Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 76 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại

ĐÁNH GIÁ MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ CỦA VIỆT NAM
TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT SẢN PHẨM
CÔNG NGHỆ CAO VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Họ và tên sinh viên :Chu Thành Đạt
Mã sinh viên : 1111110538
Lớp : Anh 13 - Khối 4 KT
Khóa : 50
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : ThS. Đinh Hoàng Minh

Hà Nội, tháng 5 năm 2015


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ VÀ LĨNH VỰC
SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHỆ CAO 4
1.1. Tổng quan về môi trƣờng đầu tƣ 4
1.1.1. Định nghĩa về môi trường đầu tư 4
1.1.2. Tính chất của môi trường đầu tư 5
1.1.3. Yếu tố cấu thành môi trường đầu tư của một quốc gia 6


1.1.4. Vai trò của việc nghiên cứu môi trường đầu tư đối với từng quốc gia 10
1.2. Tổng quan về lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao 10
1.2.1. Sản phẩm công nghệ cao và các khái niệm liên quan 10
1.2.2. Các tính chất của ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao 12
1.2.3. Sự cần thiết của việc phát triển công nghệ cao và lĩnh vực sản xuất sản
phẩm công nghệ cao hiện nay 13
1.2.4. Phân loại công nghệ cao và ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao 14
1.3. Môi trƣờng đầu tƣ trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao 16
1.3.1. Hệ thống hành chính và luật pháp 16
1.3.2. Kinh tế cơ bản 17
1.3.3. Lao động 17
1.3.4. Cơ sở hạ tầng 18
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ TRONG LĨNH VỰC
SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHỆ CAO CỦA VIỆT NAM 19
2.1. Toàn cảnh các ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam 19
2.1.1. Sự phát triển của các ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt
Nam 19


2.1.2. Những địa điểm thu hút ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại
Việt Nam 23
2.1.3. Các nhà đầu tư chính trong ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao
tại Việt Nam 24
2.2. Phân tích môi trƣờng đầu tƣ trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công
nghệ cao tại Việt Nam 27
2.2.1. Hệ thống hành chính và luật pháp 27
2.2.2. Kinh tế vĩ mô cơ bản 34
2.2.3. Lao động 37
2.2.4. Cơ sở hạ tầng 43
2.3. Đánh giá về các nhân tố cấu thành lên môi trƣờng đầu tƣ trong lĩnh

vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam 50
2.3.1. Các nhân tố tác động tích cực lên lĩnh vực sản xuất sản phẩm công
nghệ cao tại Việt Nam 50
2.3.2. Các nhân tố tiêu cực tác động lên lĩnh vực sản xuất sản phẩm công
nghệ cao tại Việt Nam 52
CHƢƠNG 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM CẢI THIỆN MÔI TRƢỜNG
ĐẦU TƢ TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHỆ CAO
TẠI VIỆT NAM 54
3.1. Dự đoán xu hƣớng đầu tƣ vào Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất sản
phẩm công nghệ cao thời gian tới 54
3.2. Những kiến nghị nhằm cải thiện môi trƣờng đầu tƣ trong lĩnh vực sản
xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam 55
3.2.1. Khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ cao,
chuyển giao công nghệ cao 55
3.2.2. Cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng nói chung và hạ tầng lĩnh vực công
nghệ cao nói riêng 56


3.2.3. Đơn giản, minh bạch hệ thống hành chính và pháp luật liên quan đến
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, sản xuất sản phẩm công nghệ cao 59
3.2.4. Cải thiện hệ thống giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng tay nghề 60
3.2.5. Tăng cường thực thi pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ 62
3.2.6. Sử dụng các chính sách vĩ mô thích hợp để duy trì nền kinh tế phát
triển ổn định, tránh lạm phát 63
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67






DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Nghĩa Tiếng Việt
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
FDI
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ILO
Tổ chức Lao động Thế giới
OECD
Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
WEF
Diễn đàn kinh tế Thế giới
UN
Liên hợp quốc
UNCTAD
Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển
UNIDO
Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc






DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH MINH HỌA
Bảng biểu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Một số thống kê về ba khu công nghệ cao cấp quốc gia tại Việt
Nam
23
Bảng 2.2: Phân bổ của các loại hình sở hữu doanh nghiệp trong một số lĩnh
vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao
25
Bảng 2.3: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam và một số
quốc gia trong khu vực
30
Bảng 2.4: Một số chỉ số kinh tế quan trọng của Việt Nam giai đoạn 1986-
2008
35
Bảng 2.5: Một số chỉ số kinh tế quan trọng của Việt Nam giai đoạn 2009-
2013
36
Bảng 2.6: Tổng quan về xếp hạng cơ sở hạ tầng một số nước ASEAN
2009-2014
43
Bảng 2.7: Cơ sở hạ tầng giao thông của một số nước ASEAN năm 2012
44
Bảng 2.8: Số dự án đã được cấp phép đầu tư trong lĩnh vực sản xuất sản
phẩm công nghệ cao tại hai khu công nghệ cao Hòa Lạc và TP. Hồ Chí
Minh
48

