Lun văn: Phát triển làng nghề mộc thôn Thủ Độ - xã An Tường,
huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
2
222
2
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
3
333
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCN : Cụm công nghiệp
CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
CSSX : Cơ sở sản xuất.
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
NN : Nông nghiệp
HĐH : Hiện đại hóa
HTX : Hợp tác xã
GTSX : Giá trị sản xuất
UBND : Ủy ban nhân dân
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
4
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phát triển công nghiệp nông thôn là một nhiệm vụ trọng tâm trong quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam. Có hai
phương thức cơ bản để thực hiện chủ trương này: một là xây dựng các CCN,
KCN tại nông thôn; hai là phát triển các làng nghề và ngành nghề ở nông
thôn. Phát triển các làng nghề và ngành nghề nông thôn nhằm tạo việc làm,
tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, góp phần thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cũng là thực hiện mục tiêu “ly nông
bất ly hương” đang diễn ra mạnh mẽ tại các vùng nông thôn nước ta.
Thôn Thủ Độ, xã An Tường, huyện Vĩnh Tường Vĩnh Phúc là một thôn
làng “ngoài đê” điển hình của đồng bằng Bắc Bộ. Đất đai không phù hợp cho
việc phát triển cây lúa, hoạt động nông nghiệp chủ yếu là canh tác các loại
hoa màu, công nghiệp và dịch vụ còn nhiều hạn chế. Những năm gần đây,
trong bối cảnh đất nước mở cửa và xu thế CNH, HĐH mạnh mẽ, nền kinh tế
thị trường phát triển,Thủ Độ từ một làng nghề truyền thống nhỏ bé đang dần
chuyển mình cơ giới hóa, hiện đại hóa sản xuất, hòa mình vào nền kinh tế thị
trường, nghề mộc trở thành động lực chính cho sự phát triển kinh tế xã hội
của thôn. Sự biến chuyển này đã tạo ra những thay đổi rõ rệt trong hoạt động
kinh tế, cơ cấu lao động, mức sống và nhiều khía cạnh khác xã hội của thôn
Thủ Độ xã An Tường – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc.
Vì lý do trên tác giả chọn đề tài “Phát triển làng nghề mộc thôn Thủ Độ -
xã An Tường, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc” nhằm tiệp cận các cơ sở lý
luận về làng nghề đồng thời tìm hiểu sự hình thành và phát triển làng nghề mộc tại
thôn, mặt khác đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề trong những năm
tiếp theo nhằm mang lại hiệu quả cao nhất về kinh tế, môi trường và xã hội.
5
5
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Các nghiên cứu về làng nghề ở nông thôn đã được tiến hành khá sớm.
Có thể tìm thấy những nội dung mô tả và phân tích sự hình thành và phát
triển làng nghề trong các sử liệu từ cách đây hàng trăm năm như: “Dư địa
chí” của Nguyễn Trãi thế kỷ XV, “Hoàng Việt Dư địa chí” của Phan Huy Chú
đầu thế kỷ XIX, bộ “Đại Nam nhất thống chí” được biên soạn dưới thời vua
Tự Đức nửa cuối thế kỷ XIX (dẫn theo [2])
Hiện nay các công trình nghiên cứu về làng nghề được tiến hành trên
nhiều phương diện và khía cạnh.
Trên phương diện nghiên cứu tổng quát các khía cạnh văn hóa – kinh tế
- xã hội môi trường của làng nghề trên phạm vi cả nước có thể kể đến công
trình tiêu biểu như: “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” – Bùi Văn
Vượng (NXB Văn hóa dân tộc, 1998), tác phẩm viết về các loại hình làng
nghề của nước ta như: Đúc đồng, kim hoàn, chạm khắc…Đồng thời tác giả
cũng giới thiệu về lịch sử, kinh tế, văn hóa, các bí kíp làng nghề, kỹ thuật các
nghệ nhân các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam; “Bảo tồn và phát
triển các làng nghề trong quá trình công nghệp hóa” của Dương Bá
Phượng”[14], đưa ra các quan niệm về làng nghề với các chỉ tiêu về số hộ làm
nghề, thu nhập về từ làm nghề và các giải pháp bảo tồn làng nghề trong quá
trình CNH.
