Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.19 KB, 62 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là : Ngô Đức Cầm
Sinh viên lớp : Kế hoạch 51A
Khoa : Kế hoạch và phát triển
Sau thời gian thực tập ở Công ty cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á, dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận, tôi đã lựa chọn đề tài “Nâng
cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần Tập đoàn Nhựa Đông Á” để làm
chuyên đề thực tập của mình. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc
lập, không hề có sự sao chép của bất cứ ai khác, mọi thông tin, tài liệu mang tính
chất tham khảo đều được ghi rõ nguồn gốc.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Nhà trường và Khoa!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2013
Sinh viên
Ngô Đức Cầm
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
MỤC LỤC
5.3.2. Nguồn nhân lực 14
5.3.3. Chiến lược kinh doanh 14
5.3.4. Hoạt động marketing 15
5.3.5. Khả năng liên kết 15
3.1. Những kết quả đạt được 38
3.1.1. Doanh thu, thị phần sản phẩm của công ty ngày càng tăng
38
3.1.3. Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm Nhựa Đông Á 39
3.2. Những tồn tại trong cạnh tranh và nguyên nhân 39
3.2.1. Những tồn tại trong cạnh tranh 39
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


STT Từ viết tắt Diễn giải
1 DAG Công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á
2 KCN Khu công nghiệp
3 CPTĐ Cổ phần tập đoàn
4 ĐKKD Đăng kí kinh doanh
5 DN Doanh nghiệp
6 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
7 MTV Một thành viên
8 HTQLCL Hệ thống quản lý chất lượng
9 NVL Nguyên vật liệu
10 TP Thành phố
11 CBCNV Cán bộ công nhân viên
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
5.3.2. Nguồn nhân lực 14
5.3.3. Chiến lược kinh doanh 14
5.3.4. Hoạt động marketing 15
5.3.5. Khả năng liên kết 15
3.1. Những kết quả đạt được 38
3.1.1. Doanh thu, thị phần sản phẩm của công ty ngày càng tăng
38
3.1.3. Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm Nhựa Đông Á 39
3.2. Những tồn tại trong cạnh tranh và nguyên nhân 39
3.2.1. Những tồn tại trong cạnh tranh 39
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, các nước trên thế giới đang xích lại gần

nhau. Việt Nam cũng đã xúc tiến rất tốt công tác hội nhập gia nhập ASEAN (1995),
AFTA 1996), APEC (2008), và đặc biệt chính thức gia nhập tổ chức thương mại
quốc tế WTO vào năm 2007. Chúng ta đã từng bước tham gia vào thể chế kinh tế
khu vực và thế giới, đã tạo ra cho các doanh nghiệp nhiều thuận lợi để phát triển thị
trường, huy động vốn từ nước ngoài, tiếp nhận công nghệ, nâng cao số lượng cũng
như chất lượng của sản phẩm. Bên cạnh những cơ hội, thuận lợi các doanh nghiệp
trong nước cũng đối mặt với không ít khó khăn, thử thách đặc biệt là cạnh tranh
ngày càng khốc liệt. Không những các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với
nhau, mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Nền kinh tế ngày
càng phát triển, các thành phần kinh tế đa dạng, số lượng các doanh nghiệp xuất
hiện càng nhiều thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Điều này
được thể hiện rõ qua sự cạnh tranh ở ngành sản xuất sản phẩm từ nhựa. Thị trường
kinh doanh các sản phẩm từ nhựa đang mở rộng và phát triển nhanh chóng cùng với
sự ra đời của nhiều doanh nghiệp sản xuất khiến cho bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp cạnh tranh khác
biệt nhau về khả năng phục vụ nhu cầu và ước muốn của những nhóm khách hàng
khác nhau trên thị trường. Nhưng mỗi doanh nghiệp thường chỉ có một hoặc vài thế
mạnh xét trên một phương diện nào đó trong việc thỏa mãn nhu cầu và ước muốn
của thị trường. Chắc chắn không có một doanh nghiệp cá biệt nào có khả năng đáp
ứng được nhu cầu và ước muốn của mọi khách hàng tiềm năng. Chính vì vậy để
kinh doanh hiệu quả và duy trì, phát triển được thị phần thì nâng cao năng lực cạnh
tranh là yêu cầu không thể thiếu của doanh nghiệp nhất là trong thời đại hiên nay.
Công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á là một trong những công ty hàng
đầu về sản xuất sản phẩm từ nhựa. Ở thời điểm hiện tại khi kinh tế có nhiều biến đổi
bất thường, các đối thủ cạnh tranh ngày càng xuất hiện nhiều hơn, công ty đứng
trước những nhiệm vụ mới và khó khăn hơn trước thì nâng cao năng lực cạnh tranh
trở thành nhiệm vụ quan tâm hàng đầu để tồn tại và phát triển một cách bền vững.
Nếu không tự đổi mới và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, công ty cổ phần
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
1

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
tập đoàn nhựa Đông Á sẽ bị tụt hậu nhanh chóng so với các đối thủ, mất thị phần,
thua lỗ và thậm chí đóng cửa.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á, em
nhận thấy quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty đã bộc lộ nhiều hạn
chế cần giải quyết như: vấn đề về nguồn nhân lực, vấn đề Marketing, vấn đề về tài
chính trong công ty những điều này đã dẫn đến năng lực cạnh tranh của công ty
còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế hiện có của công ty. Chính
vì vậy, để góp phần giải quyết vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng
lực cạnh tranh của công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á” trong chuyên đề
thực tập của mình.
Đối tượng nghiên cứu: Công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á
Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á (DAG)
- Thời gian: Số liệu thứ cấp của công ty thu thập trong 3 năm 2010, 2011,
2012
- Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu phần lý thuyết liên quan cạnh tranh,
thực trạng cạnh tranh của Công ty cổ phần tập đoàn nhựa Đông Á và các
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp phân tích số liệu sử dụng lý thuyết duy vật biện chứng
- Phương pháp định lượng, định tính
Bố cục bài viết: Ngoài phần mở đầu, kết luận đề tài được trình bày gồm 3
phần và các bảng, sơ đồ, biểu đồ
Phần 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
trong nền kinh tế
Phần 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần nhựa Đông Á
Phần 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần tập đoàn
nhựa Đông Á.

SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
Phần 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp trong nền kinh tế
1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh trong đời sống là là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại của
các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn,
giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác.
Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực kinh
tế, thương mại, luật, chính trị, văn nghệ, thể thao
Trong kinh tế theo từ điển Bách Khoa cạnh tranh trong môi trường kinh doanh
là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người
tiêu dùng, cá nhân…) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong
sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương
mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho bản thân.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp: Cạnh tranh được hiểu theo nhiều nghĩa:
Theo Karl Marx khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa: "Cạnh tranh
là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu
ngạch "…
Theo quan điểm của Michael Porter: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản
chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình
quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá
cả có thể giảm đi (1980)”.
Trong thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các
ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành của khách
hàng. Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự mình đưa ra

các quyết định về mặt hàng cần sản xuất, phương thức sản xuất, và tự định giá cho
sản phẩm hay dịch vụ. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối
với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản
xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được
với giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp
với các đối thủ trong cùng một ngành…
Trong xu hướng toàn cầu hóa và tự do hóa ngày càng phát triển như hiện nay
thì cạnh tranh là phương thức để đứng vững và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
khái niệm về cạnh tranh vẫn chưa có sự thống nhất, với mỗi góc độ xem xét khác
nhau thì các nhà nghiên cứu lại đưa ra các khái niệm khác nhau. Điểm chung của
các khái niệm đề cập tới việc thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường trong nước và quốc
tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế.
Tác giả cũng đưa ra quan điểm của bản thân dựa trên các ý kiến của các nhà
kinh tế học là: Cạnh tranh trong kinh doanh là một quá trình kinh tế mà ở đó các
chủ thể kinh tế (quốc gia, ngành hay doanh nghiệp, cá nhân) ganh đua với nhau để
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cùng các điều kiện sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm nhằm mục tiêu thu được nhiều lợi ích nhất cho bản thân như tối đa hóa lợi
nhuận, nâng cao vị thế …
Các doanh nghiệp thương mại cần nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để một
mặt chấp nhận cạnh tranh theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mặt khác tránh tình trạng cạnh tranh bất
hợp lý dẫn đến làm tổn hại đến lợi ích xã hội cũng như làm suy yếu chính mình.
2. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và
trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần
vào sự phát triển kinh tế.
• Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh không chỉ là môi trường động lực của sự

phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao
động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, cạnh tranh
còn tăng điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó
cạnh tranh góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện
của nhứng sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày càng được
nâng cao về chính trị, về kinh tế và văn hoá. Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu
và rộng. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó vẫn
còn mang lại những mặt hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh tạo sự phân hoá
giàu nghèo sẽ dẫn đến có những manh mối làm ăn vi phạm pháp luật như trốn thuế,
lậu thuế, lậu hàng giả, buôn bán trái phép những mặt hàng mà Nhà nước và pháp
luật nghiêm cấm.
• Đối với doanh nghiệp: Cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải năng động, nhạy
bén nhằm tạo ra ưu thế khác biệt và vượt lên đối thủ bằng cách: tích cực nâng cao
tay nghề, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để
nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. áp dụng các công nghệ mới,
hiện đại, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu
thành công mới nhất vào trong sản xuất Cạnh tranh sẽ làm cho doanh nghiệp thể
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
hiện được khả năng và bản lĩnh của mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho
doanh nghiệp càng vững mạnh và phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh
trên thị trường.
• Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh mang lại những giá trị tối ưu nhất và
mức giá cả phù hợp nhất với người tiêu dùng do đó doanh nghiệp phải tìm mọi cách
để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ
tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn để đáp ứng tốt nhất những nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng.
• Đối với xã hội: Cạnh tranh tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng

có hiệu quả các nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải
tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới khác biệt có sức cạnh tranh cao. Từ đó góp
phần sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đang ngày càng trở nên khan hiếm và
cạn kiệt; đồng thời nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội với vai
trò là một trong các chủ thể của nền kinh tế, đóng góp vào sự phát triển chung.
Ngoài ra cạnh tranh bình đẳng lành mạnh giúp các ngành có cơ hội thu hút được
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sản
phẩm ngày càng hoàn thiện về mẫu mã, chủng loại, chất lượng.
Tóm lại vai trò cạnh tranh không thể phủ nhận ở bất cứ một lĩnh vực nào của
nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ góp phần tạo ra những công ty lớn mạnh,
những nhà doanh nghiệp giỏi, người tiêu dùng thông thái… và đồng thời là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội.
3. Phân loại cạnh tranh
Dựa vào các tiêu thức khác nhau cạnh tranh được phân ra làm nhiều loại:
 Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu
thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
Cạnh tranh được phân thành:
- Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của quy
luật cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho
người mua phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả
tăng vọt. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất
thêm một số tiền. Như vậy sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người
mua bị thiệt.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
- Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng
bán. Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh
trong khi lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh
tranh khốc liệt để giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng

giảm xuống và người mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh
này mới có thể tồn tại và phát triển.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người
mua luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình
thành hai phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá
cân bằng của thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được.
 Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường
- Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất
nhiều người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ
trong tổng cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán với
giá thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng
không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có
thể tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp
đều có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá bán của
mình, qua đó tác động đến giá cả thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có nhiều
người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế cho
nhau ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất lượng,
kiểu dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác biệt
hóa sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng.
- Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng lớn
bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn bộ
lượng cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong tập
đoàn có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều
ảnh hưởng trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ
thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch.
- Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn
hảo. Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc
nhất và không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn.

Doanh nghiệp độc quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi
nhuận siêu ngạch.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
 Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản
xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất
lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu cầu
của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu kỳ
sống của sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ ngành)
là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra
một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ
thuật phát triển. Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá
cả hàng hóa, là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật.
Không có cạnh tranh nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị
trì trệ.
- Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có sự
phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi
nhuận bình quân. Như vậy cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản
phẩm trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho
việc đầu tư vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải thiện vị
trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu được lợi
ích ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham gia
cạnh tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
4. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

4.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp
Có rất nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh, chúng ta có thể đề cập đến:
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng
thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện
nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với đối
thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Tuy nhiên theo cách quan niệm
này, hạn chế là chưa bao hàm các phương thức, chưa phản ánh một cách bao quát
năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước
sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách năng lực của
Mỹ đưa ra định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
vụ trên thị trường thế giới”. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế cho rằng:
năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác
đánh bại về năng lực kinh tế”.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức
sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu
quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế. Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thức đo duy nhất về năng lực cạnh
tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu và
nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ bài viết tôi xin được đúc rút từ các ý kiến trên và lấy khái
niệm “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử
dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự
phát triển kinh tế bền vững”.
4.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