Hình và biểu đồ minh họa

Tên hình
Trang
Hình 2.1: Lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam và một
số quốc gia khác giai đoạn 2000-2009
20
Hình 2.2: Thuế suất thu nhập doanh nghiệp ưu đãi dành cho các doanh
nghiệp công nghệ cao
31
Hình 2.3: Tổng lực lượng lao động ở Việt Nam 2010 - 2014
37


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính thiết thực của đề tài:
Thế kỉ 21 được đánh giá là thế kỉ của sự phát triển vượt bậc về khoa học công
nghệ cũng như áp dụng các thành quả của chúng vào mọi mặt của cuộc sống. Các
sản phẩm chứa hàm lượng tri thức cao và quy trình sản xuất tinh vi như máy vi tính,
điện thoại thông minh, ti vi, máy ảnh…đã dần trở nên phổ biến và phục vụ đắc lực
con người. Có đến hàng tỉ sản phẩm như vậy được sản xuất mỗi năm, góp phần tạo
nên ngành sản xuất các sản phẩm công nghệ cao không ngừng lớn mạnh và tác động
không nhỏ đến nền kinh tế trên toàn thế giới.
Với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, Việt Nam đang dần trở
thành một điểm đến hấp dẫn dành cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất các
sản phẩm này. Những cái tên như Samsung, Microsoft, Intel…đã đặt nhiều nhà máy
tại Việt Nam cùng với các dây chuyền sản xuất hiện đại; góp phần không nhỏ vào
việc nâng cao giá trị xuất khẩu của cả nước cũng như giải quyết công ăn việc làm
cho một bộ phận người lao động. Chỉ tính riêng trong năm 2014, hai nhóm hàng
trong nhóm sản phẩm công nghệ cao là Điện thoại các loại và linh kiện và Máy vi

tính, sản phẩm điện tử và linh kiện lần lượt đứng vị trí thứ nhất và thứ ba về kim
ngạch xuất khẩu cả năm, đạt con số 23,6 tỉ USD và 11,4 tỉ USD, với tốc độ tăng
trưởng ổn định về kim ngạch trên 7% mỗi năm (Tổng cục thống kê, 2015). Theo
định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mà Việt Nam đang theo
đuổi, lĩnh vực công nghệ cao cũng được chú trọng và dành rất nhiều ưu đãi để phát
triển. Điều đó cho thấy sự quyết tâm to lớn từ chính phủ mong muốn thu hút nhiều
hơn các dự án đầu tư sản xuất thuộc lĩnh vực này tại Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh các thuận lợi về yếu tố lao động và ưu đãi thuế, môi
trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn tồn đọng rất nhiều những trở ngại ngăn cản các
doanh nghiệp ra quyết định đầu tư vào các thị trường mới. Trình độ khoa học kĩ
thuật trong nước còn lạc hậu, chất lượng cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo, hệ thống luật
pháp chưa hoàn chỉnh…là một trong số những nhân tố tiêu cực làm giảm sự hấp
dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Trong những nằm gần đây, dòng vốn đầu tư
2

vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao luôn tăng mạnh, cùng với đó là xu
hướng dịch chuyển cứ điểm sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia lân cận như
các nước ASEAN vẫn đang diễn ra từng ngày. Việt Nam cần phải nhanh chóng
đánh giá khách quan về môi trường đầu tư trong lĩnh vực này tại thời điểm hiện tại,
từ đó từng bước khắc phục và cải thiện để mở ra nhiều cơ hội đón các nhà đầu tư
vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao và dần trở thành trung tâm sản xuất
loại sản phẩm này của cả thế giới.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Đánh giá môi trường đầu tư của Việt
Nam trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao và một số kiến nghị” làm
đề tài cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: môi trường đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực sản
xuất sản phẩm công nghệ cao.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt không gian: nghiên cứu tập trung vào những yếu tố cấu thành lên môi

trường đầu tư và lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam.
- Về mặt thời gian: nghiên cứu phân tích các số liệu trong vòng 5 năm từ 2010
đến 2014 và đưa ra các đề xuất kiến nghị cho giai đoạn đến năm 2020, thời
điểm Việt Nam có mục tiêu vươn lên thành quốc gia công nghiệp theo hướng
hiện đại.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của khóa luận này là đưa ra cái nhìn tổng quan về môi trường đầu tư
ở Việt Nam nói chung, và trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao nói
riêng. Đồng thời thông qua những đánh giá chính xác về các nhân tố tác động tích
cực, tiêu cực lên môi trường đầu tư trong lĩnh vực này tại Việt Nam, bài nghiên cứu
cũng đề xuất những kiến nghị hợp lí nhằm cải thiện chất lượng hoạt động đầu tư,
thu hút thêm nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia vào lĩnh vực này.