Có nhiều cuộc điều tra nghiên cứu về làng nghề được tiến hành bởi các
tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước trong đó có thể kể tới: “Số liệu điều
tra về thực trạng phát triển các làng nghề truyền thống” của Bộ Lao động –
Thương binh – Xã hội công bố năm 1995; kỷ yếu “Hội thảo Quốc tế về bảo
vệ, phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam” do Bộ Công Nghiệp tổ
chức vào tháng 6/1996; kỷ yếu “Hội thảo bảo tồn và phát triển làng nghề”
do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức tháng 11/ 2006…Đáng
chú ý có công trình “ Khám phá các làng nghề - Mười lộ trình quanh Hà
6
6
Nội” do nhà địa lý Sylvie Fanchette (IRD) tiến hành nghiên cứu và biên soạn
[16], trong công trình này tác giả đã đưa ra những kết quả nghiên cứu rất sâu
sát và khách quan về sự hình thành, sản phẩm tiêu biểu, quá trình thích nghi
với sự biến động lịch sử, kinh tế - xã hội của các làng nghề quanh Hà Nội
trong mối quan hệ về lãnh thổ, kinh tế, văn hóa với nhiều thành tố khác
Trong phạm vi lãnh thổ cấp tỉnh, thành phố có những đề tài nghiên cứu
về làng nghề như : “Phát triển làng nghề ở tỉnh Thanh Hóa” (Đỗ Thị Hồng
Thắm luận văn Thạc sĩ khoa học địa lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
năm 2009); “Thực trạng phát triển và những tác động kinh tế, xã hội, môi
trường của các làng nghề ở Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh” (Trần Văn Thanh, Luận
văn thạc sĩ khoa học Địa lý, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, năm 2010);
“Phát triển làng nghề ở Bắc Ninh theo hướng CNH nông thôn” (Lê Văn
Hương, Luận án tiến sĩ khoa học Địa lý, Trường Đại học Sư Phạm Thái
Nguyên năm 2010), “Nghiên cứu việc phát triển làng nghề tỉnh Quảng
Ngãi” (Viện nghiên cứu KT – XH Đà nẵng, năm 2011);“Phát triển làng nghề
bền vững ở Bắc Ninh” (Nguyễn Thị Mai Hương, Luận văn thạc sĩ kinh tế
chính trị, Trường Đại học kinh tế, năm 2011),…
Trên phương diện thị trường của làng nghề, điển hình có đề tài nghiên
cứu cấp Bộ “Phát triển thị trường cho làng nghề TTCN trong giai đoạn hiện
nay” của PGS. TS Trần Văn Chử và tập thể tác giả Viện kinh tế phát triển
(Học viện chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004, 2005) đi sâu
làm rõ vấn đề thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề Vùng
Đồng bằng Sông Hồng hiện nay và giải pháp khắc phục.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có một số nghiên cứu về làng nghề được
tiến hành, chủ yếu là các bài viết đánh giá tổng quan về các làng nghề Vĩnh
Phúc được thực hiện bởi Sở Công thương, Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Vĩnh
Phúc, ngoài ra còn có một số văn bản quy hoạch phát triển làng nghề do các
ủy ban nhân dân huyện ban hành. Về khía cạnh môi trường của làng nghề có
7
7
Luận văn thạc sĩ Khoa học Địa lý “Nghiên cứu chất lượng môi trường không
khí và nước tại một số làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc” của Nguyễn Thị Thanh năm
2008. Hiện tại chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về sự hình thành và phát
triển của một làng nghề đặc trưng trên địa bàn tỉnh.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, mục đích của đề tài chủ yếu nhằm vào
việc đánh giá các điều kiện hình thành và phân tích hiện trạng phát triển làng
nghề mộc ở thôn Thủ Độ , xã An Tường, huyện An Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
trong những năm gần đây, từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề
nhằm đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, môi trường.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích trên đề tài thực hiện những nhiệm vụ chính sau:
- Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề.
- Đánh giá các điều kiện hình thành làng nghề mộc Thủ Độ.
- Phân tích hiện trạng phát triển làng nghề mộc Thủ Độ và những tác động của
hoạt động làng nghề mộc đến sự phát triển kinh tế xã hội của thôn.
Đề xuất một số giải pháp cho sự phát triển làng nghề mộc Thủ Độ
4. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về phương diện lãnh thổ: Đề tài được nghiên cứu tập trung trên phạm vi
lãnh thổ xác định là thôn Thủ Độ, trong đó đi sâu vào một số loại hộ điển
hình.
- Về nội dung: Đề tài đi vào tìm hiểu các điều kiện phát triển làng nghề mộc ở
địa bàn nghiên cứu, sự hình thành và phát triển của làng nghề trong đó trọng
tâm là giai đoạn 2000 – 2014, đánh giá những đóng góp của hoạt động làng
nghề, đề xuất một số giải pháp cho sự phát triển làng nghề mộc trong giai
đoạn sắp tới
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu sự hình thành và phát triển làng nghề trong
giai đoạn sau năm 1986 đến năm 2014, trong đó tập trung vào giai đoạn từ
8
8
2000 – 2014.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Đúc kết những vấn đề lý luận và thực tiễn về làng nghề.
- Đánh giá các điều kiện để hình thành và phát triển làng nghề mộc ở địa bàn
nghiên cứu.
- Phân tích quá trình hình thành, hiện trạng phát triển và những đóng góp
của hoạt động làng nghề mộc đối với sự phát triển kinh tế xã hội của thôn
Thủ Độ.
- Chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển làng nghề, qua đó
đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề ở thôn Thủ Độ.
6. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Các quan điểm nghiên cứu
6.1.1. Quan điểm tổng hợp
Làng nghề là một tổng thể tự nhiên, kinh tế , văn hóa- xã hội được hình
thành bởi các nhân tố về tự nhiên, văn hóa, lịch sử, con người…các nhân tố
đó luôn có mối quan hệ tương tác với nhau tạo thành một thể thống nhất và
hoàn chỉnh, vì thế khi nghiên cứu về làng nghề cần xem xét nó trong mối
quan hệ chặt chẽ giữa điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, lịch sử phát triển và
bối cảnh của cả nước.
6.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một không gian nhất định vì vậy
cần phải gắn đối tượng nghiên cứu với không gian xung quanh nơi nó tồn tại.
Bởi vậy , khi nghiên cứu về làng nghề mộc thôn Thủ Độ - xã An Tường –
huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc cần đặt trong tổ chức lãnh thổ KT – XH
của xã, huyện , tỉnh mới có thể phân tích rõ được nhưng điều kiện , nhân tố
hình thành nên làng nghề và định hướng phát triển của nó trong tương lai.
