm toán không có các ý kiến ngoại trừ. Quy định này được hiểu rằng, các đơn vị
được kiểm toán không chỉ lập BCTC để cung cấp cho các KTV và doanh nghiệp kiểm
Trang 12
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
toán, mà họ còn phải có trách nhiệm lập lại BCTC để thực hiện các kiến nghị điều
chỉnh do KTV đưa ra. Do đó, BCTC sẽ không còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan (nếu
có) của người lập ra BCTC. Qua đó, hạn chế rất nhiều những ý kiến ngoại trừ trên báo
cáo của KTV. Điều này đặc biệt có ý nghĩa hơn đối với các công ty niêm yết, công ty
đại chúng bởi, nếu có ý kiến ngoại trừ thì công chúng đầu tư và người đọc rất cần thiết
phải lưu ý phân tích sâu các thuyết minh BCTC của các doanh nghiệp này. Các cổ
đông sẽ có quyền đòi hỏi doanh nghiệp giải trình rõ về trách nhiệm pháp lý của ban
lãnh đạo doanh nghiệp đối với ý kiến ngoại trừ trên báo cáo kiểm toán. Yêu cầu này
thực sự là một sức ép không nhỏ với lãnh đạo doanh nghiệp nếu muốn có một BCTC
được kiểm toán "chấp nhận toàn phần". Đây cũng là điều kiện quan trọng để KTV
không đưa ra ý kiến ngoại trừ, gây khó hiểu cho người đọc BCTC.
5. Chương V: Hoạt động kiểm toán độc lập: gồm 13 Điều (Điều 40 đến Điều 52)
Nội dung Chương này bao gồm 4 Mục quy định về: phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp kiểm toán; báo cáo kiểm toán; hồ sơ kiểm toán và kiểm soát chất lượng
dịch vụ kiểm toán. Cụ thể:
5.1. Mục 1: Hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán: gồm 6 Điều (Điều 40 đến
Điều 45)
Về Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp
kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam (Điều 40), Luật quy định doanh nghiệp kiểm toán,
chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện các dịch
vụ kiểm toán, gồm kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, kiểm toán báo cáo tài chính vì

mục đích thuế và công việc kiểm toán khác; dịch vụ soát xét báo cáo tài chính, thông
tin tài chính và dịch vụ bảo đảm khác. Ngoài các dịch vụ này, doanh nghiệp kiểm
toán được đăng ký thực hiện các dịch vụ như: Tư vấn kinh tế, tài chính, thuế; tư vấn
quản lý, chuyển đổi và tái cơ cấu doanh nghiệp; tư vấn ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản trị của doanh nghiệp, tổ chức; dịch vụ kế toán theo quy định của pháp luật
về kế toán; thẩm định giá tài sản và đánh giá rủi ro kinh doanh; dịch vụ bồi dưỡng
kiến thức tài chính, kế toán, kiểm toán; dịch vụ liên quan khác về tài chính, kế toán,
thuế theo quy định của pháp luật.
Sở dĩ quy định như vậy vì đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện đòi hỏi
phải có sự chuyên môn hoá cao đối với các dịch vụ được phép cung cấp. Quy định
này không cấm doanh nghiệp kiểm toán được phép sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi để
mua trái phiếu, gửi tiền có kỳ hạn nhưng không được làm ảnh hưởng đến hoạt động
kiểm toán.
Về Nghĩa vụ bảo mật (Điều 43), Luật quy định kiểm toán viên hành nghề,
doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam
không được tiết lộ thông tin về hồ sơ kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán,
trừ trường hợp được khách hàng, đơn vị được kiểm toán chấp thuận hoặc theo quy
định của pháp luật. Kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh
doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam không được sử dụng thông tin về
hồ sơ kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán để xâm phạm lợi ích của Nhà
Trang 13
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ
quan nhà nước, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và cá nhân có liên quan có nghĩa
vụ giữ bí mật thông tin được cung cấp về hồ sơ kiểm toán, khách hàng, đơn vị được
kiểm toán theo quy định của pháp luật.
Quy định này nhằm đảm bảo việc kiểm toán viên, kiểm toán viên hành nghề,
tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và cá nhân có liên quan không tiết lộ những thông
tin bất lợi (nếu có) của đơn vị được kiểm toán hoặc dùng những thông tin này vào
mục đích bất chính ảnh hưởng đến lợi ích của đơn vị được kiểm toán cũng như tính

