Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Trần thuật liệt kê – thế mạnh của tổ chức lời trần thuật trong sáng tác nguyễn huy thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.53 KB, 7 trang )

TRẦN THUẬT LIỆT KÊ – THẾ MẠNH CỦA TỔ CHỨC
LỜI TRẦN THUẬT TRONG SÁNG TÁC NGUYỄN HUY THIỆP
Nguyễn Văn Đông
1


Dồn nén thông tin trong lượng từ ngữ có hạn của câu văn ngắn có
cấu trúc câu đơn giản, hạn chế tối đa sự xuất hiện các hư từ, hình dung từ,
phiếm từ, tăng cường tốc độ trần thuật…, lời trần thuật trong sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp thường dung dị, ít miêu tả, bình luận, trữ tình ngoại đề.
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có khả năng thâu nạp tất cả sự phồn
tạp và nóng hổi của cuộc sống nhờ vào lối viết cô đặc thông tin, sự kiện và
khai thác tối đa hiệu quả của liệt kê trong trần thuật. Đó cũng là biểu hiện
của cảm hứng “phơi lộ cuộc sống đích thực, thô mộc, không tô vẽ hoặc che
đậy” của nhà văn.

1. Mở đầu
Nhà phê bình văn học Đông La trong bài Nói về cái “ma lực” trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp có nhận xét: “Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp rất dài nhưng anh lại
không dài dòng, lê thê” [3, tr.139]. Độ dài ở đây không đồng nghĩa với số trang, câu chữ mà
thuộc về dung lượng hiện thực được phản ánh, chiều sâu khám phá hiện thực và tính chất kể
chuyện. Ông viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… nhưng sở trường của ông là truyện ngắn.
Nguyễn Đăng Điệp cho rằng “truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp được viết bằng tư duy tiểu
thuyết” [2] - lối tư duy khám phá bản chất hiện thực thông qua sự tái hiện số phận cá nhân
con người. Truyện ngắn của ông là tiểu thuyết được cô đặc trước hết nhờ lối trần thuật không
dài dòng.
2. Nội dung
2.1. Nguyễn Huy Thiệp quan niệm: “Tiểu thuyết như một nồi lẩu nóng hổi của nghệ
thuật” [5, tr.228]. Truyện ngắn của ông đã thâu nạp tất cả những gì hôi hổi của cuộc sống để
có những dấu vết đặc trưng thể loại và tư duy tiểu thuyết. Đó là “khả năng phản ánh một
cách “toàn vẹn và sinh động” hiện thực đời sống theo hướng tiếp xúc hết sức gần gũi” [4,


tr.189]; “khả năng đi sâu khám phá số phận cá nhân” [4, tr.191]; khả năng “đồng hóa và tái
hiện lại bức tranh đời sống bằng phương thức chọn lọc, tổng hợp và sáng tạo” [4, tr.194] chứ
không lệ thuộc vào nguyên mẫu do đời sống cung cấp. Bởi cuộc sống dù có phong phú bao
nhiêu cũng không thể đưa lại cho tiểu thuyết một nhân vật hoàn chỉnh hoặc một cốt truyện
mà người viết không cần sáng tạo thêm. Cũng vì vậy, “với tiểu thuyết, hư cấu nghệ thuật là
yếu tố bộc lộ rõ rệt phẩm chất sáng tạo dồi dào của nhà văn” [4, tr.194]. Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp còn có tính đa dạng về màu sắc thẩm mỹ - một đặc trưng không thể
không nhắc tới của tiểu thuyết.