6.1.3. Quan điểm sinh thái
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là nhân tố quan trọng có tác
động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế.Đồng thời các hoạt động kinh tế cũng
tác động không nhỏ đến môi trường xung quanh.Hoạt động của làng nghề
không thể tách rời khỏi ảnh hưởng của môi trường tự nhiên. Nên khi nghiên
9
9
cứu về làng nghề phải chú ý đến mối tác động qua lại này nhằm đạt hiệu quả
cao về kinh tế, đồng thời khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
6.1.4. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Mọi sự vật và hiện tượng đều không ngừng vận động và biến đổi theo
thời gian. Cần vận dụng quan điểm này vào việc nghiên cứu làng nghề để
thấy được quá trình hình thành và phát triển làng nghề theo từng giai đoạn. Từ
đó đánh giá được khả năng phát triển của làng nghề đồng thời đề ra các giải
pháp thúc đẩy sự phát triển làng nghề trong tương lai.
6.1.5. Quan điểm phát triển bền vững
Trong quá trình tồn tại và phát triển làng nghề phải duy trì được những
điều kiện về tự nhiên, đáp ứng được nhu cầu về thị trường, cho hiệu quả toàn
diện về kinh tế, lợi ích cộng đồng và môi trường lâu dài . Đó chính là sự phát
triển bền vững.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp thu thập thông tin, tài liệu
Làng nghề là đối tương được nghiên cứu từ khá sớm trên nhiều khía
cạnh, bởi nhiều tác giả khác nhau. Việc thu thập tài liệu cho phép tiếp cận
làng nghề từ những kết quả nghiên cứu đã có cập nhật vấn đề mới ở trong
nước và ngoài nước. Để có được những thông tin, tư liệu cần thiết về lý luận
tôi đã thu thập thông tin từ các nguồn như thư viện quốc gia, thư việnTrường
Đại học sư phạm Hà Nội, Sở công thương tỉnh Vĩnh Phúc,…
6.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát trực tiếp bằng bảng hỏi
Đây là một trong những phương pháp quan trọng nhất được sử dụng
trong quá trình nghiên cứu. Do phạm vi nghiên cứu đề tài được thực hiện tập
trung vào đối tượng làng nghề mới ở cấp hành chính thôn nên các nguồn số
liệu thứ cấp rất hạn chế. Muốn có được những phân tích cụ thể về quá trình
hình thành và phát triển làng nghề phải thông qua điều tra, khảo sát trực tiếp
bằng các bảng hỏi cho các đối tượng là chủ các cơ sở sản xuất và người lao
động tại các cơ sở sản xuất kinh doanh và các hộ dân trong làng
10
10
Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng bảng hỏi soạn sẵn, trực tiếp điều tra
trên 135 cơ sở sản xuất phân tầng theo quy mô sản xuất, hình thức kinh doanh
và 650 lao động tham gia làm nghề tại thôn, đồng thời kết hợp với việc phỏng
vấn sâu một số chủ hộ và chủ doanh nghiệp sản xuất nghề điển hình. Số liệu
thống kê từ bảng hỏi qua xử lý có ý nghĩa quan trọng với việc đưa ra các kết
luận nghiên cứu.
6.2.3. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Dựa vào các thông tin, tư liệu, số liệu thứ cấp và sơ cấp đã thu thập, tôi
đã phân loại và xử lý để có được cái nhìn tổng quát và cụ thể xuất phát từ
những mục tiêu nghiên cứu về làng nghề. Đồng thời đưa vào bài viết của
mình với nhiều hình thức, chức năng khác nhau nhằm minh chứng dẫn chứng
hoặc giả thiết rồi phân tích theo yêu cầu cụ thể.
6.2.4. Phương pháp thực địa
Trong học tập và nghiên cứu địa lý thực địa là phương pháp đem lại hiệu
quả cao. Để đảm bảo tính thực tiễn của đề tài cần trực tiếp quan sát, ghi chép,
điều tra thực tế hoạt động sản xuất tại các hộ gia đình, các xưởng và các
doanh nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
6.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Đề tài đã sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu, tạo ra
các bảng số liệu, biểu đồ nhằm so sánh, phân tích, chứng minh và đánh giá
các vấn đề đưa ra.
6.2.6. Phương pháp dự báo
Hoạt động của làng nghề tồn tại và phát triển trong mối tương quan của
nhiều yếu tố: tự nhiên, kinh tế xã hội và môi trường,cũng như bối cảnh phát
triển kinh tế chung của xã, huyện tỉnh và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Do đó, phải đòi hỏi tầm nhìn có chiến lược và những dự báo sự
11
11
biến động nhằm đảm bảo định hướng phát triển phù hợp với các điều kiện
sẵn có và xu thế phát triển kinh tế chung của vùng và đất nước.
6.2.7. Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, song song với việc sử dụng các
phương pháp thống kê toán học thông thường, phần mềm Excel…đóng vai
trò quan trọng trong việc xử lý và phân tích các số liệu sơ cấp cũng như thứ
cấp nhằm đi đến được các mục tiêu nghiên cứu như mục đích ban đầu đề ra.
7. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội
dung của đề tài gồm có ba chương được kết cấu như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề
Chương II: Điều kiện hình thành và thực trạng phát triển làng nghề mộc
thôn Thủ Độ
Chương III: Một số vấn đề tồn tại và giải pháp phát triển làng nghề mộc
thôn Thủ Độ.