Tại hội thảo về “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam sau 5
năm gia nhập WTO”, các chuyên gia kinh tế cùng các nhà hoạch định chính sách
đã chỉ ra trong 5 năm qua, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường thế giới chưa được cải thiện đáng kể, sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO vẫn còn thấp, độ ổn định chưa cao. Đa số
các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ, thị phần hạn hẹp, tiềm lực khoa học
- công nghệ yếu, chưa có thương hiệu nổi tiếng; sản xuất hàng xuất khẩu chủ yếu
làm gia công, nên phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào; chất lượng
nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu, tỷ lệ người lao
động qua đào tạo thấp…
Theo Giáo sư Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài cho biết: Việt Nam có khoảng trên 400.000 doanh nghiệp, nhưng đa số là
doanh nghiệp vừa và nhỏ (95%), số doanh nghiệp cực nhỏ và khu vực phi chính
thức (chưa đang kí kinh doanh) rất lớn. Trong những năm vừa qua, do tác động của
khủng hoảng kinh tế thế giới, có tới hàng chục nghìn doanh nghiệp do làm ăn thua
lỗ liên tục và không chịu nổi lãi suất cho vay quá cao của ngân hàng nên buộc lòng
phải thu hẹp sản xuất, nặng hơn nữa là đóng cửa, phá sản. Chứng tỏ là năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam yếu và luôn đang chiều hướng suy giảm.
Kết quả điều tra hơn 70.000 doanh nghiệp trên cả nước cho thấy: 40,3% lãnh
đạo doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông, số chủ doanh
nghiệp có trình độ thạc sỹ trở lên chỉ chiếm 2,79%. Có thể nói, đa số các chủ doanh
nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
kiến thức kinh doanh, kinh tế – xã hội, văn hóa, luật pháp… và kỹ năng quản trị
kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Điều đó
được thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa chấp hành tốt các quy định về
thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu công
nghiệp… Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các doanh nghiệp hoạt động quản lý

theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược gây ra mất năng lực cạnh tranh.
Việt Nam hiện đang cạnh tranh với thế giới bằng nguồn lao động dồi dào, giá
rẻ tuy nhiên đây sẽ không còn là lợi thế so sánh nữa khi mà Việt Nam chuyển dịch
lên cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, khi mà lao động giá rẻ đang tiềm ẩn nhiều
yếu tố bất ổn (về tăng trưởng, về ổn định xã hội…). Việt Nam liên tục bị tụt hạng
trong bảng xếp hạng chỉ số cạnh tranh toàn cầu, và thiếu lao động được đào tạo (xét
cả về chất lượng và cơ cấu) là một trong những điểm yếu nhất của nền kinh tế Việt
Nam. Bức tranh toàn cảnh về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam xét
trên khía cạnh nguồn nhân lực cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam còn thấp: Năm 2012 tỷ lệ lao động qua
đào tạo chỉ chiếm 38% lực lượng lao động (công nhân kỹ thuật có bằng cấp trở lên
24%). Như vậy, so với nhiều nước ở khu vực và trên thế giới chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam còn thấp. Đặc biệt ở Việt Nam còn có tình trạng phân bổ lực
lượng lao động chất lượng cao không đồng đều. Tỷ lệ lao động các ngành kinh tế,
ngân hàng tài chính quá cao khiến sinh viên tốt nghiệp khó khăn trong tím kiếm
việc làm và chấp nhận làm sai ngành nghề. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tọa ở các
ngành công nghiệp chế biến, khách sạn, nhà hàng, du lịch, nông nghiệp… là rất cao
gây cản trở cho việc phát triển mạnh mẽ các ngành nghề này. Trong khi đó chi phí
lao động trên giá trị mới của Việt Nam lại rất cao khiến cho các doanh nghiệp nước
ngoài cảm thấy dè dặt khi đánh giá và đầu tư vào thị trường Việt Nam.
Về vấn đề áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, GS. TS
Nguyễn Đức Bình (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho biết: “ Hiện tại, phần lớn các
doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của
thế giới 2-3 thế hệ. Vì vậy, trong những năm tới, nếu chính phủ không có biện pháp
mạnh tay, các quan chức nhà nước không tổ chức quản lý tốt, chỉ quan tâm đến lợi
ích trước mắt, không có các chính sách, biện pháp mời thì xu thế nhập khẩu và sử
dụng công nghệ lạc hậu vẫn gia tăng, dẫn đến tiếp tục làm giảm khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp”.
Đối với các doanhh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ nhựa cũng vậy. Việc
gia nhập WTO mang lại cơ hội nhưng cũng rất nhiều thách thức. Theo đánh giá của

Bộ Công thương, trong thời gian qua, ngành nhựa Việt Nam có tốc độ phát triển
khá nhanh và đã trở thành một trong những ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt
Nam. Cả nước có hơn 1.200 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngành nhựa với
khoảng 120.000 lao động, thuộc các ngành sản xuất bao bì nhựa, nhựa gia dụng,
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
nhựa vật liệu xây dựng, nhựa kỹ thuật Còn việc quy hoạch phát triển ngành nhựa
Việt Nam đến năm 2015, phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp ngành nhựa đạt
78.500 tỷ đồng, năm 2020 đạt 181.577 tỷ đồng và tới năm 2025 là 390.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên phần lớn các doanh nghiệp này đều có quy mô vừa và nhỏ, khó có khả
năng cạnh tranh cao với các doanh nghiệp nước ngoài. Nếu không cải thiện năng
lực cạnh tranh các doanh nghiệp này khó mở rộng thị trường rộng lớn và tiềm
năng là Châu Âu và Mỹ. Khó có thể đạt được chỉ tiêu đề ra.
Chính vì những vấn đề kể trên mà vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nhựa nói riêng trở
thành vấn đề hết sức cấp bách hiện nay, giúp doanh nghiệp đứng vững trước những
sóng gió của nền kinh tế, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
5. Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
5.1. Môi trường vĩ mô
Môi trường chính trị và luật pháp: Các nhân tố thuộc về môi trường chính trị
và luật pháp cũng có ảnh hưởng lớn trong việc tạo ra các cơ hội cũng như các nguy
cơ đe dọa. Chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, ngược lại
chính trị không ổn định sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế được điều chỉnh bởi hệ thống luật
pháp, những quy định có thể là cơ hội và cũng có thể là khó khăn cho doanh nghiệp,
hệ thống luật pháp đầy đủ minh bạch sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh,
làm nền tảng, cơ sở hình thành một môi trường kinh doanh hấp dẫn.
Môi trường kinh tế vĩ mô: Là yếu tố hết sức quan trọng mà các nhà hoạch
định chiến lược không thể bỏ qua. Sự thay đổi của nó tạo ra các cơ hội cũng như