1
ThS, trường Đại học Hồng Đức
Nguyễn Huy Thiệp từng thừa nhận: “Tôi đã viết những truyện ngắn Không có vua, Giọt
máu, Những người thợ xẻ, Những ngọn gió Hua Tát với ý thức “tiểu thuyết” [5, tr.239]. Dùng
hình thức truyện ngắn để thể hiện tư duy tiểu thuyết, ông không thể không tính đến mối quan
hệ giữa dung lượng cuộc sống được phản ánh trên cả bề rộng lẫn chiều sâu với dung lượng
câu chữ tác phẩm và không thể không tìm cách khắc phục sự chênh lệch của quan hệ này.
Ông cần tới một lối viết có sức mạnh dồn nén thông tin, gia tăng hàm lượng nghĩa, tăng
cường tốc độ trần thuật… Lời trần thuật trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp vì vậy thường
dung dị, ít xuất hiện miêu tả, bình luận, trữ tình ngoại đề. Nghĩa là ít chấp nhận lời phi sự
kiện. Nếu căn cứ vào hình thức lời văn (lời kể, lời tả, lời cảm, lời bình) trong sáng tác của
một tác giả để định vị tạng nhà văn thì Nguyễn Huy Thiệp được xếp vào tạng nhà văn kể
chuyện. Trần thuật bằng lời kể là lối trần thuật cơ bản trong sáng tác của ông. Nguyễn Huy
Thiệp khác với các nhà văn trước kia: Tô Hoài thiên về hình thức lời tả, Nguyên Hồng thiên
về hình thức lời cảm, Nam Cao thiên về dùng hình thức lời bình.
2.2. Hình thức lời văn là một trong những tác nhân quy định nhịp điệu của mạch trần
thuật và khả năng dung nạp sự kiện. Hình thức lời kể gắn với phép liệt kê thường làm cho
nhịp điệu trần thuật nhanh gấp và dung nạp được nhiều vấn đề, nhiều sự kiện hơn là hình
thức lời miêu tả hay bình luận. Liệt kê theo lối tả thường có độ nén thấp hơn lối kể. Chẳng
hạn, Nguyễn Khải trần thuật về sự hồi sinh trên vùng đất Điện Biên theo dòng ý thức nhân
vật Huân trong Mùa lạc bằng một đoạn văn khá dài với nhiều màu sắc, đường nét, âm thanh,

nỗi niềm… nhưng chỉ bật lên một sự kiện: “Cuộc sống vĩ đại đã trở lại”. Lối trần thuật liệt kê
đan xen lời tả và bình, chuyển hóa từ trần thuật khách quan đến độ song trùng với ý thức
nhân vật là biểu hiện của những cây bút văn chương khó trút bỏ chủ quan cảm tính để cho sự
việc diễn ra như nó vốn có.
Trần thuật liệt kê trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp thường không lặp lại các cây bút
đàn anh đi trước. Ông không hướng đến mục đích giãi bày, phô diễn. Ông cũng không để lộ
mục tiêu phê phán hay ngợi ca, khẳng định hay phủ định. Liệt kê trong trần thuật của ông chỉ
là trình bày. Sau lớp ý nghĩa trình bày là lớp ý nghĩa suy ngẫm. Lớp ý nghĩa thứ hai chìm sâu
nên khó nhận ra. Phủ định hay khẳng định, chấp nhận cái được trần thuật hay không hoàn
toàn phụ thuộc vào thẩm quyền mỗi cá nhân người đọc. Trần thuật theo lối liệt kê trong sáng
tác Nguyễn Huy Thiệp đơn giản chỉ là phép kiệm lời với mục tiêu dùng lời ít nhất mà gói
được lượng thông tin nhiều nhất, để thoát khỏi hoa mỹ hình thức, để đẩy căng nhịp điệu trần
thuật. Vì vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã làm nên một thứ văn “không thừa một chữ, chỉ đủ để
nêu sự vật, sự kiện” [3, tr.42]. Lối trần thuật trong truyện Tướng về hưu là một điển hình.
Đọc Tướng về hưu, trước hết ta nhận ngay ra lối trần thuật liệt kê của kiểu tờ khai lý
lịch. Chẳng có cách trần thuật nào ngắn gọn, đầy đủ thông tin cần thiết như một bản khai:
“Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn (…) tôi ba mươi bảy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở
Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa
mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ”. Các nhân vật khác
cũng được khai ra như vậy. Nhà phê bình văn học Trần Đạo gọi đó là lối hành văn “tạo một
thế giới ngổn ngang sự vật, sự kiện, một thế giới tan rã thành muôn mảnh, một thế giới chỉ có
những hiện tại vụn vặt lơ lửng bên nhau” [3, tr.44]. Lời trần thuật dường như gạt đi tất cả
những gì phi sự kiện bằng cách hạn chế tối đa sự xuất hiện các tính từ, hư từ, hạn chế lời
đánh giá, bình luận. Với sức xoáy lốc của lối trần thuật liệt kê, suy nghĩ, tình cảm và cả hành
động của nhân vật đều như mang tính sự kiện. Nhà văn sẵn sàng bỏ qua việc miêu tả ngoại
hình, nét mặt nhưng các nhân vật vẫn hiện diện với tư cách những mảnh đời nhỏ vụn – mô
hình cá nhân, vẫn đủ sức cuốn hút bởi những nét riêng. Tính chất của lối trần thuật này làm
cho văn ông gần với sử ký, bút ký, tốc ký, ít có những khoảng dành cho hình thức lời miêu tả,
bình luận, đánh giá chen vào.
Trần thuật theo lối liệt kê không còn là hiện tượng cá biệt trong một vài tác phẩm mà là