3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận này được nghiên cứu dựa trên phương pháp tiếp cận định tính cũng
như các phương pháp nghiên cứu tích hợp như thống kê, phân tích, tổng hợp, so
sánh…kết hợp giữa lí thuyết và thực tế.
Thông tin, số liệu thống kê và kết quả được thu thập và xử lí từ các nguồn tin
cậy bao gồm tài liệu giáo trình, sách hướng dẫn, các ấn phẩm chính thức và các
trang website uy tín.
5. Bố cục của bài khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận được chia làm ba phần, bao gồm:
- Chương 1: Tổng quan về môi trường đầu tư và lĩnh vực sản xuất sản phẩm
công nghệ cao
- Chương 2: Môi trường đầu tư trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ
cao tại Việt Nam
- Chương 3: Những kiến nghị nhằm cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực

sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam

4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ VÀ LĨNH VỰC
SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHỆ CAO

1.1. Tổng quan về môi trƣờng đầu tƣ
1.1.1. Định nghĩa về môi trƣờng đầu tƣ
Đầu tư là hành động bỏ vốn bằng tài sản ngày hôm nay nhằm mục đích trong
tương lai thu được lợi nhuận. Trong quá trình đó môi trường đầu tư đóng vai trò
như chất xúc tác ban đầu cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn đầu tư của các nhà
đầu tư.
Môi trường đầu tư là thuật ngữ được nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế - kinh
doanh ở nhiều nước và nhiều thời kì trên thế giới. Theo nhận định của World Bank,
môi trường đầu tư được định nghĩa: “Môi trường đầu tư của một nước là môi
trường dành cho hoạt động kinh tế tư nhân. Chất lượng của môi trường đầu tư
được quyết định dựa vào mức độ rủi ro và chi phí giao dịch của việc đầu tư và vận
hành kinh doanh mà trước tiên được quy định bởi khung pháp lí, các rào cản và các
điều kiện cho thị trường lao động, tài chính, công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng và
các đầu vào sản xuất. Chính phủ tác động đến môi trường đầu tư thông qua các
chính sách, pháp chế và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế tư nhân.” (World
Bank, 2005). Định nghĩa này nhìn nhận khái niệm môi trường đầu tư dưới góc độ
mối quan hệ giữa chính phủ và các thành phần kinh tế tư nhân, yếu tố này là quan
trọng nhất và tác động to lớn đến các yếu tố còn lại như thị trường lao động, cơ sở
vật chất hạ tầng…
Định nghĩa theo giáo trình Đầu tư quốc tế có nói “môi trường đầu tư là tổng
hòa các yếu tố bên ngoài có liên quan đến hoạt động đầu tư như chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, phát luật, tài chính, cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, lợi thế của
một quốc gia có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà đầu

tư.” (Vũ Chí Lộc, 2012, tr.142). Như vậy, môi trường đầu tư được xem là tập hợp
của nhiều yếu tố cấu thành có thể làm tăng khả năng sinh lãi (hoặc rủi ro) cho các
nhà đầu tư. Chúng có tác động và chi phối mạnh mẽ đối với các hoạt động đầu tư
5

sản xuất kinh doanh, buộc nhà đầu tư phải tự điều chỉnh mục đích, hình thức, lĩnh
vực và sản phẩm cho thích ứng trước các cơ hội đầu tư và đạt hiệu quả lợi nhuận
cao nhất. Môi trường đầu tư thuận lợi sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư,
giảm thấp chi phí và rủi ro, tiềm năng thu lợi nhuận cao và nâng cao hiệu quả hoạt
động.
1.1.2. Tính chất của môi trƣờng đầu tƣ
1.1.2.1. Tính bình đẳng
Đầu tư là một trong các hoạt động chính của quá trình hội nhập quốc tế, ở đó
tồn tại sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư cũng như các quốc gia kêu gọi đầu tư. Sự
bình đẳng này thể hiện ở việc tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau đều phải được bảo đảm quyền lợi như nhau trước các yêu cầu và quy
định của pháp luật, cũng như phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ được pháp luật quy
định trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình.
Bình đẳng trong hoạt động đầu tư được coi là “điều kiện sống” của các doanh
nghiệp. Một môi trường đầu tư tốt, nhiều ưu đãi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung, ngược lại môi trường
đầu tư nhiều trở ngại sẽ hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp và giảm sự thu hút
đối với các nhà đầu tư. Riêng trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, một môi trường đầu tư
bình đẳng sẽ hoạt động dựa trên 2 nguyên tắc:
- Nguyên tắc đối xử quốc gia trong hoạt động đầu tư – Nguyên tắc NT
(National Treatment): nước tiếp nhận đầu tư cam kết dành các điều kiện đầu
tư thuận lợi cho các nhà đầu tư đến từ quốc gia khác không kém hơn những
điều kiện mà nhà đầu tư nội địa được hưởng.
- Nguyên tắc Tối huệ quốc trong hoạt động đầu tư – Nguyên tắc MFN
(Most Favoured Nations): một nước sẽ dành các điều kiện ưu đãi cho các nhà

đầu tư của quốc gia khác, không kém hơn các ưu đãi mà họ dành cho các nhà
đầu tư ở quốc gia thứ ba khác khi họ tiến hành đầu tư trên lãnh thổ quốc gia
mình.