các nguy cơ khác nhau đối với từng doanh nghiệp trong các ngành khác nhau.
Trạng thái môi trường kinh tế vĩ mô là yếu tố quyết định chính và trở thành sức
mạnh của nền kinh tế. Điều này có ảnh hưởng ngược trở lại tới khả năng phát triển
của doanh nghiệp. Các yếu tố quan trọng nhất trong lĩnh vực này là:
Chu kỳ nền kinh tế: Thể hiện dao động của nền kinh tế theo thời gian, gồm:
Khủng hoảng-Phục hồi – Tiêu điều và Hưng thịnh. Nền kinh tế rơi vào suy thoái
hay khủng hoảng sẽ làm cho thu nhập của người dân giảm, tiêu dùng giảm và sản
xuất đình trệ ảnh hưởng xấu tới doanh nghiệp và ngược lại.
Lãi suất: Là yếu tố mà tất cả các doanh nghiệp đều quan tâm. Đã kinh doanh
thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải vay vốn, yếu tố lãi suất chính là yếu tố cấu
thành nên chi phí của doanh nghiệp. Nếu được vay với lãi suất ưu đãi sẽ làm chi phí
của doanh nghiệp giảm dẫn đến giảm giá thành sản phẩm tăng sức mua của khách
hàng góp phần tăng doanh thu và ngược lại
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
Lạm phát: Luôn luôn là mối đe doạ đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Một trong những tác động xấu của lạm phát đến nền kinh tế là lạm phát có thể gây
ra những xáo trộn trong nền kinh tế, làm cho tăng trưởng kinh tế kém ý nghĩa, thực
chất là chậm lại. Trong dài hạn, lạm phát sẽ làm cho hiệu quả đầu tư của doanh
nghiệp rất thấp và tiềm ẩn nhiều rủi ro, làm cho đầu tư bị thu hẹp và do đó tốc độ
tăng trưởng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng.
Độ mở của nền kinh tế: Trong môi trường của nền kinh tế quốc tế, sự cạnh
tranh mạnh mẽ đến từ nhiều nền kinh tế sẽ thúc đẩy nỗ lực vươn lên của doanh
nghiệp trong cạnh tranh ngày càng nhanh hơn, những thay đổi trong môi trường
cạnh tranh quốc tế có thể tạo ra những nguy cơ, những cơ hội cho các doanh nghiệp
trong việc mở rộng hoạt động của mình. Độ mở của nền kinh tế càng lớn thì khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp càng được hoàn thiện.
Môi trường xã hội: Giống như sự thay đổi về chính trị - pháp luật thay đổi,
môi trường xã hội cũng tạo ra các cơ hội cũng như các nguy cơ đối với hoạt động

của doanh nghiệp. Một trong những sự dịch chuyển xã hội chính trong những năm
gần đây là xu hướng quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe, bảo vệ môi trường và vấn
đề bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển hay già hóa dân số ở các nước phát
triển. Khi phân tích về vấn đề xã hội cần quan tâm đến các vấn đề về dân số và
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán
Môi trường công nghệ: Thay đổi công nghệ có thể tạo ra sự làm chủ các sản
phẩm mới. Như vậy, nó vừa tạo ra, vừa là phá bỏcả hai vừa là cơ hội, vừa là mối đe
dọa. Một trong những nhân tố quan trọng nhất của thay đổi công nghệ là nó có thể
ảnh hưởng tới rào cản nhập ngành và sự định hình lại một cách triệt để cấu trúc
ngành cũng như trong việc tạo ra những ngành mới. Sự phát triển của công nghệ sẽ
làm chu kỳ sống của sản phẩm ngắn lại, do đó doanh nghiệp cần chú trọng đến xu
hướng đổi mới công nghệ. Mọi doanh nghiệp đều có liên quan đến rất nhiều dạng
công nghệ khác nhau và có liên quan đến nhau.
Môi trường tự nhiên: So với các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội,
công nghệ thì tác động của yếu tố tự nhiên rất khó dự báo. Sự biến động của các yếu
tố tự nhiên như biến đổi khí hậu, bão lụt hay thiên tai luôn là các nguy cơ tiềm ẩn
đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có mối liên hệ trực tiếp đến
môi trường tự nhiên như các doanh nghiệp nông nghiệp.
Môi trường quốc tế (toàn cầu hóa): Trong điều kiện toàn cầu hóa đang diễn
ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới như hiện nay các vấn đề toàn cầu hóa tác
động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các
mặt hoạt động như thị trường đầu ra, nguồn cung ứng đầu vào, tài chính, nguồn
nhân lực…
5.2. Môi trường ngành
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
Khách hàng: là điều kiện tiên quyết để mỗi doanh nghiệp có thể tồn tại và
phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, với môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện
nay, khi chất lượng sản phẩm trở thành một trong những căn cứ quan trọng nhất