lối trần thuật phổ biến trong nhiều sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Các truyện Không có
vua, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Vàng lửa, Phẩm tiết, Thương nhớ đồng
quê… đều có lối trần thuật như vậy. Nhân vật chỉ hoạt động, suy nghĩ, nói năng chứ không
được định dạng hóa trong một hình hài nhờ lời văn miêu tả để làm nên cái gọi là ngoại hình.
Chẳng hạn, ở truyện Thương nhớ đồng quê, rất nhiều nhân vật cùng hiện diện chỉ qua một tiết
đoạn trần thuật rất ngắn:
“Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh
Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ. Ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người vẫn
bảo ông là “đồ gàn”, lại bảo ông là “lão dê già”. Ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị
Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn
tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy
tín chẳng còn gì”.
Liệt kê nhân vật theo lối khai lý lịch tạo nên độ nén cho lời trần thuật. Nó là cơ sở để
tác giả tiếp tục liệt kê hành vi ngôn ngữ nhân vật theo công thức: chủ thể lời nói + động từ
nói năng hoặc chủ thể hành động + hành động. Liệt kê đòi hỏi không được phép dài dòng. Vì
sự dài dòng của dẫn dụ không chỉ làm cho nhịp trần thuật bị hãm chậm mà còn làm cho cái
được kê ra lu mờ. Những tính từ, trạng từ xuất hiện trong lời dẫn luôn có khả năng áp đặt tính
chất, trạng thái của đối tượng được trần thuật, được liệt kê ngay sau nó, làm cho cho người
đọc lười biếng, tiếp nhận nhân vật một cách thụ động, không kích thích được tưởng tượng.
2.3. Đọc Nguyễn Huy Thiệp, rất hiếm khi bắt gặp lời miêu tả ngoại hình nhân vật. Có
chăng miêu tả nhân vật cũng chỉ là một vài nét chấm phá sơ sài, không hoa mỹ nhưng rất ấn
tượng, kiểu như: “Tên gã là Tảo. Gã có đôi mắt lờ đờ như mắt cá, một vết sẹo bỏng ở má bên
trái to bằng bàn tay làm mặt của gã biến dạng hẳn đi”; “X. đẹp trai, thông minh, đặc biệt
nhạy cảm với những cái gì đau đớn, tủi cực” (Cún); “Đô Nhiêu bé nhỏ, nhanh nhẹn”; “Đô
Thi to con, hai mắt như mắt lợn luộc”; “Cô Phượng học nước ngoài về, tính vui nhộn. Cô
mặc quần bò, áo phông, áo bỏ trong quần, vai đeo túi, trông giống diễn viên điện ảnh”(Con
gái thủy thần); “Anh chồng đeo kính, ra dáng trí thức, cô vợ thon thả, trắng trẻo, trông rất dễ
mến”; “Chúng tôi gặp ông Thuyết ở đầu ngõ. Tôi rùng mình vì trông thấy khuôn mặt ông ta:
mặt đen mà tái như da ở bìu dái, lông mày rậm, răng vẩu mà vàng như răng chó”; “Quy
trắng hồng, khuôn mặt trông rất dễ ưa” (Những người thợ xẻ); “Ăn cơm trưa xong có thầy