minh bạch của hoạt động kiểm toán.
Về phí dịch vụ kiểm toán (Điều 44), để tránh tuỳ tiện trong việc xác định giá phí,
Luật quy định về căn cứ và phương thức xác định phí kiểm toán. Theo đó, phí dịch vụ
kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài
tại Việt Nam và khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng kiểm toán theo căn cứ sau đây:
Nội dung, khối lượng và tính chất công việc; thời gian và điều kiện làm việc của kiểm
toán viên hành nghề, kiểm toán viên sử dụng để thực hiện dịch vụ; trình độ, kinh
nghiệm và uy tín của kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh
doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam; mức độ trách nhiệm và thời hạn mà
việc thực hiện dịch vụ đòi hỏi. Phí dịch vụ kiểm toán được tính theo phương thức: Giờ
làm việc của kiểm toán viên; từng dịch vụ kiểm toán với mức phí trọn gói; hợp đồng
kiểm toán nhiều kỳ với mức phí cố định từng kỳ.
Để tránh tuỳ tiện trong việc xác định giá phí, Luật quy định về căn cứ và phương
thức xác định phí kiểm toán. Theo đó, phí dịch vụ kiểm toán do doanh nghiệp kiểm
toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và khách hàng thỏa
thuận trong hợp đồng kiểm toán theo căn cứ sau đây: Nội dung, khối lượng và tính
chất công việc; thời gian và điều kiện làm việc của kiểm toán viên hành nghề, kiểm
toán viên sử dụng để thực hiện dịch vụ; trình độ, kinh nghiệm và uy tín của kiểm toán
viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước
ngoài tại Việt Nam; mức độ trách nhiệm và thời hạn mà việc thực hiện dịch vụ đòi
hỏi. Phí dịch vụ kiểm toán được tính theo phương thức: Giờ làm việc của kiểm toán
viên; từng dịch vụ kiểm toán với mức phí trọn gói; hợp đồng kiểm toán nhiều kỳ với
mức phí cố định từng kỳ.
Về quy trình kiểm toán (Điều 45), Luật cũng có những quy định cụ thể về quy
trình của một cuộc kiểm toán bao gồm các bước: (1) Chấp nhận, duy trì khách hàng
và lập kế hoạch kiểm toán; (2) Thực hiện kiểm toán; (3) Kết thúc kiểm toán, lập báo
cáo kiểm toán và xử lý sau kiểm toán. Kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm
toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam thực hiện các bước
của quy trình kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán.
5.2. Mục 2: Báo cáo kiểm toán: gồm 3 Điều (Điều 46 đến Điều 48)

Nội dung Chương này quy định về nội dung của báo cáo kiểm toán về báo cáo
tài chính cũng như các công việc kiểm toán khác đựoc lập theo quy định của chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam hiện hành và kiểm toán viên hành nghề không được ký báo
cáo kiểm toán cho một đơn vị được kiểm toán quá ba (03) năm liên tục. Đặc biệt, về
ý kiến kiểm toán, Khoản 2 Điều 48 quy định: "Bộ Tài chính quy định nội dung không
Trang 14
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
được ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán phù hợp với chuẩn mực kiểm toán". Theo đó,
đơn vị được kiểm toán có nghĩa vụ thực hiện yêu cầu của kiểm toán viên hành nghề
và doanh nghiệp kiểm toán về việc điều chỉnh các sai sót để báo cáo kiểm toán không
có ý kiến ngoại trừ đối với các nội dung không được ngoại trừ theo quy định nói trên.
Ngoài ra, đối với những ý kiến ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán của kiểm
toán viên, kiểm toán viên hành nghề không thuộc Khoản 2 Điều 48, thì Khoản 3 Điều
48 quy định “cơ quan quản lí Nhà nước có thẩm quyền, đại diện chủ sở hữu đối với
đơn vị đựoc kiểm toán có quyền yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh
nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và đơn vị được kiểm toán giải trình vê các
nội dung ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán”.
Quy định về ý kiến ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán trong chương này là
điều cần thiết để nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc kiểm toán. Đồng thời giúp cho
việc chỉnh sửa các sai sót (nếu có) trong báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán
trước khi nó được công bố chính thức. Thêm nữa, quy định về việc yêu cầu giải trình
các ý kiến ngoại trừ (nếu cần thiết) cũng góp phần làm tăng tính minh bạch của báo
cáo tài chính, giúp cho nhà đầu tư cũng như những người sử dụng báo cáo tài chính
hiểu rõ, chính xác hơn về đơn vị được kiểm toán.
5.3. Mục 3: Hồ sơ kiểm toán: gồm 3 Điều (Điều 49 đến Điều 51)
Nội dung Chương này quy định “kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp
kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam phải lập hồ sơ
kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán” (Khoản 2 Điều 49).
Việc bảo quản, lưu trữ và tiêu hủy hồ sơ kiểm toán đựoc quy định cụ thể ở
Điều 50 và cũng được hướng dẫn thực hiện cụ thể ở Điều 18, 19, 20 trong Nghị định