quyết định sự mua hàng của khách hàng thì việc xác định khách hàng và nhu cầu
của họ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Căn cứ vào nhu cầu
của khách hàng, doanh nghiệp đưa ra các quyết định sản xuất sản phẩm đáp ứng
đúng nhu cầu khách hàng. Số lượng khách hàng quyết định quy mô thị trường hàng
hoá của doanh nghiệp.
Khách hàng hoặc người mua của mỗi doanh nghiệp có thể là người tiêu dùng
(nếu sản xuất hàng tiêu dùng), có thể là các doanh nghiệp, tổ chức (nếu sản xuất
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị…), có thể là các chủ đầu tư (nếu doanh nghiệp
nhận thầu các dự án, công trình…). Mặc dù đối tượng có thể khác nhau song người
mua nói chung có xu hướng muốn tối hóa lợi ích của mình với chi phí thấp nhất nên
họ luôn tìm mọi cách gây áp lực để doanh nghiệp giảm giá hàng hóa, mặc cả để có
chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn. Cơ sở để đưa ra quyết định mua bán
là bình đẳng, đôi bên đều có lợi nhưng do sức ép cạnh tranh doanh nghiệp luôn phải
đối mặt với những đòi hỏi của khách hàng. Để phòng thủ trước những sức ép đó,
việc phải xem xét lựa chọn nhóm khách hàng mục tiêu là một quyết định rất quan
trọng đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể ưu đãi, khuyến mại tạo mối quan hệ với
khách hàng đặc biệt là khách hàng lớn. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể duy trì được
thị phần hiện có và tăng khả năng mở rộng thị phần. Giữ được khách hàng là một
yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Nhà cung cấp: Nhà cung cấp là những doanh nghiệp cung cấp các yếu tố
đầu vào cho quá trình sản xuất đó là vật tư, máy móc thiết bị, vốn,…Họ có thẻ tạo
ra áp lực lên doanh nghiệp thông qua giá cung cấp, chất lượng hay phương tiện
thanh toán. Giữa nhà cung cấp và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương
lượng về giá cả, chất lượng và thời gian giao hàng. Nhà cung cấp có nhiều cách để
tác động đến khả năng thu lợi nhuận của các doanh nghiệp như nâng giá, giảm chất
lượng vật tư kỹ thuật mà họ cung ứng, không đảm bảo tiến độ giao hàng theo yêu
cầu, gây ra sự khan hiếm giả tạo.
Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung cấp thì doanh nghiệp có thể lựa chọn
nhà cung cấp, điều đó tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường yếu tố đầu vào, có tác

dụng làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp. Thế mạnh của nhà cung cấp tăng
lên nếu số lượng nhà cung cấp ít, không có hàng thay thế, doanh nghiệp không phải
là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp, chi phí chuyển đổi nhà cung cấp của
doanh nghiệp lớn hoặc loại vật tư được cung ứng là yếu tố đầu vào quan trọng quyết
định chất lượng sản phẩm hoặc hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
đó, nhà cung cấp nói chung có ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Đối thủ cạnh tranh: Đối thủ cạnh tranh là nhân tố bên ngoài có tác động
trực tiếp đến doanh nghiệp. Trong một ngành nào đó mà tồn tại một hoặc một số
doanh nghiệp thống lĩnh thì cường độ cạnh tranh ít hơn và doanh nghiệp thống lĩnh
đóng vai trò chỉ đạo giá. Trong trường hợp này nếu doanh nghiệp không ở vị trí
thống lĩnh thì sức cạnh tranh là rất kém. Nhưng nếu tồn tại nhiều doanh nghiệp có
thế lực và quy mô tương đương nhau thì cạnh tranh trong ngành sẽ rất gay gắt. Cần
phải coi trọng lợi thế so sánh của mình và biến nó thành lợi thế cạnh tranh, doanh
nghiệp nào có nhiều lợi thế cạnh tranh thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh
cao hơn.
Trong thị trường tự do cạnh tranh, gần như không có rào cản gia nhập thị
trường, luôn có các đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng tham gia thị trường bất cứ lúc nào. Sự
xuất hiện của đối thủ mới có thể gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp
hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc ra
quyết định hơn và các chiêu bài của họ thường có tính bất ngờ.
Để chống lại các đối thủ tiềm ẩn, doanh nghiệp phải thường xuyên củng cố
năng lực cạnh tranh của mình bằng cách không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản
phẩm, bổ sung những đặc tính mới ưu việt hơn cho sản phẩm, luôn phấn đấu giảm
chi phí để sẵn sàng tham gia các cuộc cạnh tranh về giá.
5.3. Các yếu tố bên trong
5.3.1. Nguồn lực tài chính và công nghệ

Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng sản xuất và là chỉ tiêu
hàng đầu để đánh giá quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn lực tài chính ở
đây bao gồm: quy mô tài chính của doanh nghiệp, tình hình vốn,đầu tư,…
Bất cứ một hoạt động đầu tư, sản xuất, phân phối nào cũng phải xem xét,
tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm năng lớn
về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm
trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, duy trì và nâng cao sưc
cạnh tranh của hàng hóa, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi
nhuận và củng cố vị thế trên thương trường. Doanh nghiệp có tiềm lực tài chính cao
có thể theo đuổi chiến lược dài hạn, tham gia vào lĩnh vực đòi hỏi lượng vốn lớn và
cường độ cạnh tranh cao. Một trong các lý do chính khiến các doanh nghiệp tập
đoàn có xu hướng sát nhập vào nhau là để có tiềm lực, tài chính mạnh nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Nguồn lực vật chất của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản cố định mà doanh
nghiệp đang có như máy móc,thiết bị nhà xưởng… Nó phản ánh quy mô và trình độ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
Bí quyết công nghệ là những công nghệ riêng của doanh nghiệp, nó phản ánh
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nó biểu hiện bằng những chỉ tiêu hữu hình và
vô hình như năng suất lao động bình quân, trình độ quản lý của nhà quản trị, văn
hóa doanh nghiệp…
Cơ sở vật chất và bí quyết công nghệ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực
và khả năng kinh doanh do nó tác động đến năng suất, chi phí, sản xuất và giá thành
sản phẩm. Cơ sở vật chất kĩ thuật và bí quyết càng cao và càng hiệu quả thì tạo ra
những sản phẩm chất lượng cao, chi phí thấp từ đó lợi nhuận càng tốt.
5.3.2. Nguồn nhân lực
Yếu tố con người trong mọi hoạt động đều là yếu tố then chốt tạo nên sự
khác biệt. Trong kinh tế, sản xuất kinh thì nguồn nhân lực lại càng đóng vai trò