giáo Triệu đến chơi. Anh còn trẻ, chỉ khoảng trên ba mươi tuổi, người gày gò, điệu bộ như kẻ
chán đời” (Những bài học nông thôn)… Điều đáng chú ý là miêu tả ngoại hình nhân vật trong
sáng tác Nguyễn Huy Thiệp chỉ xuất hiện ở những tiết đoạn trần thuật đòi hỏi có một sự đánh
giá nhất định. Vì vậy, lời miêu tả ngoại hình nhân vật chỉ là một nét đối tượng được quan sát
từ một điểm nhìn hết sức chủ quan. Tả thế nào, đẹp hay xấu, dễ ưa hay đáng ghét không xuất
phát từ tình cảm hay thái độ nhà văn. Bởi tất cả trách nhiệm và quyền năng trần thuật đã được
ông trao cho người kể chuyện. Điều này, một số nhà văn hiện thực trước đây như Ngô Tất
Tố, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao… do yêu cầu thời đại, tư duy nghệ thuật và nhu cầu
phủ nhận thực tại đã đồng nhất các điểm nhìn theo cách nhìn của tác giả.
2.4. Lối trần thuật liệt kê trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp cuốn hút người đọc. Bởi
đọc câu trước người ta không đoán biết được câu sau, đọc câu này buộc phải đọc tiếp câu kia
cho đến khi chữ cuối cùng tạm thời khép lại văn bản. Người trần thuật thường không để lộ
đối tượng theo đánh giá chủ quan của mình. Anh ta trần thuật, liệt kê theo “lập trường trung
tính”, không dài dòng, không vòng vo. Điều này cũng tạo nên ấn tượng về kiểu dẫn thoại mà
ta có thể bắt gặp trong rất nhiều tác phẩm của ông với việc tận dụng tối đa hai từ trong nhóm
động từ cảm nghĩ nói năng: bảo, nói; các động từ khác như nghĩ, đáp, trả lời, hỏi, cười, nhăn
nhó, vồn vã… vốn có khả năng dẫn dụ trạng thái đối tượng rất ít xuất hiện. Hình thức lời dẫn
thoại kiểu kê ra câu trao, câu đáp theo một mô hình lời dẫn giống nhau cũng góp phần làm
cho trần thuật thêm “dửng dưng, lạnh lùng”. Lời thoại được kê ra gây áp lực trở lại đối với lời
dẫn thoại. Lời thoại tự nó đã bộc lộ đúng bản chất của đối tượng (vì nó là đối tượng 100%)
thì lời dẫn thoại cũng chẳng cần phải dài dòng. Nếu tước bỏ lời dẫn thoại và gắn tên nhân vật
trước mỗi lời thoại sẽ có được những đoạn thoại trong tác phẩm kịch thực sự. Tính chất kịch
trong truyện Nguyễn Huy Thiệp có duyên do bởi hình thức này.
Về mặt văn bản, trần thuật liệt kê lời thoại cũng tạo độ nén trên trang giấy. Bởi nó liền
mạch, liền dòng với lời thoại, không chia tách với lời thoại bằng dấu hiệu phân cách hai chấm
(:) xuống dòng, gạch đầu dòng (-). Nó là hệ quả của nguyên tắc coi trọng thủ pháp trộn lẫn
lời trần thuật với lời thoại. Nó tạo tính liên tục cho mạch trần thuật cho dù những đối tượng
được liệt kê hay các lời thoại có khi không ăn nhập với nhau. Đương nhiên “Dạng điển hình
nhất và phổ biến nhất của lời nói được miêu tả, có tính khách thể là lời nói trực tiếp của các
nhân vật” [1, tr.197] không vì thế mà nhập với lời trần thuật khiến ta không phân biệt được.