12
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I :CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ
1.1. Cơ sở lý lun về làng nghề
1.1.1. Một số quan niệm về làng nghề và phân loại làng nghề
1.1.1.1. Quan niệm về làng nghề
Thôn, làng là một thuật ngữ dùng để chỉ một đơn vị hành chính ở nông
thôn bao hàm là một tập hợp cộng đồng dân cư trên một vùng lãnh thổ xác
định, có khả năng độc lập về kinh tế. Làng là một tế bào của xã hội của người
Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một không
gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại cùng sinh
sống và sản xuất. Trong quá trình đô thị hóa, khái niệm làng được hiểu một
cách tương đối. Một số địa phương hiện nay không còn được gọi là làng mà
thay vào đó là những tên gọi khác như phố, khối phố. Tuy nhiên, Việc thay
đổi tên gọi không làm biến đổi bản chất chủ yếu của cộng đồng dân cư đó.
Các làng ở nước ta được chia làm 4 loại chính:
- Làng thuần nông hay còn gọi là làng nông nghiệp, là những làng nghề
nông một cách thuần túy.
- Làng buôn bán, là làng làm nghề nông có thêm nghề buôn bán của một
số thương nhân chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp.
- Làng nghề, là làng làm nghề nông nghiệp nhưng có thêm một số nghề
thủ công.
- Làng chài, là làng của các cư dân làm nghề chài lưới, đánh cá sống ở
ven sông, ven biển.
Theo Thông tư 116/2006/TT- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản,
làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã,
thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc
nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
Theo Dương Bá phượng, làng nghề là làng ở nông thôn, có một hoặc một
13
13
số nghề thủ công tách hẳn ra khỏi sản xuất nông nghiệp và kinh doanh độc
lập[14]. Bách khoa toàn thư Việt Nam thì khái quát: Làng nghề là những làng
sống bằng hoặc chủ yếu bằng nghề thủ công ở nông thôn Việt Nam.
Thực tế cho thấy “Làng nghề” là một không gian vùng quê nông thôn, ở
đó có những hộ thuộc một số dòng họ nhất định sinh sống. Ngoài sản xuất
nông nghiệp, họ còn có một số nghề sản xuất phi nông nghiệp. Sự xuất hiện
của các nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là ngành nghề phụ, chủ yếu
được nông dân tiến hành trong lúc nông nhàn. Về sau, do quá trình phân công
lao động, các ngành nghề thủ công tách dần khỏi nông nghiệp nhưng lại phục
vụ trực tiếp cho nông nghiệp, khi đó người thợ thủ công có thể không còn sản
xuất nông nghiệp nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê mình. Khi nghề thủ
công phát triển, số người chuyên làm nghề thủ công và sống được bằng nghề
này tăng lên, những nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và
thu nhập so với nghề nông, đây là cơ sở cho sự tồn tại của các làng nghề ở
nông thôn.Trong các làng nghề này tồn tại đan xen nhiều mối quan hệ kinh tế,
xã hội phong phú và phức tạp.
Như vậy khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung chính sau:
“Làng nghề là một thiết chế KT-XH ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu
tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lí nhất định trong đó bao
gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối
liên kết chặt chẽ về kinh tế - xã hội và văn hóa”.
Ngày nay, làng nghề được hiểu theo nghĩa rộng, không bó hẹp trong
phạm vi hành chính của một làng mà gồm một hoặc một số làng cùng một
tiểu vùng, cùng địa lí kinh tế, cùng sản xuất một chủng loại hàng hóa truyền
thống hoặc cùng kinh doanh liên quan đến một nghề phi nông nghiệp và có
quan hệ mật thiết với nhau về KT-XH.
Mặt khác, có những địa phương tất cả các làng trong xã đều là làng nghề,
14
14
trong trường hợp này, người ta gọi là “ Xã nghề”. Ngành nghề phi nông
nghiệp ở các làng nghề cũng được mở rộng, bao gồm các hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các dịch vụ phục vụ
sản xuất và đời sống có quy mô vừa và nhỏ, với các thành phần kinh tế và các
tổ chức kinh doanh như: hộ sản xuất, tổ hợp, hợp tác xã, doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
1.1.1.2. Phân loại làng nghề
Việc phân loại làng nghề gặp nhiều khó khăn bởi tính đa dạng về quy
mô, lĩnh vực và lịch sử hình thành; Tùy theo các tiêu chí khác nhau sẽ có cách
phân loại làng nghề khác nhau.
a. Theo lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề:
- Làng nghề truyền thống: Xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử từ hàng trăm
năm hoặc lâu hơn nữa và tồn tại cho đến hiện nay.
- Làng nghề mới: làng nghề xuất hiện do sự phát triển, lan toản của các
làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, là kết quả của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
b. Theo số lượng nghề.
- Làng 1 nghề: Ngoài nghề nông chỉ có thêm một nghề phi nông nghiệp
xuất hiện, tồn tại và chiếm ưu thế tuyệt đối
- Làng nhiều nghề: Làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỉ trọng
chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Loại làng nhiều nghề gần đây mới
xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.
c. Theo phương thức sản xuất và loại hình sản phẩm.