quan trọng và then chốt. Có thể coi nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để
quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Các quá trình kinh doanh và các quá trình quản trị đều là quá trình lao động,
là quá trình người lao động sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao
động theo một công nghệ nào đó nhằm tạo ra sản phẩm có hướng đích. Trong năm
yếu tố cấu thành quá trình lao động chỉ có yếu tố “người lao động” là chủ thể – làm
chủ các yếu tố còn lại và làm chủ quá trình. Các yếu tố khác là khách thể và bị
động. Chính kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, thái độ của người lao động là nhân tố
quyết định năng suất, chất lượng và Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. hiệu quả sử dụng các yếu tố khác của doanh
nghiệp. Cũng chính nguồn nhân lực là nhân tố quyết định trước nhất tới tiến độ,
chất lượng và hiệu quả của mọi quá trình kinh doanh và mọi quá trình quản trị
doanh nghiệp. Nói một cách khác nguồn nhân lực, là nhân tố chủ yếu quyết định
năng suất.
5.3.3. Chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh là bộ phận quan trọng nhất trong toàn bộ chiến lược
của doanh nghiệp. Các bộ phận khác của chiến lược chung phải căn cứ vào chiến
lược kinh doanh để xây dựng và hiệu chỉnh. Chiến lược kinh doanh có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Nó định ra được
các mục tiêu lớn theo đó cần phải huy động hợp lý các nguồn lực cả ngắn hạn, và
dài hạn. Nó đảm bảo cho các kế hoạch không bị lạc hướng. Chiến lược kinh doanh
được xây dựng tốt giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận, có chỗ đứng
vững chắc an toàn trong kinh doanh, chủ động thích nghi với môi trường kinh
doanh. Chính vì lí do trên mà trong những hoạt động kinh doanh của mình, các
doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, đây chính là yêu cầu cần thiết đối với bất cứ doanh
nghiệp nào trên thị trường.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận

5.3.4. Hoạt động marketing
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Marketing là một công cụ cạnh tranh
đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, tăng doanh thu, hiệu quả của
doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp xây dựng được chiến lược marketing và biết
cách sử dụng nó trong những tình huống, thời điểm thích hợp thì sẽ giúp doanh
nghiệp đó giữ được ưu thế trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Trong lĩnh
vực xây dựng, do đặc thù sản phẩm của các doanh nghiệp ngành này là không thể
đưa sản phẩm ra thị trường cho khách hàng lựa chọn như các ngành công nghiệp
khác được mà chủ yếu dựa vào danh tiếng, thương hiệu, chất lượng của của những
công trình đã thi công để khách hàng xem xét và tìm đến yêu cầu sản xuất sản
phẩm. Sự cạnh tranh trực tiếp giữa các doanh nghiệp xây dựng chủ yếu là sự so
sánh về thành tích, thương hiệu. Thành tích và thương hiệu của doanh nghiệp càng
lớn thì khả năng trúng thầu của doanh nghiệp càng cao. Do đó, trước khi đấu thầu
cần phải làm tốt công tác quảng cáo, tiếp thị để nâng cao mức độ tin cậy của chủ
đầu tư với doanh nghiệp, từ đó góp phần vào việc nâng cao khả năng trúng thầu.
Điều nảy ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của công ty.
5.3.5. Khả năng liên kết
Liên doanh liên kết là sự kết hợp hai hay nhiều pháp nhân kinh tế để tạo ra
một pháp nhân mới có sức mạnh tổng hợp về kinh nghiệm và khả năng tài chính.
Đây là một trong những yếu tố đánh giá năng lực của doanh nghiệp. Nhất là đối với
những doanh nghiệp thường tham gia các dự án với quy mô lớn, những yêu cầu đôi
khi vượt năng lực một doanh nghiệp đơn lẻ trong cạnh tranh. Các doanh nghiệp có
thể tăng cường liên kết kinh doanh thông qua việc tham gia vào các chuỗi giá trị,
vào các mạng sản xuất, hình thành các cụm nông công nghiệp. Việc liên kết này sẽ
giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững, bảo đảm đầu vào cũng như đầu ra của
doanh nghiệp, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh tạo động lực nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường. Qua đó doanh nghiệp có thể đáp ứng một cách
toàn diện những yêu cầu của dự án có quy mô lớn và độ phức tạp cao.
Liên doanh liên kết có thể thực hiện theo chiều ngang, tức là doanh nghiệp sẽ
liên kết với các doanh nghiệp cùng ngành để đảm nhận các dự án lớn. Liên kết theo

chiều dọc là một mô hình kinh doanh dựa trên nguyên lý cộng sinh trong đó mục
tiêu chính là tạo mối liên kết giữa bản thân doanh nghiệp và các đối tác liên quan
trực tiếp đến họ như các nhà cung cấp và nhà phân phối nhờ đó có thể làm giảm giá
thành sản phẩm. Dù liên doanh liên kết dưới hình thứ nào cũng đều dựa trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Liên doanh liên kết tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đi sâu chuyên môn
hóa, khai thác được những thế mạnh, khắc phục những điểm yếu, thích ứng với cơ
chế thị trường, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó nâng cao năng
lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
6. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
6.1. Thương hiệu và thị phần của doanh nghiệp
Thương hiệu là hình tượng về một cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc hình
tượng về một loại hoặc một nhóm hàng hóa, dich vụ; là tập hợp các dấu hiệu để
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của doanh
nghiệp khác. Nói đến thương hiệu không chỉ nhìn nhận và xem xét trên góc độ pháp
lý của thuật ngữ này mà quan trọng hơn là nhìn nhận nó dưới góc độ quản trị doanh
nghiệp và marketing. Như vậy thương hiệu phải gắn liền với chất lượng hàng hóa,
dịch vụ, cách ứng xử của doanh nghiệp với khách hàng, cộng đồng, những hiệu quả
và tiện ích đích thực cho người tiêu dùng do hàng hóa và dịch vụ mà nó mang lại…
thì mới đi sâu vào tâm trí khách hàng.
Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản
phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển
vọng lợi nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà sản xuất trong tương lai.
Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp
Xây dựng thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài chính và ý
chí không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Một doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh cao cũng có nghĩa là họ đã xây dựng được thương hiệu mạnh,

thương hiệu đó luôn được khách hàng nhớ và nhận biết rõ ràng. Một thương hiệu
mạnh là một thương hiệu có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục tiêu, làm
cho họ tiêu dùng và tiếp tục tiêu dùng nó. Nếu khách hàng đã đam mê thích thú một
thương hiệu, họ sẽ trung thành với thương hiệu đó và như vậy doanh nghiệp đã đạt
được mục tiêu cạnh tranh của mình.
Thương hiệu là tài sản vô hình và có giá trị của doanh nghiệp: thương hiệu là
tài sản của doanh nghiệp, nó là tổng hợp của rất nhiều yếu tố, những thành quả mà
doanh nghiệp tạo dựng được trong suốt quá trình hoạt động của mình. Chính sự nổi
tiếng của thương hiệu như là một đảm bảo cho lợi nhuận tiềm năng của doanh
nghiệp.
Cùng với thương hiệu, thị phần cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp là tỷ trọng giữa số hàng hóa
của doanh nghiệp so với tổng số hàng hóa được bán trên thị trường. Hoặc là tỷ
trọng giữa doanh thu của doanh nghiệp về một loại sản phẩm nào đó so với tổng
doanh thu sản phẩm đó trên thị trường. Thị phần tương đối là tỷ lệ so sánh giữa
doanh thu của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế
của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ
chiếm được thị phần tương ứng với năng lực cạnh tranh đó và có nhiều khả năng
tăng thị phần. Thị phần là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, để giành và
giữ vững được thị phần đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự nỗ lực không ngừng trong
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
16
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
Vốn chủ sở hữu
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
việc sản xuất các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, làm tốt công tác