Bởi giữa chúng vẫn “có một khoảng cách về phối cảnh nào đấy” [1, tr.197].
2.5. Lời trần thuật trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp thiên về sự kiện, gần với lời kể
miệng, giản dị và mộc mạc, lạnh lùng, khách quan. Chẳng hạn kể về không khí một đám
cưới: “Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối
tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể
mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn,
chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần áo bò, râu ria rất hãi.
Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân
nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp” (Tướng về hưu). Đoạn trần thuật vẻn vẹn 10 câu nhưng
chứa nhiều sự kiện: thiếu thuốc, thừa cỗ, mượn trang phục, phù rể không ra phù rể, âm nhạc,
lời hát không hợp cảnh. Hoặc một tiết đoạn trần thuật khác cũng rất ngắn nhưng chứa đựng
nhiều biến cố: “Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra
tòa, nó khai vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ,
con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó” (Tướng về hưu). Nhịp trần
thuật nhanh gấp như nhịp sống thời hiện đại sôi động, xô bồ. Câu chữ, lời văn hấp thụ tính
chất của tốc ký còn giọng điệu trần thuật lại hấp thụ tính chất của lời kể miệng (khẩu thuật).
Nếu ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp gắn với một cảm hứng thì đó là cảm hứng phơi lộ cuộc sống
đích thực, thô mộc, không tô vẽ hoặc che đậy. Cảm hứng này tất yếu phải tìm đến một
phương thức biểu hiện phù hợp: trần thuật liệt kê dồn dập với phong cách khẩu thuật. Đoạn
trần thuật dồn dập nhịp hoạt động, nhịp sống bộc trực, tự nhiên, thô phác của con người thôn
quê trong Những bài học nông thôn cũng là một trong rất nhiều minh chứng: “Bố Lâm vác
chài. Tôi cầm nơm. Chị Hiên cầm rổ. Cái Khanh cầm giỏ cua. Tất cả đi ra sông. Mưa như
trút. Cá nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Chị Hiên bảo: “Bố xem kìa, nhiều cá không?” Bố Lâm
lội xuống nước, ngập đến ngang lưng mới quăng chài. Rất nhiều tép. Có những con cá to
bằng bàn tay. Chị Hiên, tôi với cái Khanh gỡ chài. Cá đổ cả lên bãi cát. Bố Lâm liên tục
quăng chài, cứ thế đến chục lần, lần nào cũng được cá, có cả những con cá nheo to bằng bắp
chân người, loại cá này trơn và nhớt vì không có vảy”. Cả đoạn trần thuật không một từ ngữ
nào hoa mỹ. Các thông tin thẳng căng, đơn giản, thật đến trần trụi. Lời văn có so sánh nhưng
thiết thực: “Có những con cá to bằng bàn tay”, “có cả những con cá nheo to bằng bắp chân
người”.