17/2012/NĐ-CP về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
kiểm toán độc lập.
5.4. Mục 4: Kiếm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán: gồm 1 Điều (Điều 52)
Nhằm nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán bằng việc kiểm soát chất lượng
dịch vụ kiểm toán, nội dung Điều 52 quy định doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh
doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam phải xây dựng và tổ chức thực hiện
hệ thống kiếm soát chất lựong dịch vụ, chịu sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyển
về chất lượng dịch vụ quy định tại Khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Bộ Tài chính thực hiền kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán bằng việc huy
động kiểm toán viên, kiểm toán viên hành nghề và các chuyên gia khác, việc huy
động phải dựa trên nguyên tắc độc lập, khách quan. Nếu cần thiết, Bộ trưởng Bộ tài
chính có thể thành lập hội đồng chuyên môn để tư vấn cho việc xử lí các kiến nghị về
báo cáo kiểm toán và chất lượng kiểm toán.
6. Chương VI: Kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị có lợi ích công chúng:
gồm 6 Điều (Điều 53 đến Điều 58)
Nội dung Chương này quy định đơn vị có lợi ích công chúng; việc chấp thuận
doanh nghiệp kiểm toán; việc công khai thông tin của doanh nghiệp kiểm toán và
kiểm toán viên hành nghề được chấp thuận; báo cáo minh bạch; trách nhiệm của đơn
vị có lợi ích công chúng và về tính độc lập, khách quan.
Trang 15
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
Theo quy định của Luật, đơn vị có lợi ích công chúng là doanh nghiệp, tổ chức
mà tính chất và quy mô hoạt động có liên quan nhiều đến lợi ích của công chúng,
gồm: Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng;
Tổ chức tài chính, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm; Công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức kinh doanh chứng khoán theo
quy định của pháp luật về chứng khoán; Doanh nghiệp, tổ chức khác có liên quan đến
lợi ích của công chúng do tính chất, quy mô hoạt động của đơn vị đó theo quy định
của pháp luật.
Chỉ có các doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước

ngoài tại Việt Nam có đủ điều kiện, tiêu chuẩn nhất định được cơ quan có thẩm
quyền chấp thuận mới được kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng. Bộ Tài chính
quy định tiêu chuẩn, điều kiện lựa chọn, thủ tục xem xét, chấp thuận và các trường
hợp đình chỉ hoặc hủy bỏ tư cách doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp
kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và kiểm toán viên hành nghề được thực hiện kiểm
toán báo cáo tài chính của các đơn vị có lợi ích công chúng, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác.
Để bảo đảm tính minh bạch, Luật quy định việc công khai thông tin về doanh
nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam, kiểm
toán viên hành nghề được chấp thuận kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị có lợi
ích công chúng. Đồng thời, quy định doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh
nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam đủ tiêu chuẩn, điều kiện được chấp thuận
kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị có lợi ích công chúng phải công khai trên
trang thông tin điện tử của mình báo cáo minh bạch hàng năm trong thời hạn chín
mươi ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Để đảm bảo tính trung thực, khách quan của kiểm toán, Luật quy định về tính
độc lập giữa doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán viên hành nghề với đơn vị có lợi ích
công chúng chặt chẽ hơn. Theo đó doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp
kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam không được bố trí kiểm toán viên hành nghề thực
hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong năm năm tài chính liên
tục.
7. Chương VII: Xử lí vi phạm và giải quyết tranh chấp: gồm 3 Điều (Điều 59 đến
Điều 61)
Nội dung Chương này quy định về: các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm
toán độc lập; xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập và giải quyết tranh chấp.
Luật quy định các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập tại Điều 59
và giao Chính phủ quy định chi tiết việc xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập
(Điều 60). Các quy định này là rất cần thiết để ngăn ngừa và có cơ sở xử lý các sai
phạm.
Đối với việc giải quyết các tranh chấp về kiểm toán độc lập (Điều 61) sẽ do