marketing và đảm bảo chất lượng sản phẩm như đã cam kết.
6.2. Nhóm các chỉ tiêu về doanh lợi, tài chính
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh
và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Các chỉ tiêu về doanh lợi thể hiện mối quan hệ
kết quả thu được từ hoạt động của doanh nghiệp và các phương tiện, nguồn lực tạo
ra kết quả đó. Để lượng hóa hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta thường sử dụng
các chỉ tiêu về doanh lợi.
• Chỉ tiêu về doanh lợi tiêu thụ sản phẩm( đơn vị tính %).
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu, nó
phản ánh số lợi nhuận thu được trong một trăm đồng doanh thu.
• Chỉ tiêu về doanh lợi trên tài sản (ROA):
ROA =
Đơn vị tính %

Chỉ tiêu doanh lợi trên tài sản đo lường hoạt động của một công ty trong việc
sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận, không phân biệt tài sản này đựoc hình thành bởi
nguồn vốn chủ sở hữu hay vốn vay. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả hoạt động đầu
tư của công ty, đồng thời đây còn là cơ sở quan trọng để những người cho vay cân
nhắc xem liệu công ty có thể tạo ra mức sinh lời cao hơn chi phí sử dụng nợ hay
không và là cơ sở để chủ sở hữu đánh giá tác động của đòn bẩy tài chính và ra quyết
định sử dụng vốn đầu tư.
• Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn chủ sở hữu( ROE %):
ROE =
Chỉ tiêu này cho ta thấy kết quả của việc sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận cho
chủ sở hữu. ROE có liên quan đến chi phí trả lãi vay, vì vậy nó là chỉ tiêu tổng hợp
phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của chủ sở hữu dưới tác động của đòn bẩy tài chính.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận

Các chỉ số tài chính được so sánh với các chỉ số tài chính của các năm trước để thấy
được sự gia tăng lợi nhuận một cách tổng quát, so sánh với mức trung bình của
ngành và các đối thủ cạnh tranh. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp tương
đương hoặc cao hơn tỷ suất lợi nhuận của ngành thì doanh nghiệp đó được coi là có
năng lực cạnh tranh cao.
• Năng suất lao động
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian, hoặc bằng lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn
vị sản phẩm. NSLĐ cao làm cho giá thành sản phẩm giảm vì vậy tiết kiệm được chi
phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm. Doanh nghiệp nào có NSLĐ cao thì sẽ có
năng lực cạnh tranh tốt hơn so với doanh nghiệp khác cùng ngành.
Công thức tính NSLĐ:
T
Q
W =
Trong đó:
W: mức NSLĐ của một công nhân( hay một công nhân viên) tính bằng giá
trị tiền
Q: Giá trị sản lượng, doanh thu, lợi nhuận…
T: Tổng số công nhân( hay công nhân viên).
6.3. Chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ chính là yếu tố tạo ra nhận thức và niềm tin
của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp cung ứng, từ đó tạo ra sự khác biệt trong
tâm lý khách hàng, tạo sự khác biệt và năng lực cạnh tranh riêng có của công ty.
Xây dựng, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ là vấn đề đòi hỏi thời
gian, khả năng tài chính và ý chí không ngừng của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
có năng lực cạnh tranh cao cũng có nghĩa là họ đã xây dựng được những sản phẩm,
dịch vụ mạnh với thương hiệu luôn được khách hàng nhớ và nhận biết rõ ràng.
Những sản phẩm và dịch vụ này có thể tạo được sự thích thú cho khách hàng mục
tiêu, làm cho họ tiêu dùng và tiếp tục tiêu dùng nó và đi tiến tới một bước cao hơn

nữa là khách hang sẽ trung thành với doanh nghiệp đó. Như vậy doanh nghiệp đã
đạt được phần nào mục tiêu cạnh tranh của mình
6.4. Nguồn nhân lực
Sự thiếu quan tâm hoặc quan tâm không đúng mức đối với yếu tố nhân sự có
thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất khả năng cạnh tranh khi tham gia vào quá
trình cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các hoạt động quản lý nhân sự trong một tổ
chức đều xoay quanh bốn trục chính yếu: thu hút và tuyển dụng nhân sự; bổ nhiệm
và sử dụng nhân sự; huấn luyện và phát triển nhân sự, khích lệ và duy trì nhân sự;
tái tạo nhân sự.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
Một doanh nghiệp có thể tạo được ưu thế cạnh tranh nhờ có một đội ngũ
nhân sự năng động, khả năng đáp ứng nhạy bén, trình độ chuyên nghiệp cao và
thích hợp. Điều kiện tiên quyết để có được một đội ngũ nhân sự có chất lượng là các
cấp nhân viên và lãnh đạo trong công ty phải được tuyển dụng và phát triển theo
những tiêu chí khả thi đã đặt ra, nghĩa là phải được gắn liền với chiến lược tổng thể
dài hạn của doanh nghiệp.
Điều này có thể được thể hiện ở một số chỉ tiêu như:
(1) Trình độ lao động theo các cấp bậc đào tạo
(2) Trình độ lao động phân theo giới.
(3) Số người đào tạo tại nước ngoài
Với những doanh nghiệp có các lao động với trình độ cao, là một điều kiện
thuận lợi giúp cải thiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua việc linh
hoạt, nhạy bén trong tiếp thu khoa học, kỹ thuật hiện đại, đội ngũ lao động này giúp
tạo ra những yếu tố khác biệt mà các doanh nghiệp khác trên thị trường không có
được, từ đó giúp nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
6.5. Công nghệ
Công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất. Khi các
tài nguyên dần cạn kiệt, tri thức trở thành lực lượng lao động, yếu tố công nghệ