- Làng nghề thủ công: Làm ra các mặt hàng sử dụng thường nhật như mây
tre đan, dao, kéo, chiếu…sản xuất thủ công bằng tay và các công cụ đơn giản.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ như: Sản xuất các mặt hàng có giá trị văn
hóa, trang trí như đồ khảm, chạm khắc, các đồ mỹ nghệ như thêu ren, dệt
thảm, dát vàng bạc…
- Làng nghề công nghiệp tiêu dùng: Sản xuất các mặt hàng bán thành
15
15
phẩm như mặt hàng sản xuất giấy, dệt, may mặc, gốm sứ, tái chế nhựa, kim
loại, thuộc da…
- Làng nghề chế biến LT – TP: Chế biến các loại nông sản như xay xát,
sản xuất bún, bánh cuốn, miến dong, mì gạo, nấu rượu,…
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng: Sản xuất vật liệu xây dựng như
gạch, ngói, vôi, cát…
- Làng nghề buôn bán dịch vụ: Chuyên bán buôn, bán lẻ, cung cấp các
dịch vụ liên quan.
d. Theo quy mô làng nghề:
- Làng nghề quy mô lớn, lan tỏa, liên kết nhiều làng làm cùng một nghề
hoặc cùng một không gian địa lí lãnh thổ, tạo thành vùng nghề hoặc xã nghề ở
đó các làng nghề, có quy mô lao động phi nông nghiệp rất lớn, không chỉ với
lực lượng lao động tại chỗ mà còn thu hút nhiều lao động đến làm thuê;
- Làng nghề quy mô nhỏ, là trong phạm vi một làng theo địa giới hành
chính. Ở các làng nghề này thường hoạt động kinh doanh một ngành nghề phi
nông nghiệp, được truyền nghề theo phạm vi dòng tộc
e) Theo tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề:
- Các làng nghề vừa sản xuất nông nghiệp vừa kinh doanh các ngành
nghề phi nông nghiệp;
- Các làng nghề thủ công chuyên nghiệp;
- Các làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu.
1.1.1.3. Các tiêu chí xác định làng nghề
Hai tiêu chí cơ bản phản ánh quy mô hoạt động ngành nghề phi nông
nghiệp là giá trị sản xuất và lao động làm nghề. Ngành nghề phi nông nghiệp
gắn liền với làng nên phải tính tỉ lệ lao động hay số hộ và thu nhập từ làm
nghề trong tổng số lao động (hay tổng số hộ) và trong tổng thu nhập của làng.
16
16
Đối với loại ngành nghề khác nhau thì tỷ lệ lao động làm nghề cũng
khác nhau, song với làng nghề truyền thống, theo điều tra của Bộ lao động –
Thương binh – Xã hội, tỷ lệ này thấp nhất là 30 – 35%. Theo bộ NN và Phát
triển nông thôn, tỷ lệ này phải chiếm 30% trở lên. Theo TS Dương Bá
Phượng hộ lao động làm nghề cần đạt tỷ lệ 30 – 40% mới được coi là làng
nghề.[14]
Về thu nhập từ làm nghề, hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng thu nhập
từ ngành nghề phi nông nghiệp cần phải chiếm ít nhất 50% tổng thu nhập của
làng mới đạt tiêu chuẩn làng nghề.
Làng nghề được công nhận (theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phải đạt 03 tiêu chí sau:
(1) Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn;
(2) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận;
(3) Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.1.2. Vai trò của làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn
1.1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Trong quá trình phát triển, các làng nghề đã có vai trò tích cực góp phần
tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, chuyển lao động
từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp
có thu nhập cao hơn. Khi nghề thủ công hình thành và phát triển thì kinh tế
nông thôn không chỉ có kinh tế nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các
ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại và phát triển.
Xét trên góc độ phân công lao động thì các làng nghề đã có tác động
tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất cho
khu vực nông nghiệp, sử dụng nguyên liệu từ sản xuất nông nghiệp mà còn có
tác dụng chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp.
17
17
Ban đầu khi mới hình thành nhiều nghề thủ công chỉ là công việc tăng thu
nhập cho thời kỳ nông nhàn nhưng trước những biến đổi của nền kinh tế đặc biệt
là nhân tố thị trường, nhiều nghề thủ công trở thành nguồn thu chính cho các gia
đình thay vì nghề nông. Chính sức hút từ mức thu nhập đã tạo ra sự chuyển đổi
cơ cấu nghề nghiệp nhanh chóng.
Làng nghề phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn
mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, thu hút nhiều lao động, khác với sản
xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục, đòi
hỏi một sự thường xuyên cung ứng dịch vụ vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Do
đó dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa dạng phong
phú, đem lại thu nhập cao cho người lao động.
Sự phát triển của làng nghề có tác dụng rõ rệt với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự nghiệp CNH- HĐH. Sự phát
triển lan tỏa của làng nghề đã mở rộng qui mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều
lao động. Đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề đạt 60 - 80% cho công
nghiệp và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp.
1.1.2.2. Đa dạng hóa kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hóa
Các nghề thủ công truyền thống đã phá vỡ thế độc canh trong các làng
thuần nông, mở ra hướng phát triển mới với nhiều nghề trong một làng
nông nghiệp. Đồng thời cùng với sản xuất nông nghiệp, làng nghề đã đem
lại hiệu quả cao trong việc sử dụng hợp lý các nguồn lực ở nông thôn như
đất đai, vốn, lao động, nguyên vật liệu, công nghệ, thị trường. Vì vậy, một
nền kinh tế hàng hóa với sự đa dạng của các loại sản phẩm được hình thành
và phát triển, trong mối quan hệ với các ngành nghề khác, làng nghề đóng
góp vai trò động lực.