các bên có trách nhiệm tự hòa giải; trường hợp hòa giải không thành các bên tranh
chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật. Thời hiệu khởi kiện
Trang 16
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
yêu cầu giải quyết tranh chấp về kiểm toán độc lập là ba năm, kể từ ngày ký báo cáo
kiểm toán.
Các hành vi vi phạm cũng như chế tài xử lí hành vi vi phạm pháp luật về kiểm
toán độc lập đựoc quy định cụ thể tại Chương III Nghị định số 105/2013/NĐ-CP Quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập ban hành
ngày 16/09/2013 có hiệu lực từ ngày 01/12/2013.
8. Chương VIII: Điều khoản thi hành: gồm 3 Điều (Điều 62 đến Điều 64)
Về điều khoản chuyển tiếp (Điều 62) Luật quy định trong thời hạn hai năm, kể
từ ngày Luật có hiệu lực, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kiểm toán trước ngày Luật
có hiệu lực và bảo đảm các điều kiện theo quy định của Luật này được cấp Giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán. Trong thời hạn ba năm, kể từ
ngày Luật có hiệu lực, người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên trước ngày Luật
có hiệu lực được đăng ký hành nghề kiểm toán theo quy định của Luật mà không cần
bảo đảm điều kiện về thời gian thực tế làm kiểm toán quy định. Doanh nghiệp kiểm
toán trách nhiệm hữu hạn một thành viên có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và
hoạt động theo quy định của pháp luật trước ngày Luật có hiệu lực được phép hoạt
động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đến hết thời hạn của
Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư.
Ngoài ra Điều 22 của Nghị định 17/2012/NĐ-CP quy định “Trước 30 ngày kể
từ ngày hết thời hạn hai năm chuyển tiếp doanh nghiệp kiểm toán phải làm hồ sơ đề
nghị Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán
theo quy định của Luật kiểm toán độc lập và các văn bản hướng dẫn.”
Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012.
Bộ trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện Nghị định này;
các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách

nhiệm thi hành Nghị định này.
PHẦN III: ĐÁNH GIÁ BAO QUÁT VỀ LUẬT KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1. Những ảnh hưởng tích cực của Luật đến hoạt động kiểm toán độc lập:
Việc Luật Kiểm toán độc lập ra đời và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2012 kèm
theo 2 Nghị định (NĐ 17/2012/NĐ-CP, NĐ105/2013/NĐ-CP), 7 Thông tư (TT 129-
2012/TT-BTC, 150-2012/TT-BTC, 202-2012/TT-BTC, 203-2012/TT-BTC, 214-
2012/TT-BTC, 78-2013/TT-BTC và 183-2013/TT-BTC) thì cho đến nay, Chính phủ
đã tạo được hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho phát triển thị trường kiểm toán độc lập,
góp phần nâng cao tính minh bạch thông tin trong nền kinh tế.
Sau khi Luật Kiểm toán độc lập chính thức có hiệu lực, tính đến nay thị trường
kiểm toán độc lập tại Việt Nam cũng đạt được những thành tựu nhất định thông qua
những con số: (Theo báo cáo “Toàn cảnh nghề kiểm toán độc lập hiện nay” của ông
Bùi Văn Mai-CPA, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kiểm toán Việt Nam-ngày 18/07/2014 tại
địa chỉ website: />o=modules&n=forum&f=forum_detail&idforum=829&page=1)
Trang 17
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
+ Số công ty kiểm toán: Năm 2011 vẫn có 152 công ty với số lượng nhân
viên bình quân là 56 người. Năm 2012 tăng lên 155 công ty với số lượng nhân viên
bình quân là 65 người, đặc biệt năm 2013 số lượng công ty giảm mạnh, chỉ còn 134
công ty (giảm 14%) nhưng số lượng nhân viên bình quân là 78 người, tăng lên 20%
so với năm 2012. Tuy số lượng công ty kiểm toán năm 2013 có giảm nhưng số lượng
nhân viên bình quân lại tăng, điều này cho thấy ngành kiểm toán đang tập trung phát
triển dựa trên qui mô và chất lượng công ty, là tín hiệu đáng mừng cho việc nâng cao
chất lượng hoạt động kiểm toán.
+ Số lượng KTV hành nghề: năm 2010 tăng 12% so với năm 2009, năm
2011 tăng 14%, 2012 giảm 5% so với năm trước tương ứng. Tuy nhiên, KTV năm
2013 lại tăng 12% so với năm 2012. Năm 2012 giảm có thể do năm đầu tiên thực
hiện Luật KTĐL điều kiện đăng ký hành nghề đã chặt hơn, hoặc có KTV đủ điều
kiện hành nghề nhưng làm việc trong công ty kiểm toán không đủ điều kiện hành
nghề kiểm toán nên không có trong số liệu báo cáo.