Văn Nguyễn Huy Thiệp gần với đời sống cũng do thiên về khẩu thuật. Những so sánh
có xuất hiện trong trần thuật cũng thường là so sánh theo kiểu lời ăn tiếng nói trong đời sống
thường ngày: tự nhiên, cụ thể, không tô vẽ. Ngay đến cảnh đám tang, cái cảnh vẫn thường có
những hoạt động với nhịp độ chậm rãi cũng được trần thuật liệt kê như để tăng tốc cho kịp
với nhịp sống hiện đại: “Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như
khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang
ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói: “Mát thật, không bận thì cứ ngủ ở đây đến tối”.
Ông Bổng bảo: “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm”. Thế là đi” (Tướng về hưu). Nếu tác giả không
thực sự trao vai kể cho các nhân vật kể chuyện, cứ giữ độc quyền lời trực tiếp của mình thì
khó có cơ hội đưa vào tác phẩm kiểu khẩu thuật thô mộc như vậy. Độc giả khó có thể chê
trách được Nguyễn Huy Thiệp khi văn ông chứa nhiều lời thô mộc. Bởi ông vừa có ý thức
vận dụng lời trần thuật “như một dụng ý kể chuyện dựa trên hình thức kể miệng, quan điểm
dựa trên lời nói miệng và các đặc điểm ngôn ngữ tương ứng (ngữ điệu miệng, cấu tạo cú pháp
của lời nói miệng, vốn từ vựng tương ứng v.v ) ở các truyện giả cổ tích, giả lịch sử vừa trần
thuật dựa trên hình thức lời kể miệng “trước hết là dụng ý dựa trên lời của người khác, rồi từ
đó mới dựa trên lời nói miệng - như một hệ quả” [1, tr.204] ở các truyện có nhân vật kể
chuyện xưng “tôi”. Ông lồng ghép một cách khéo léo cấu tứ của mình vào lời của người kể
chuyện. Vì thế lời nhân vật kể chuyện xưng “tôi” là lời hai giọng, tạo nên tiếng nói đa âm
thực sự hiệu quả. Nó làm cho văn chương đời hơn, giàu tính đối thoại và tác giả có cơ hội
loại bỏ phiếm từ sáo rỗng, hấp thụ kiểu liệt kê thô mộc. Với ý thức ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã
triệt tiêu tối đa tính ước lệ của lời trần thuật để nói trúng phóc bản chất đối tượng mà trần
thuật hướng tới. Đoạn trần thuật sau là một ví dụ tiêu biểu:
“Chị Hiên mời: “Các cụ xơi tự nhiên”. Thằng Tiến đòi: “Cho em làm các cụ với!”. Mẹ
Lâm gạt đi: “Hỗn nào! Chim bằng quả ớt thế thì làm các cụ ra sao?”. Cái Khanh bụm miệng
cười. Tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở dài: “Các cụ toàn chim to…” Mọi người cười lăn, chỉ có bố
Lâm không cười. Khuôn mặt ông sạm đen, vất vả, nhưng không buồn tí nào, bình thản, vô sự.
Thằng Tiến khóc. Chị Hiên dỗ nó: “Nín đi, chị cho Tiến cái càng cua này”. Thằng Tiến lắc
đầu: “Ứ ừ… càng cua bé tí”. Chị Hiên bảo: “Ngày mai chị đi chợ, chị mua cho Tiến bộ tam
cúc nhé!” Mẹ Lâm bảo: “Cờ bạc là bác thằng bần. Đừng mua tam cúc cho nó. Lớn lên nó
ham chơi thì chết! Cứ mua cho nó cái roi!” Thằng Tiến lại khóc: “Mua tam cúc cơ”. Chị Hiên