càng mang yếu tố quyết định đến tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Để đánh giá về năng lực máy móc thiết bị và công nghệ có thể dựa vào các
đặc tính sau:
Một là: Tính hiện đại của thiết bị công nghệ: Biểu hiện ở các thông số như
hãng sản xuất, năm sản xuất, công suất thiết kế, giá trị còn lại của thiết bị.
Hai là: Tính đồng bộ: Thiết bị đồng bộ là điều kiện đảm bảo sự phù hợp giữa
thiết bị, công nghệ với phương pháp sản xuất, với chất lượng và độ phức tạp của sản
phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
Ba là: Tính hiệu quả: Thể hiện trình độ sử dụng máy móc thiết bị sẵn có để
phục vụ mục tiêu cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bốn là: Tính đổi mới: Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có nhiều biến
động, máy móc thiết bị phải thích ứng được với yêu cầu sản xuất kinh doanh của
từng giai đoạn, từng phương án sản xuất kinh doanh, nếu máy móc thiết bị không
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
thể sử dụng linh hoạt và chậm đổi mới thì sẽ không đảm bảo năng lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp với trình độ công nghệ hiện đại có thể tạo ra những sản
phẩm với chi phí thấp hơn, mức tiêu hao nguyên vật liệu thấp hơn, năng suất lớn
hơn, chi phí không cần thiết được cắt giảm tới mức thấp nhất. Đây là những yếu tố
hết sức quan trọng trong quá trình tạo lập và xây dựng hình ảnh cũng như năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc đưa đến cho người tiêu dùng những sản
phẩm chất lượng với mức giá cạnh tranh, phù hợp nhất.
6.6. Chính sách và mạng lưới phân phối
Chính sách phân phối là sự kết nối các yếu tố phân phối, xây dựng mạng lưới
phân phối và sử dụng các phương pháp phân phối. Chính sách phân phối là một bộ
phận cấu thành của tổ hợp đồng bộ các chiến lược Marketing hỗn hợp bao gồm tất
cả những gì mà công ty có thể vận dụng để tác động lên nhu cầu về hàng hoá của
mình. Có thể hợp nhất rất nhiều khả năng thnàh 4 nhóm cơ bản: hàng hoá, giá cả,

phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Một chính sách đúng đắn cùng với mạng lưới phân
phối phù hợp sẽ là cơ sở để các sản phẩm của doanh nghiệp có thể đến tay người
tiêu dùng một cách dễ dàng, thuận lợi nhất. Đây cũng là một trong những yếu tố
quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ta có thể khẳng định chính sách và mạng lưới phân phối có vai trò quan
trọng trong hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Sau khi sản phẩm hoàn thành
và tung ra thị trường, giai đoạn tiếp theo của quá trình Marketing là xác định các
phương pháp và quãng đường hay lựa chọn kênh được sử dụng để vận chuyển hàng
hoá tới tay người tiêu dùng. Chính vì vậy một chính sách phân phối hợp lý sẽ làm
cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp an toàn, tăng cường được khả năng liên
kết trong kinh doanh giảm được sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu thông hàng
hoá nhanh và hiệu quả.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đầy sôi động hiện nay, một chính sách,
mạng lưới phân phối tốt là một yếu tố rất quan trọng để đưa doanh nghiệp đến thành
công. Nó giúp cho doanh nghiệp đạt được lợi thế dài hạn trong cạnh tranh, khi mà
các chiến dịch quảng cáo hay cắt giảm giá chỉ có lợi thế trong ngắn hạn, bởi các
doanh nghiệp khác cũng nhanh chóng làm theo dẫn đến lợi nhuận bị giảm sút hoặc
bằng không.
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Phạm Văn Vận
Việc xây dựng chính sách phân phối tốt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp:
• Tiêu thụ sản phẩm theo đúng kế hoạch và cá hợp đồng ký kết.
• Bảo đảm uy tín của doanh nghiệp, sự tin tưởng của khách hnàg và sự
gắn bó lâu dài với người tiêu dùng.
• Bảo đảm việc thu hút ngày càng nhiều khách hàng cho doanh nghiệp
thông qua công tác giao dịch phương thức phân phối, thủ tục giao nhận, thanh
toán… đối với khách hàng.
Tuy vậy, mỗi chính sách phân phối được áp dụng chỉ phù hợp trong một thời
điểm nhất định nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Vì vậy cần có bộ phận nghiên

cứu và đưa ra những chính sách phù hợp đối với từng thời kì góp phần thúc đẩy khả
năng tiêu thụ của doanh nghiệp.
6.7. Dịch vụ bán hàng và chăm sóc khách hàng
Dịch vụ khách hàng là cung cấp các dịch vụ cho khách hàng trước, trong và
sau khi mua hàng. Dịch vụ khách hàng là một loạt các hoạt động được thiết kế để
nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng đó là, cảm giác rằng một sản phẩm hoặc
dịch vụ đã đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng.
Tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng có thể thay đổi tùy theo sản phẩm
hoặc dịch vụ và khách hàng. Dịch vụ khách hàng đóng một vai trò quan trọng trong
khả năng của một doanh nghiệp để tạo ra thu nhập và doanh thu. Một hệ thống dịch
vụ khách hàng tốt: Gồm hệ thống bán hàng, hệ thống chăm sóc khách hàng trước
trong và sau bán hàng sẽ quyết định rất nhiều đến sự hài lòng của khách hàng đối
với sản phẩm họ sử dụng. Một trải nghiệm dịch vụ khách hàng có thể thay đổi toàn
bộ nhận thức của khách hàng về doanh nghiệp. Đó sẽ là một trong những yếu tố
quan trọng để xây dựng nên mạng lưới khách hàng trung thành và tin cậy đối với
doanh nghiệp, là một trong những yếu tố quyết định sự tăng trưởng, sống còn của
công ty.
Ở Việt Nam dịch vụ khách hàng chưa được coi trọng đúng mức. Thể hiện ở
chỗ: Khả năng giao tiếp với khách hàng còn yếu, dịch vụ bán hàng, chăm sóc khách
hàng còn sơ sài có khi còn bỏ qua. Khách hàng chưa thật sự hài lòng đối với sản
phẩm dịch vụ mình đang sử dụng. Điều đó gây nên sự thiếu trung thành của khách
hàng đối với sản phẩm dịch vụ của công ty, họ sẽ không tin tưởng vào sản phẩm
SV: Ngô Đức Cầm Lớp: Kế hoạch 51A
21

×