6

1.1.2.2. Tính cạnh tranh
Tính cạnh tranh của môi trường đầu tư là sự so sánh, khác biệt trong môi
trường đầu tư ở những tiêu chí khác nhau. Các môi trường đầu tư đều có các điểm
mạnh, điểm yếu về khía cạnh nào đó gây thuận lợi hoặc khó khăn cho hoạt động
đầu tư và triển khai sản xuất kinh doanh. Tổng hòa các yếu tố đó tạo nên tính cạnh
tranh cho môi trường đầu tư và chỉ ra sự thu hút nổi bật của môi trường đầu tư quốc
gia này so với các quốc gia khác. Môi trường đầu tư thay đổi không chỉ giữa các
nước mà ngay cả trong nội bộ một nước. Điều này xuất hiện do sự khác biệt trong
cách thức quản lí của các quốc gia nói chung cũng như trong chính sách và hành vi
quản lí của từng địa phương nói riêng.
Trong thời đại hiện nay việc thu hút đầu tư là động lực to lớn để phát triển nền
kinh tế, các quốc gia đều phải tích cực xây dựng môi trường đầu tư trong nước đồng
đều và mang tính cạnh tranh cao với các nước trong khu vực và trên thế giới, từ đó
tập trung được các nhà đầu tư tiềm năng nhất triển khai hoạt động kinh doanh và
đóng góp vào sự phát triển của quốc gia mình. Đó cũng là lí do hàng năm, các tổ
chức quốc tế thường đưa ra các báo cáo đánh giá môi trường cạnh tranh cũng như
xếp hạng môi trường đầu tư của các quốc gia trên thế giới trên nhiều khía cạnh như
luật pháp, hành chính, ưu đãi đầu tư, cơ sở hạ tầng…để cung cấp thông tin rõ hơn
cho các nhà đầu tư xem xét, quyết định đầu tư vào quốc gia, vùng lãnh thổ nào có
tiềm năng sinh lợi lớn. Đối với cấp địa phương, ví dụ như ở Việt Nam, Phòng công
nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI) hàng năm đều thực hiện khảo sát và công
bố chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) để đánh giá môi trường đầu tư tại các
tỉnh cũng như xếp hạng dựa trên nhiều tiêu chí về khả năng và điều kiện thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước.

1.1.3. Yếu tố cấu thành môi trƣờng đầu tƣ của một quốc gia
Cách phân loại các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư được nghiên cứu và
xem xét khác nhau, tùy thuộc vào phạm vi, mục đích nghiên cứu, đối tượng và cả
cách người nghiên cứu tiếp cận vấn đề. Theo Hội nghị của Liên hợp quốc về
7

Thương mại và Phát triển (UNCTAD), môi trường đầu tư có thể được cấu thành từ
3 nhóm chính sau:
- Khung chính sách: bao gồm hệ thống các quy định tổ chức hành chính, hệ
thống luật pháp và chiến lược của nhà nước để điều hành hoạt động của nền
kinh tế quốc gia. Khung chính sách là một công cụ hữu hiệu để giúp các chính
phủ xác định vai trò của các vấn đề quan trọng nhằm xây dựng một môi
trường đầu tư hấp dẫn. Ngoài ra các nhà đầu tư cũng quan tâm trước tiên đến
yếu tố này vì khung chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh lợi
của nguồn vốn đầu tư, dưới các khía cạnh như tốc độ tăng trưởng của thị
trường, khả năng tiếp cận thị trường, sự tin cậy của người tiêu dùng…
- Các yếu tố kinh tế: là các bộ phận cấu thành của một nền kinh tế, cũng là
thước đo sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia. Một số nhân tố nổi bật như:
tính sẵn có của nguồn nguyên liệu, lao động, cơ sở hạ tầng, tài sản trí
tuệ…Với mục tiêu tối thượng của các nhà đầu tư là tạo ra lợi nhuận, các yếu tố
kinh tế là mục tiêu nghiên cứu và là mối quan tâm hàng đầu của bất kì nhà đầu
tư nào khi có dự định đầu tư vào một quốc gia nào đó.
- Các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh: bao gồm các hoạt động
kêu gọi và xúc tiến đầu tư, các biện pháp ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư
(miễn giảm thuế, ưu đãi về thủ tục cấp phép, ưu đãi thuê mặt bằng, cắt giảm
các khoản phí phải nộp…), các biện pháp nhằm giảm tiêu cực phí, cải thiện và
nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng. Các yếu tố này giúp nhà đầu tư yên
tâm hơn khi ra quyết định đầu tư, tăng tỉ lệ lợi nhuận và tránh khỏi các chi phí
hay rủi ro không cần thiết.
Bên cạnh cách tiếp cận của UNCTAD, còn có cách tiếp cận khác theo đó phân

chia môi trường đầu tư của một quốc gia theo các yếu tố sau:
- Chính trị và xã hội: bao gồm sự ổn định của chính trị, sự ủng hộ của quần
chúng, năng lực điều hành và phẩm chất đạo đức của đội ngũ lãnh đạo đất
nước, ý thức dân tộc và tinh thần tiết kiệm của nhân dân, mức độ an toàn và an
ninh trật tự xã hội… Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh
doanh trên một lãnh thổ. Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ có thể tạo điều kiện
8