đưa mắt sang mẹ Lâm, giấu cái nhìn đồng lõa: “Ừ mua tam cúc”. Bà Lâm bảo: “Ngày xưa có
ông Hai Chép lái đò ham đánh tam cúc ăn tiền, đầu tiên mất tiền, rồi mất ruộng, mất đến nhà,
vợ nó cũng bỏ đi nốt. Thế là đến đêm ra thuyền ngồi khóc. Giận đời, lại muốn chuộc tội, ông
Hai Chép lấy dao cắt phăng hai hòn dái của mình vứt xuống sông. Vợ nó cũng chẳng quay
lại”. Mẹ Lâm bảo: “Đàn bà thế là bạc”. Bà Lâm bảo: “Bạc gì! Có hai hòn dái là của quý nhất
thì mất rồi còn đâu?” Chị Hiên cười: “Gớm, chuyện của bà cứ rợn rợn là” (Những bài học
nông thôn).
Nếu không có ý thức vận dụng thế mạnh của khẩu thuật thì văn Nguyễn Huy Thiệp khó
có được lối trần thuật đơn giản, dồn dập và nóng hổi hơi thở cuộc sống như vậy. Và nếu phải
tìm chủ đề để xâu chuỗi các câu trong đoạn trần thuật trên thì quả là việc khó. Bởi lời trần
thuật (kiểu dẫn thoại) không bắt ép được các lời thoại tập trung vào một chủ đề nhất định. Nó
chỉ thực hiện nhiệm vụ kết nối các phát ngôn trong khi các phát ngôn cứ phát ra loạn xạ, vượt
ra khỏi tầm kiểm soát và điều chỉnh của người trần thuật. Anh ta không thể bỏ tiếng nói
người này để chỉ thâu nhận tiếng nói người kia. Anh ta đành phải kê ra tất cả. Đó mới là bản
chất sự thật trọn vẹn, là sự thẳng thắn, công bằng của nhà văn đối với các điểm nhìn khác
nhau.
Sẽ là gượng ép nếu lấy đoạn trần thuật về hiện thực cuộc sống nông thôn với những con
người chân chất, mộc mạc trên đây làm căn cứ để khẳng định văn Nguyễn Huy Thiệp chân
thực hay không, nhưng quả thực, văn ông và lời ăn tiếng nói của nhân dân có điểm giao nhau:
đơn giản, thật thà, cụ thể và sâu sắc. Lối trần thuật như thế thật hiếm trong văn chương bác
học - thứ văn chương ưa dùng ngôn ngữ sách vở, hàn lâm.
3. Kết luận
Tăng cường tốc độ trần thuật, dồn nén thông tin đồng nghĩa với việc loại bỏ những từ
ngữ không có khả năng chuyển tải sự kiện ra khỏi lời văn. Trần thuật trong sáng tác Nguyễn
Huy Thiệp có thiên hướng đơn giản hóa theo lối trần thuật dân gian, ít chấp nhận lời phi sự
kiện. Vì vậy, lời trần thuật tất yếu đòi hỏi cấu trúc các câu văn đơn giản, từ ngữ chân thực,
hình thức lời thuật mang tính liệt kê, gia tăng tốc độ và sức nén./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, Nxb Giáo dục, H., 1998.

2. Nguyễn Đăng Điệp, Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, (Tạp chí Sông Hương).
nguồn: />chiu-vn
3. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb Văn hóa
Thông tin, H., 2001.
4. Nhiều tác giả, Lý luận văn học (tái bản lần thứ bảy), Nxb Giáo dục, H., 2001.
5. Nguyễn Huy Thiệp, Giăng lưới bắt chim (tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu),
Nxb Hội Nhà văn, H., 2003.
6. Nguyễn Huy Thiệp, Truyện ngắn (tái bản), Nxb Hội Nhà văn, H., 2004.

LISTING NARRATION - THE STRENGTH OF THE ORGANIZATION OF
NARRATIVE WORDS IN NGUYEN HUY THIEP’S WORKS
Nguyen Van Đong

Abstract
Repressing information in limited words of simple short structure sentence, minimizing
the appearance of expletive, adjective, indefinite, strengthening the narrative speed, the
narrative words in Nguyen Huy Thiep’s works are usually simple with little description,
comment, lyricalness beyond the subject. Short story by Nguyen Huy Thiep is capable of
capturing all the complexity and steaming hotness of life thanks to his way of writing which
condenses information, events and maximizes the effectiveness of the listing in the
narration. It is also a manifestation of the inspiration which exposes a real, rudimental,
unpainted or uncovered life of the writer.

×