+ Về Doanh thu: Nếu tổng doanh thu toàn ngành KTĐL năm 2010 là
2.744 tỷ, tăng 25% so với năm 2009, năm 2011 tăng 11%, 2012 tăng 23% và năm
2013 tăng 11% so với năm trước tương ứng.
Phạm vi hoạt động cho các công ty kiểm toán cũng được quy định rộng hơn,
tạo đà cho sự phát triển của thị trường này. Ngoài các đối tượng DN có vốn nước
ngoài, DN nhà nước, ngân hàng và các tổ chức tín dụng, công ty cổ phần niêm yết,
công ty cổ phần đại chúng, công ty bảo hiểm, các dự án xây dựng bằng vốn nhà nước
và dự án của tổ chức quốc tế như trước kia, DN, tổ chức mà các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước sở hữu từ 20% cổ phần trở lên phải được kiểm toán đối với BCTC
hàng năm; DN mà các tổ chức niêm yết, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh
chứng khoán nắm giữ từ 20% quyền biểu quyết trở lên và chính DN kiểm toán, chi
nhánh DN kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam cũng phải được kiểm toán đối với
BCTC hàng năm.
Luật cũng chú trọng đến việc tăng cường quản lý nhà nước về kiểm toán. Theo
đó, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính Phủ thực hiện quản lý nhà nước về
kiểm toán độc lập, sẽ trực tiếp xây dựng các văn bản pháp luật về kiểm toán độc lập;
cấp phép thành lập doanh nghiệp, cấp thu hồi chứng chỉ kiểm toán viên, quy định
chuẩn mực kiểm toán; thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm soát chất lượng, thực hiện
đăng ký hành nghề; tổng kết đánh giá tình hình hoạt động, quản lý hợp tác quốc tế,
giải quyết khiếu nại, tố cáo… Hơn nữa, Luật cũng đề cập đến việc chuyển giao một
số chức năng, quản lý cho Hội nghề nghiệp về kế toán – kiểm toán. Đây là hướng đi
phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời là một giải pháp tăng cường tính độc lập và
khách quan của hoạt động kiểm toán độc lập.
Một điểm đáng chú ý nữa là qui định về phương pháp tính phí kiểm toán, theo
ông Bùi Anh Tuấn, Phó Tổng Giám đốc dịch vụ kiểm toán, Ernst&Young Việt Nam
nhận định: “Quy định mới về giá phí sẽ hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh” (nguồn trích: />doc-lap/45/9328054.epi). Cá nhân tôi cho rằng, nhận định này là hoàn toàn chính xác
Trang 18
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
bởi lí do, trong bối cảnh doanh nghiệp có xu hướng lựa chọn các công ty kiểm toán