tốt cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế không ổn định, xảy
ra xung đột sẽ tác động xấu và mang đến nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư trên
lãnh thổ đó.
- Hệ thống hành chính và luật pháp: thể hiện tính chất đầy đủ, rõ ràng, công
bằng và đồng bộ của hệ thống pháp luật quốc gia, khả năng thực thi pháp luật,
những ưu đãi và hạn chế dành cho nhà đầu tư theo pháp luật, thủ tục hành
chính và hải quan. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh
nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó.
Bên cạnh đó các chính sách của nhà nước liên quan đến thuế, hoạt động đầu
tư, hoạt động kinh doanh, sử dụng lao động, nguyên tắc cạnh tranh…sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
- Kinh tế và tài nguyên: bao gồm các yếu tố chính sách kinh tế, các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội như GDP, GDP/người, GNP…; tỉ lệ tiết kiệm
quốc gia; dung lượng thị trường và sức mua của thị trường; tài nguyên thiên
nhiên và khả năng khai thác; tính cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế; tình
hình buôn lậu và khả năng kiểm soát; chính sách bảo hộ nội địa; hệ thống
thông tin kinh tế…Mỗi quốc gia thường áp dụng một chính sách kinh tế riêng
tùy thuộc vào trình độ phát triển và các mục tiêu phát triển mà quốc gia đó
hướng tới. Một đất nước muốn tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước trước hết phải thực hiện chính sách kinh tế mở, hội nhập
với kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới.
- Tài chính: bao gồm các chính sách về tài chính (thu chi tài chính, mở tài

khoản, vay vốn, lãi suất…); các chỉ tiêu đánh giá nền tài chính quốc gia (cán
cân thương mại quốc tế, cán cân thanh toán quốc tế, nợ quốc gia, tỉ lệ lạm
phát), tỉ giá hối đoái và khả năng điều chỉnh của nhà nước, hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng…Không một dự án đầu tư nào lại không liên quan đến
giải quyết vốn, tín dụng và giám sát điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ do đó
để hoàn thiện môi trường đầu tư không thể không tạo ra một môi trường tài
chính lành mạnh và một hệ thống ngân hàng làm việc hiệu quả.
- Cơ sở hạ tầng: bao gồm tổng thể các công trình kiến trúc và yếu tố phục vụ
đời sống và đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể kể ra như hệ
9

thống đường sá, cầu cống, sân bay, cảng…; mức độ thỏa mãn các dịch vụ
điện, nước, bưu chính viễn thông, khách sạn…khả năng thuê đất và sở hữu
nhà, chi phí dịch vụ liên quan đến bất động sản…
- Lao động: bao gồm nguồn cung và cầu lao động, chi phí nhân công lao động,
trình độ của đội ngũ lao động và quản lí lao động, cường độ lao động và năng
suất lao động, hệ thống giáo dục đào tạo tay nghề cho lao động…Trước đây
nguồn lao động dồi dào và giá rẻ được coi là điểm cạnh tranh, thu hút các nhà
đầu tư khi thực hiện đầu tư vào các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế còn
yếu kém. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay khi khoa học kĩ thuật phát triển
làm đẩy nhanh quá trình tự động hóa và nâng cao năng suất lao động, nước
nào có đội ngũ lao động được đào tạo với trình độ khoa học và chuyên môn
cao được xem là một lợi thế to lớn. Tình hình đó đòi hỏi các quốc gia có lợi
thế về nguồn lao động giá rẻ nhưng trình độ của người lao động chưa cao cần
phải đưa ra đối sách phù hợp để vẫn giữ được thế cạnh tranh về yếu tố này.
- Quan hệ quốc tế: quan hệ ngoại giao của chính phủ, quan hệ thương mại,
hợp tác kinh tế quốc tế (tham gia vào các khối kinh tế, diễn đàn kinh tế thế
giới), mức độ mở cửa về kinh tế và tài chính với thị trường bên ngoài…
Các yếu tố cấu thành có mối quan hệ bền chặt và tác động qua lại lẫn nhau tạo
nên bức tranh toàn cảnh về môi trường đầu tư của mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu cụ

thể các yếu tố cấu thành này giúp chính phủ các nước cải thiện hơn nữa môi trường
đầu tư của nước mình trong việc thu hút đầu tư nhằm mục tiêu phát triển đất nước.
Bài khóa luận này sẽ sử dụng cách phân loại thứ hai để phù hợp với cách tiếp
cận và nghiên cứu về môi trường đầu tư trong một lĩnh vực sản xuất cụ thể. Hơn
thế, nội dung phân tích sẽ chỉ tập trung vào một số yếu tố quan trọng, có tác động
đáng kể đến việc hình thành, duy trì cũng như phát triển lĩnh vực sản xuất sản phẩm
công nghệ cao của Việt Nam.