Ở những vùng có nhiều ngành nghề phát triển thường hình thành trung tâm
giao lưu buôn bán, dịch vụ và trao đổi hàng hoá. Những trung tâm này ngày
càng được mở rộng và phát triển làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Hơn
18
18
nữa, nguồn tích lũy của người dân trong làng nghề cao hơn, có điều kiện để đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, nhà ở, và mua sắm các tiện nghi sinh
hoạt. Dần dần ở đây hình thành một cụm dân cư với lối sống đô thị ngày một rõ
nét, nông thôn đổi thay và từng bước được đô thị hóa qua việc hình thành các thị
trấn, thị tứ. Vì vậy dễ nhận thấy rằng ở một làng nghề phát triển thì ở đó hình
thành một phố chợ sầm uất của các nhà buôn bán, dịch vụ. Xu hướng đô thị hóa
nông thôn là xu hướng tất yếu, nó thể hiện trình độ phát triển về KT-XH ở nông
thôn, là yêu cầu khách quan trong phát triển làng nghề
1.1.2.3. Giải quyết vấn đề việc làm, tăng thu nhập cho người dân
Nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa
phương mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác.
Hơn nữa, sự phát triển của các làng nghề đã phát triển và hình thành nhiều
nghề khác; nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất hiện, tạo thêm nhiều việc làm
mới, thu hút nhiều lao động. Mặt khác, việc phát triển các ngành nghề tại các
làng nghề ở nông thôn sẽ tận dụng tốt thời gian lao động, khắc phục được tính
thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phân bổ hợp lí lực lượng lao động
nông thôn. Vai trò tạo việc làm của các làng nghề còn thể hiện rất rõ ở sự phát
triển lan tỏa sang các làng khác, vùng khác, đã giải quyết việc làm cho nhiều lao
động, tạo ra động lực cho sự phát triển KT-XH ở vùng đó.
Đặc biệt, việc mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm truyền thống có ý
nghĩa rất quan trọng. Trên phương diện kinh tế, xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ truyền thống đã đem lại kim ngạch xuất khẩu hàng trăm triệu USD mỗi
năm. Trên phương diện xã hội, xuất khẩu hàng thủ công truyền thống là nhân
tố quan trọng để kích thích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng
triệu lao động thủ công chuyên nghiệp và nhàn rỗi. Qua tổng kết thực tiễn, đã
tính toán được rằng cứ xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ
thì tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 - 4000 lao động.
Như vậy, vai trò của làng nghề rất quan trọng, được coi là động lực trực
tiếp giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời góp phần làm tăng thu
19
19
nhập cho người lao động. Ở nơi có làng nghề phát triển thì ở đó có thu nhập
và mức sống cao hơn so với vùng thuần nông.
1.1.2.4. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển du lịch
Lịch sử phát triển của làng nghề truyền thống gắn liền với lịch sử phát
triển văn hóa của dân tộc, nó là nhân tố góp phần tạo nên nền văn hóa ấy;
đồng thời là sự biểu hiện tập trung nhất bản sắc của dân tộc.
Sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống là sự kết tinh của lao
động vật chất và lao động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc
sáng tạo của người thợ thủ công. Các sản phẩm của các làng nghề chứa đựng
những phong tục, tập quán, tín ngưỡng mang sắc thái riêng có của dân tộc Việt
Nam, nhiều sản phẩm làng nghề có giá trị, có tính nghệ thuật cao, trong đó hàm
chứa những nét đặc sắc của văn hóa dân tộc, những sắc thái riêng, đặc tính riêng
của mỗi làng nghề và được coi là biểu tượng nghệ thuật truyền thống của dân tộc
đồng thời có giá trị minh chứng sự thịnh vượng của quốc gia, cũng như thể hiện
những thành tựu, phát minh mà con người đạt được.
Nghề truyền thống, đặc biệt là nghề thủ công mỹ nghệ là những di sản
văn hóa quý báu mà các thế hệ cha ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các
thể hệ sau. Cho đến nay, nhiều sản phẩm làng nghề là hàng thủ công mỹ nghệ
tinh xảo, độc đáo, đạt trình độ bậc cao về mỹ thuật còn được lưu giữ, trình
bày tại nhiều viện bảo tàng nước ngoài.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển làng nghề
1.1.3.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý là nhân tố đóng góp vào sự hình thành của nhiều làng nghề ở
nước ta. Các làng gần bờ sông dễ dàng nhận nguyên liệu từ các tỉnh trung du
và miến núi phía Bắc, như gỗ, mây, tre, củ dong…Điều này giải thích tại sao
phần nhiều làng mây tre đan và chế biến thực phẩm phân bố dọc theo sông
Đáy của tỉnh Hà Tây, hay nghề mộc phân bố ở các làng gần nhánh sông Hồng
của Vĩnh Phúc. Nhiều làng nghề được hình thành do sự cận kề với thị trường
20
20
tiêu thụ như các đô thị lớn hoặc các khu chợ. Sự phát triển các làng nghề này
thậm chí còn thúc đẩy các phường hội buôn bán ở đô thị hoạt động sôi động
hơn.Vị trí địa lý có thể mang lại thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên liệu
hoặc tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.2. Điều kiến tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có thể là thuận lợi hoặc cũng có thể là nhân tố xô đẩy
dẫn tới sự hình thành làng nghề. Ở những vùng đồng bằng, đất đại màu mỡ
thuận lợi cho việc trồng hai vụ lúa trong năm người dân chọn tiểu thủ công
làm cách giải quyết thời gian nông nhàn. Những vùng đất chỉ có thể canh tác
một vụ lúa trong năm do ngập lụt, hoặc quỹ đất hạn hẹp thì tiểu thủ công sớm
trở thành nguồn thu chính.