có mức chào phí thấp hơn do chưa đánh giá hết được vai trò và lợi ích của kiểm toán
độc lập, sức ép về hạ phí kiểm toán có thể khiến các công ty kiểm toán đánh đổi về
chất lượng, điều này có thể dẫn đến các quy trình, thủ tục kiểm toán không được thực
hiện đầy đủ, chất lượng cuộc kiểm toán không được đảm bảo, thì Luật kiểm toán độc
lập đã đưa ra quy định về phương thức tính phí như theo giờ làm việc của kiểm toán
viên hành nghề, kiểm toán viên, hoặc từng dịch vụ kiểm toán với mức phí trọn gói sẽ
hạn chế được tình trạng này
Nghị định số 105/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập ban hành ngày 16/09/2013 có hiệu lực từ ngày
01/12/2013 đã, đang và sẽ tiếp tục nâng cao ý thức chấp hành các chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp cũng như những chuẩn mực chuyên môn của kiểm toán viên. Khi ấy, thị
trường dịch vụ kiểm toán trong tương lai sẽ đi vào quỹ đạo hoạt động ổn định, nền
nếp hơn, đáp ứng với yêu cầu minh bạch thông tin tài chính trong nền kinh tế.
2. Những điểm còn hạn chế:
Luật kiểm toán độc lập được ban hành và có hiệu lực đã mang lại nhiều ảnh
hưởng tích cực đến diện mạo của ngành kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, còn một vài
hạn chế nhỏ trong luật cần phải xem xét thêm:
+ Một số Điều luật còn chưa được quy định chi tiết, cụ thể và phải cần có
Nghị định 17/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành mới thực hiện được.
+ Trong tương lai xa, Luật nên xem xét chấp nhận hình thức hành nghề
kiểm toán cá nhân do nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp nhỏ và vừa,và phù hợp
với thông lệ quốc tế của dịch vụ đảm bảo chịu trách nhiệm vô hạn là chủ yếu, như ở
Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Singapore, Úc
+ Theo báo cáo “Toàn cảnh ngành kiểm toán độc lập hiện nay” của ông
Bùi Văn Mai (nguồn đã nêu ở trên) thì: “Cơ quan Nhà nước có xu hướng tăng cường
quản lý trực tiếp mọi hoạt động kiểm toán độc lập, giảm thiểu các hoạt động đã
chuyển giao cho tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán”. Tôi cho rằng ý kiến này là đúng
vì so sánh vai trò của Hiệp hội kiểm toán viên trước và sau khi Luật ra đời sẽ thấy rõ:
• Năm 2006, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 47/2006/QĐ–
BTC đã chuyển giao cho tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán một số

hoạt động phù hợp với thông lệ quốc tế, như (1) Tổ chức bồi dưỡng
chuyên môn và thực hiện cập nhật kiến thức cho KTV, (2) Quản lý
danh sách kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán, (3) Xét điều
kiện và công khai danh sách KTV và doanh nghiệp kiểm toán đủ
điều kiện hành nghề, (4) Thực hiện kiểm tra chất lượng kiểm toán
và (5) Tham gia tổ chức thi tuyển KTV
Trang 19
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
• Tuy nhiên sau khi có Luật KTĐL, chỉ còn giao duy nhất 1 việc là tổ
chức bồi dưỡng chuyên môn và thực hiện CNKT cho KTV, nhưng
đồng thời cũng cho phép các công ty kiểm toán đủ điều kiện tự
CNKT và các cơ sở đào tạo khác được tổ chức CNKT và tổ chức ôn
thi KTV. Vì thế, thực chất việc này cũng không phải giao cho
VACPA. Hai việc khác chỉ là phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện
như: phối hợp thực hiện KSCL, tham gia tổ chức thi KTV theo từng
việc được giao hàng năm.
+ Theo như báo cáo này cũng nêu rõ: “Các doanh nghiệp kiểm toán Việt,
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã khó khăn, nay có xu hướng càng khó khăn
hơn”. Điều này cũng là hệ lụy tất yếu của việc Luật qui định vốn pháp định 3 tỷ đồng
(đến năm 2015 là 5 tỷ đồng) và phải có 5 KTV hành nghề. Tuy nhiên qui định này
cũng nhằm mục đích duy nhất đó là nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán, vì vậy
các doanh nghiệp kiểm toán vừa và nhỏ phải tự vận động để mở rộng qui mô, đào tạo
hoặc tuyển dụng nhân lực để đáp ứng qui định này.
3. Định hướng trong tương lai
Có thể nói vấn đề mấu chốt để nâng cao chất lượng quản lý hành nghề kiểm
toán là lựa chọn xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, thỏa mãn yêu cầu của kinh tế
thị trường Việt Nam, phù hợp thông lệ và chuẩn mực quốc tế phổ biến, đảm bảo tính
pháp lý và thống nhất cao, bao quát đầy đủ, toàn diện các mặt quản lý lĩnh vực hoạt
động.
Phải nhanh chóng triển khai đưa các văn bản đã ban hành vào cuộc sống. Việc