10

1.1.4. Vai trò của việc nghiên cứu môi trƣờng đầu tƣ đối với từng quốc gia
Lợi thế so sánh và trình độ phát triển kinh tế của các nước không giống nhau
dẫn đến chi phí bỏ ra để sản xuất các sản phẩm khác nhau ở từng nước. Cho nên
việc nghiên cứu môi trường đầu tư của các quốc gia để có thể tận dụng, khai thác
lợi thế so sánh của các quốc gia nhằm giảm thiểu chi phí, tăng lợi nhuận.
Nghiên cứu môi trường đầu tư giúp nước sở tại hoàn thiện môi trường kinh tế,
đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Lịch sử phát triển kinh tế thế
giới đến nay đã chứng minh rằng các nước kém và đang phát triển có điều kiện phát
triển kinh tế tương đồng, do lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế và khả năng tạo
ra môi trường đầu tư khác nhau lại phát triển khác nhau. Nhiều nước thực hiện
chiến lược kinh tế mở và biết tạo ra môi trường kinh tế, môi trường đầu tư thuận lợi
đã mau chóng trở thành các nước công nghiệp mới (NICs), một số khác lại không
nắm bắt thời cơ, bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển đã đẩy nền kinh tế quốc gia mình lâm
vào cảnh lạc hậu, trì trệ.
Nghiên cứu môi trường đầu tư sẽ giúp các lãnh đạo quốc gia có định hướng
đúng đắn cho việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Muốn tăng cường thu hút
vốn đầu tư vào quốc gia mình thì các chiến lược phát triển đất nước phải hướng tới
việc tạo ra môi trường đầu tư có tính cạnh tranh cao, có triển vọng lớn trong việc

mang lại lợi nhuận khi đầu tư sản xuất kinh doanh.
1.2. Tổng quan về lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao
1.2.1. Sản phẩm công nghệ cao và các khái niệm liên quan
1.2.1.1. Công nghệ cao
Khái niệm về công nghệ cao (high-tech hay high technology) xuất hiện vào
những thập niên cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 với sự ra đời của nền khoa học hiện
đại mà đặc trưng là “Thuyết tương đối” và “Thuyết lượng tử”. Ngày nay, khái niệm
này được sử dụng phổ biến trong cả lĩnh vực khoa học kĩ thuật và trong đời sống
kinh tế - xã hội.
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đưa ra một định nghĩa khái quát về
công nghệ cao như sau: “Công nghệ cao là các công nghệ có tỷ lệ chi cho nghiên
11

cứu và phát triển lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với quốc gia, các sản phẩm và quy
trình công nghệ được đổi mới nhanh chóng, có tác động mạnh mẽ đối với sự hợp
tác và cạnh tranh quốc tế trong hoạt động nghiên cứu và phát triển, sản xuất và
chiếm lĩnh thị trường trên quy mô toàn thế giới.” (OECD, 1997). Hầu hết các quốc
gia trên thế giới đều thống nhất sử dụng khái niệm về công nghệ cao này theo
OECD. Tuy nhiên tùy vào trình độ phát triển kinh tế mỗi nước, những tiêu chí về
công nghệ cao như tỉ lệ doanh thu chi cho nghiên cứu và phát triển, nhân lực nghiên
cứu được quy định khác nhau theo luật pháp mỗi nước.
Tại Mỹ và Nhật Bản, công nghệ cao được hiểu với nghĩa là Công nghệ tiên
tiến, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng cao, có
đổi mới quan trọng; là công nghệ yêu cầu nhân lực lao động ở trình độ cao trong
toàn bộ quá trình từ nghiên cứu – thiết kế - chế tạo sản phẩm. Các nước này có cùng
chung góc nhìn với OECD, công nghệ cao còn đòi hỏi là công nghệ có chi phí
nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm, sản xuất và phân phối sản phẩm ra thị trường rất
tốn kém.
Ở Việt Nam, định nghĩa về công nghệ cao được quy định cụ thể trong một số
văn bản pháp luật. Luật Công nghệ cao (2008) cho rằng “Công nghệ cao là công

nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích
hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng,
tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan
trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành
sản xuất, dịch vụ hiện có.”
Có thể nhận thấy định nghĩa các các tổ chức quốc tế cũng như của các nước
đều có chung một nhận định là công nghệ cao là loại công nghệ yêu cầu sự tập
trung cao độ về mặt tri thức, sử dụng kĩ thuật tiên tiến hiện đại và nó ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Công nghệ cao bao hàm cả
ba tiêu chí: Hiệu quả cao, giá trị cao và độ thâm nhập cao.


12

1.2.1.2. Sản phẩm công nghệ cao
Các nước OECD và một số nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương (Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan…) coi sản phẩm công nghệ cao là các sản
phẩm hoàn toàn mới có chất lượng và tính năng vượt trội so với sản phẩm thế hệ
trước, được sản xuất nhờ ứng dụng các thành tựu công nghệ cao.
Sản phẩm công nghệ cao theo Luật Công nghệ cao của Việt Nam (2008) có
nghĩa như sau: “Sản phẩm công nghệ cao là sản phẩm do công nghệ cao tạo ra, có
chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.”
Công nghiệp công nghệ cao là ngành công nghiệp tham gia sản xuất các sản
phẩm công nghệ cao, đặc trưng bởi sự cải tiến liên tục về công nghệ và sản phẩm.
1.2.2. Các tính chất của ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao
Ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao trên thế giới nhìn chung có một số
đặc điểm chủ yếu sau:
- Là ngành tiếp nhận hiệu quả nhất các thành tựu tiên tiến của khoa học và
công nghệ, có khả năng biến đổi tri thức thành các tài sản (hữu hình và vô
hình) nhanh nhất. Ngành này tạo ra các sản phẩm phức tạp về cấu tạo, đa dạng