Điều kiện tự nhiên đặc biệt là khí hậu, thổ nhưỡng đất đai ảnh hưởng
trực tiếp tới cơ cấu nguyên liệu và là một trong các nhân tố ảnh hưởng quyết
định tới sự hình thành, tồn tại của các làng nghề. Các vùng đất ngập mặn có
thể trồng đay, cói là cơ sở để hình thành các nghề như dệt chiếu, làm sợi đay,
những làng có đất sét có thể hình thành nghề làm gốm, làm gạch. Bát Tràng là
một ví dụ điển hình, có một xuất phát điểm kém thuận lợi về điều kiện tự
nhiên “nằm ở ngoài đê, trong vùng dễ ngập lụt, ít đất trồng trọt. Tệ hơn nữa,
nhìn trên bản đồ , bạn sẽ thấy ngôi làng này phơi mình chênh vênh trên một
dải đất phù sa dốc”[16]. Tuy nhiên , bù lại Bát Tràng lại sở hữu một vỉa đất
sét trắng, đó chính là nguồn nguyên liệu hình thành làng gốm từ cách đây
hàng trăm năm.
1.1.3.3. Dân cư và lao động
Dân cư và lao động là nhân tố quan trọng đối với sự hình thành và phát
triển làng nghề cơ cấu lao động trong làng nghề có thể được phân hóa như
thành: Lực lượng cơ bản nhất ở tại địa phương bao gồm lao động địa phương
chuyên nghiệp; lao động địa phương bán chuyên nghiệp là những người trong
gia đình tham gia khi công việc cần kíp hoặc công việc của hộ rỗi rãi; lao
21
21
động làm thuê ở địa phương khác đến làm việc với tư cách đi học việc, như
các ngành chạm, khắc, thêu, ren
Số lượng lao động và trình độ lao động và tính năng động của họ chi
phối đến sự tồn tại và phát triển làng nghề. Ở nhiều làng nghề người lao động
được phân thành nhiều cấp theo trình độ tay nghề khác nhau như : Nghệ nhân
cấp quốc gia, nghệ nhân cấp tỉnh, người làm nghề có thể được chia làm thợ
chính, thợ phụ, học việc hoặc phân thành thợ cả, thợ bạn, phó cả, phó nhỏ…
Đối với các làng nghề truyền thống nghệ nhân và thợ cả là yếu tố quyết
định tạo ra các sản phẩm độc đáo, mang bản sắc làng nghề. Chính họ là người
lưu giữ và phát huy những kỹ thuật sản xuất truyền thống giữ cho làng nghề
tồn tại. Phần lớn việc đào tạo nghề vẫn do các nghệ nhân và thợ cả đảm
nhiệm, họ đào tạo các nhóm thợ, mà trước hết là con em trong gia đình, dòng
họ và người làng. Do đó, mỗi làng nghề thủ công thường có từ 3 – 4 thế hệ
cùng tham gia làm nghề.
Ngoài những kỹ thuật sản xuất nghề, người chủ cũng như người thợ cần
phải có khả năng sử dụng thiết bị máy móc, cập nhật thị hiếu tiêu dùng, và có
kỹ năng quản lý sản xuất tốt hơn để thích nghi với những biến động của nền
kinh tế thị trường, giúp nghề được bảo tồn và phát triển.
1.1.3.4. Sự biến động về thị trường
Cũng như hàng hóa khác, sản phẩm của làng nghề sẽ không tồn tại nếu
không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là yếu tố quan trọng nhất của
các làng nghề trong giai đoạn hiện nay.
Thị trường đầu tiên của làng nghề chính là chợ làng nhằm phục vụ địa
phương và các vùng lân cận, thị trường tại chỗ nhỏ hẹp, sức tiêu thụ chậm;
phương thức thanh toán trên thị trường chủ yếu là trao tay, thỏa thuận
miệng về quan hệ tín dụng giữa người sản xuất, người tiêu dùng và giữa
các chủ thể kinh tế.
22
22
Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, sản phẩm của làng nghề
được tiêu thụ rộng rãi không chỉ tại nơi sản xuất mà còn được cung cấp ở
các địa phương khác trên toàn quốc và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Thị trường không chỉ có khả năng điều tiết sản xuất thậm chí có thể
quyết định tới sự tồn vong của làng nghề. Sự lụi tàn của một số làng nghề
như Gốm Hương Canh – tỉnh Vĩnh Phúc hay làng nhang Dĩ An – tỉnh Bình
Dương là những ví dụ điển hình của việc không thích nghi được trước
những biến đổi của thị trường.
1.1.3.5. Nguồn vốn
Muốn tiến hành sản xuất yếu tố đầu tiên cần có là vốn, vốn là yếu tố vật
chất đầu tiên, quyết định quy mô sản xuất của các chủ thể sản xuất kinh doanh
trong làng nghề và khả năng cơ giới hóa của các cơ sở sản xuất.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh khốc liệt trên thị
trường đòi hỏi các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề phải có lượng
vốn lớn đầu tư công nghệ, đổi mới trang thiết bị ở một số công đoạn sản xuất
phù hợp để thay thế lao động thủ công, tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng, đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường.
Vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn tài chính và vốn hiện vật, trong đó
vốn tài chính trong làng nghề là tiền; còn vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức
vật chất của quá trình sản xuất trong làng nghề như cơ sở vật chất của các hợp
tác xã thủ công trước kia, máy móc, nguyên liệu… và đặc biệt còn có nguồn
vốn phi vật chất là kinh nghiệm bí quyết nghề nghiệp.