đổi mới và hoàn thiện văn bản pháp luật là công việc thường xuyên, liên tục. Văn bản
được ban hành không có nghĩa là kết thúc mà phải thực hiện phổ biến, giảng dạy,
hướng dẫn để pháp luật đi vào cuộc sống. Thông qua đó phải rà soát, xem xét các quy
định đã bị cũ, không còn phù hợp với điều kiện hiện tại, điều chỉnh những điểm còn
chưa thống nhất. Qua đó tổng kết những điểm chưa phù hợp với yêu cầu của kinh tế
thị trường và thông lệ quốc tế để bổ sung những văn bản đã có và ban hành thêm các
văn bản mới.
Việc hoàn thiện văn bản pháp luật trước hết là trách nhiệm của cơ quan Nhà
nước, nhưng Hội nghề nghiệp và các đối tượng hành nghề kế toán, kiểm toán cũng
phải tích cực tham gia để lựa chọn mô hình quản lý phù hợp với thực tế và đi vào
cuộc sống.
Nâng cao vai trò của Hội nghề nghiệp về kiểm toán là điều cần thiết nên được
xem xét vì kiểm toán là một nghề nghiệp chuyên sâu và thực hành cần có sự liên kết
giữa cơ quan Nhà nước, các trường Đại học và các tổ chức nghề nghiệp. Để phù hợp
với thông lệ quốc tế, tránh sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động nghề
nghiệp, các cơ quan Nhà nước cần tiếp tục chuyển giao một phần chức năng quản lý
cho hội nghề nghiệp. Cơ quan Nhà nước chỉ đưa ra các chế tài bằng cách ban hành hệ
thống văn bản pháp luật về kiểm toán, còn các vấn đề về chuyên môn, nghiệp vụ cụ
Trang 20
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
thể như soạn thảo chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, quản lý hành nghề, kiểm
soát chất lượng hoạt động các công ty kế toán, kiểm toán… nên chuyển giao cho hội
nghề nghiệp thực hiện.
Trang 21
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
KẾT LUẬN
Luật Kiểm toán độc lập được ban hành và có hiệu lực đã khắc phục được
những hạn chế của Nghị định 105/2004/NĐ-CP, tạo ra một khung pháp lý đầy đủ và
hiệu quả về kiểm toán độc lập, tạo điều kiện mở rộng thị trường kiểm toán, nâng cao
chất lượng dịch vụ kiểm toán và phù hợp với thông lệ quốc tế để đáp ứng yêu cầu của

quá trình hội nhập. Tuy nhiên cũng cần phải thường xuyên đánh giá, xem xét và sửa
đổi nếu cần thiết các quy định của Luật cho phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động
kiểm toán độc lập.
Trang 22
Tìm hiểu Luật kiểm toán độc lập
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
− Luật Kiểm toán độc lập
− Nghị định 105/2004/NĐ-CP
− Nghị định 133/2005/NĐ-CP
− Nghị định 17/2012/NĐ-CP
− Nghị định 105/2013/NĐ-CP
− Đề cương giới thiệu Luật kiểm toán độc lập
− Báo cáo “Toàn cảnh nghề kiểm toán độc lập hiện nay” của ông Bùi Văn
Mai(CPA, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kiểm toán Việt Nam)ngày 18/07/2014 tại địa chỉ
website: />o=modules&n=forum&f=forum_detail&idforum=829&page=1
− Bài báo “Diện mạo mới của ngành kiểm toán độc lập” đăng ngày 14/09/2012
trên trang web: />lap/45/9328054.epi).
Trang 23

×