về tính năng, thuận tiện cho sử dụng, tiêu dùng hiệu quả về kinh tế do có ưu
thế vượt trội về hàm lượng khoa học, có tiềm năng thị trường lớn.
- Là địa chỉ thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn cũng như thu hút được nhiều
nhân tài, nhân lực trình độ cao, đồng thời cũng là các nhà đặt hàng lớn cung
cấp tài chính cho các viện nghiên cứu khoa học, các học viện, trường đại học.
Do đó, năng suất lao động trong ngành này tương đối cao do sử dụng hàm
lượng trí tuệ công nghệ, kĩ năng và thông tin cao hơn hẳn các ngành công
nghiệp thông thường.
- Là ngành sử dụng ít nhiên liệu, tiêu tốn ít năng lượng tuy nhiên ngành này lại
chứa ẩn nhiều rủi ro, thất bại do phải mạo hiểm đầu tư lớn cho đổi mới công
nghệ và chi phí lớn khi tìm kiếm thị trường mới. Hơn nữa trong tương lai sẽ
chịu sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trong cùng ngành do sự hấp dẫn của
nguồn lợi nhuận khổng lồ nếu thành công.
13

1.2.3. Sự cần thiết của việc phát triển công nghệ cao và lĩnh vực sản xuất sản
phẩm công nghệ cao hiện nay
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ,
tác động đến mọi nền kinh tế cũng như ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân tại
mọi quốc gia. Nhiều tri thức và công nghệ mới ra đời làm thay đổi bộ mặt của cả
nền sản xuất, mở ra hướng đi mới phát triển đột phá và đóng góp vai trò lớn khẳng
định vị thế của nhiều quốc gia. Có thể tóm tắt vai trò của công nghệ cao và công
nghiệp công nghệ cao qua các ý sau đây:
- Nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí,
giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám
trong cấu tạo sản phẩm,… Nhiều sản phẩm mới ra đời phong phú, đa dạng, đa
năng, mẫu mã, hình dáng đẹp hơn. Vòng đời của các sản phẩm cũng được rút
ngắn đi đáng kể. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện
nay thực chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao
chất lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực.

- Bảo đảm phát triển kinh tế xã hội nhanh và bển vững: ngành công nghiệp
công nghệ cao tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, hàm lượng tri thức
cao dẫn đến giá trị về lợi nhuận mang lại cho nhà sản xuất cũng như quốc gia
sản xuất là rất lớn. Sự phát triển đột phá về kinh tế của mỗi quốc gia đều quyết
định bởi trình độ khoa học kĩ thuật cũng như các ngành công nghiệp sản xuất
hiện đại của quốc gia đó. Trong thời đại chuyển dịch mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học kiểu cũ dựa vào bóc lột sức lao động và tàn phá môi trường tự
nhiên là chính sang cuộc cách mạng khoa học kiểu mới hướng tới nâng cao
năng suất lao động, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao chất lượng cuộc
sống con người, có thể nói công nghệ cao là hướng phát triển tiên tiến và lâu
dài của nhân loại.
- Thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế:
Việc nhanh chóng áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật hướng tới xây
dựng nền sản xuất và tiêu dùng hiện đại, tập trung, tạo ra thêm nhiều của cải
vật chất. Lĩnh vực công nghệ cao sử dụng lao động trình độ chuyên môn cao,
14

ít sử dụng nguyên nhiên liệu, đầu tư rất nhiều cho công tác nghiên cứu và phát
triển nên được coi là lĩnh vực trụ cột tập trung phát triển trong định hướng của
nhiều quốc gia.
1.2.4. Phân loại công nghệ cao và ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao
Mỗi quốc gia khác nhau có quy định về phân loại lĩnh vực công nghệ cao và
ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao khác nhau tùy thuộc vào chiến lược phát
triển của từng quốc gia. Đến nay OECD đã cơ bản thống nhất với nhau có 6 lĩnh
vực công nghệ cao sau đây để nghiên cứu và phát triển trong thế kỉ 21:
1.2.4.1. Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là công nghệ dựa trên các ngành điện tử, điện toán,
truyền thông, vật liệu mới Sản phẩm chủ yếu của ngành công nghệ thông tin là
máy tính, mạng máy tính Internet, hệ thống thông tin liên lạc đa phương tiện
(Multimedia), hầu như toàn bộ các dụng cụ , thiết bị, máy móc trong lĩnh vực tự