Về quy mô vốn tại các hộ gia đình làng nghề truyền thống không thể so
sánh với các cơ sở sản xuất trong các lĩnh vực khác. Mặt khác khối lượng vốn
còn phụ thuộc vào ngành nghề sản xuất. Các làng nghề đòi hỏi vốn lớn như:
các làng nghề sản xuất về đồ gỗ, gốm vì chi phí nguyên liệu và công đoạn sản
xuất phức tạp hơn. Ngược lại một số làng nghề sản xuất không đòi hỏi vốn
đầu tư nhiều như: mây tre đan, bánh tráng Cơ cấu nguồn vốn tại các làng
23
23
nghề bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Về thu hút
vốn đầu tư nước ngoài có thể nói ở làng nghề là rất ít, còn nguồn vốn trong
nước bao gồm:
Vốn tự có: Là nguồn vốn của các chủ thể sản xuất kinh doanh trong làng
nghề được tích lũy lại, nguồn vốn này quá nhỏ bé so với nhu cầu mở rộng quy
mô sản xuất hay đổi mới trang bị kỹ thuật, nó chiếm khoảng trên 90% tổng số
vốn đầu tư của các chủ thể sản xuất kinh doanh. Có một thực tế do truyền
thống tập quán của nếp nghĩ sản xuất nhỏ, nhiều hộ thủ công sau khi tích lũy
được lợi nhuận, họ dè dặt trong việc tái sản xuất mở rộng nhưng lại rất mạnh
tay dùng lợi nhuận đó để xây nhà, sắm sửa đồ đạc.
Nguồn vốn tín dụng phi chính thức: Đây là nguồn vốn tự phát hình thành
dưới tác động quy luật cung-cầu, được hình thành phổ biến, phát triển mạnh.
Bao gồm các hoạt động vay mượn trong gia đình, dòng họ, bạn bè người thân.
Với các mức lãi suất do hai bên thỏa thuận. Hoặc vay bằng các hình thức chơi
phường, chơi hụi, vay bằng tiền, bằng hiện vật.
Nguồn vốn tín dụng chính thức: Đầu tiên là vay từ các quỹ tín dụng
địa phương, ngoài ra các chủ thể sản xuất kinh doanh còn có thể vay từ các
ngân hàng thương mại, tuy nhiên do thủ tục cho vay phức tạp, lượng vốn
cho vay còn ít, thời gian vay ngắn nên thực tế hiệu quả của nguồn vốn này
còn thấp so với nhu cầu.
Hiện nay có một số làng nghề còn được nhận một khoản vốn vay ưu đãi
được trích ra từ các chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, vốn của các tổ
chức xã hội, đoàn thể.
1.1.3.6. Nguồn nguyên vật liệu
Cũng như bất kỳ quá trình sản xuất, khối lượng, chủng loại nguyên vật
liệu và khoảng cách giữa nguồn cung cấp nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng, giá thành, lợi nhuận của các doanh nghiệp. Trước đây nguồn
nguyên liệu cho sản xuất làng nghề hầu hết là nguyên liệu trong nước, song do
24
24
quy mô sản xuất thay đổi và sự tiều tiết sản xuất của thị trường nhiều nguyên
liệu nhập khẩu được đưa vào sử dụng để phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và đáp
ứng được với quy mô sản xuất. Sử dụng nguyên liệu đa dạng hoặc thay thế sẽ
là xu hướng cần được quan tâm để làng nghề phát triển bền vững.
1.1.3.7. Công nghệ và kỹ thuật sản xuất
Khoa học công nghệ là yếu tố quyết định về chất để tăng năng suất lao
động, quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung và
công nghiệp nói riêng của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, không phải nghề thủ công nào cũng phù hợp để cơ giới hóa.
Một số nghề có thể áp dụng mạnh mẽ những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất như nghề mộc, nghề rèn hay nghề dệt nhưng nhiều nghề chủ yếu
vẫn phải dựa vào sự khéo léo, tỉ mẩn của người thợ và không thể cơ giới hóa
phần nhiều quy trình sản xuất như khảm trai, điêu khắc…
Những bước tiền của khoa học công nghệ đã mang đến sự hồi sinh và là
động lực cho sự phát triển làng nghề phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Dương Ổ - Bắc Ninh làng nghề chuyên làm giấy gió và giấy pháo từng có
thời điểm tưởng chừng như sẽ biến mất khỏi danh sách những làng nghề Việt
sau chỉ thị 406/TTg của Thủ tướng chính phủ về cấm sản xuất kinh doanh
và tàng trữ pháo. Chính sự cơ giới hóa đã mang lại sức sống mới cho làng
nghề, những dây chuyền sản xuất giấy vệ sinh, giấy in, giấy bao bì và một
phần giấy hàng mã có khả năng cung cấp từ 300 đến 2000 tấn giấy mỗi
năm đã giúp duy trì và phát triển làng nghề Dương Ổ.
1.1.3.8. Cơ chế chính sách
Nhân tố thể chế kinh tế, chính sách kinh tế có tác dụng thúc đẩy hoặc
kìm hãm sản xuất làng nghề. Thậm chí có những chủ trương chính sách có
thể làm tiêu vong một làng nghề. Nam Ô là làng nghề làm pháo có tiếng ở
Đà Nẵng nhưng những hậu quả do pháo gây ra thật kinh hoàng. Năm 1994,
Chỉ thị 406/TTg của Thủ tướng chính phủ về cấm sản xuất kinh doanh và
25
25