động hóa, điều khiển từ xa
1.2.4.2. Công nghệ sinh học
Công nghệ sinh học bao gồm nhiều ngành khoa học nghiên cứu như sinh học
phân tử, di truyền học, vi sinh vật, sinh hóa nhằm tạo ra các công nghệ khai thác ở
quy mô công nghiệp các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào thực vật và động vật.
Sản phẩm đặc trưng là giống cây, con, vi sinh vật có chất lượng cao và các sản
phẩm chưa từng có dùng trong nông nghiệp, y tế, công nghiệp…
1.2.4.3. Công nghệ vật liệu mới
Công nghệ vật liệu mới là công nghệ dựa trên khoa học vật liệu, khoa học về
cấu trúc các hệ đông đặc, khoa học mô phỏng hệ thống nguyên tử Sản phẩm chủ
yếu của công nghệ vật liệu mới là vật liệu chức năng (vật liệu bán dẫn, siêu dẫn,
lade ), vật liệu chịu nhiệt, siêu cứng, siêu bền, vật liệu composit, nano Với công
nghệ nano, con người có khả năng thao tác vật liệu ở mức phân tử hay nguyên tử,
mở ra khả năng điều khiển cấu trúc vật liệu. Nó cho phép chế tạo các vật liệu có
tính năng rất đặc thù như thăm dò môi sinh hoặc xử lí thông tin. Vật liệu được thao
15

tác ở cấp nano sẽ có tiềm năng rất lớn do các tính chất hoàn toàn khác so với các vật
liệu đã phát minh ra trước đó.
1.2.4.4. Công nghệ năng lượng mới
Công nghệ năng lượng mới gồm một số ngành như năng lượng hạt nhân, địa
nhiệt, năng lượng mặt trời, năng lượng hải dương trong đó đặc biệt lợi dụng sự
phát triển của năng lượng hạt nhân và năng lượng mặt trời nhắm thoát khỏi sự phụ
thuộc vào năng lượng hóa thạch (dầu mỏ và than đá). Đến nay thì gần hết các quốc
gia rất coi trọng công nghệ hạt nhân và tập trung phát triển loại năng lượng này. Sản
phẩm của lĩnh vực này chủ yếu là nhà máy nhiệt, nhà máy điện hạt nhân, các
phương tiện giao thông dùng năng lượng hạt nhân, các thiết bị y tế dùng bức xạ hạt
nhân
1.2.4.5. Công nghệ hàng không vũ trụ
Công nghệ hàng không vũ trụ dựa trên các thành tựu hiện đại của khoa học về

Vũ trụ, về vật lí địa cầu, vật lí khí quyển và vùng lân cận trái đất, nghiên cứu về
thiên văn của Thái dương hệ, ngân hà Công nghệ hàng không vũ trụ tạo ra một
loạt các sản phẩm, dịch vụ chưa từng có: vệ tinh nhân tạo, tàu vũ trụ, tàu con thoi,
thông tin viễn thám, thông tin liên lạc toàn cầu, thông tin địa lí toàn cầu
1.2.4.6. Công nghệ hải dương
Công nghệ hải dương bao gồm việc sử dụng, khai thác tài nguyên sinh vật,
khoáng vật, hóa học, động lực trong lòng các đại dương.
Tại Việt Nam với điều kiện kinh tế và trình độ khoa học kĩ thuật như hiện tại,
Luật Công nghệ cao (2008) đưa ra bốn lĩnh vực công nghệ cao ưu tiên nghiên cứu,
ứng dụng và phát triển trong thời gian tới. Về cơ bản cách phân chia này giống với
một số lĩnh vực trong cách phân chia của OECD:
- Công nghệ thông tin
- Công nghệ sinh học
- Công nghệ vật liệu mới (trong đó có công nghệ nanô)
- Công nghệ tự động hóa (trong đó có công nghệ cơ điện tử, quang điện tử)
16

Đây cũng là những lĩnh vực đã được xác định trong các văn bản của Đảng và
Nhà nước, đã có quá trình phát triển và ứng dụng trong thực tiễn ở nước ta. Theo
quyết định số 66/2014/QĐ-TTg (2014), Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Danh
mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao
được khuyến khích phát triển. Danh mục này bao gồm tổng cộng 58 lĩnh vực công
nghệ cao và 114 sản phẩm công nghệ cao Việt Nam có điều kiện để nghiên cứu và
ứng dụng vào nhiều ngành nghề nhằm phục vụ phát triển kinh tế, quốc phòng an
ninh, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng đời sống cho người dân.
1.3. Môi trƣờng đầu tƣ trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao
Như đã trình bày ở phần 1.1.3, có nhiều yếu tố cấu thành lên môi trường đầu
tư của mỗi quốc gia. Với đặc điểm là sử dụng ít nguyên nhiên liệu và mặt hàng sản
xuất là sản phẩm công nghệ cao luôn được ưu tiên trong chính sách của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, một số yếu tố của môi trường đầu tư như tài nguyên, tài chính

hay quan hệ quốc tế không ảnh hưởng rõ rệt đến lĩnh vực này.
Do đó, bài khóa luận chỉ tập trung vào phân tích bốn yếu tố đặc trưng nhất và
có tác động sâu sắc nhất đến ngành này trên thế giới và tại Việt Nam. Đó là bốn yếu
tố: Hệ thống hành chính và luật pháp, kinh tế, lao động và cơ sở hạ tầng.
1.3.1. Hệ thống hành chính và luật pháp
Mục đích chính của các nhà đầu tư dù ở bất kì lĩnh vực nào cũng là việc bỏ
vốn ra ở hiện tại và kì vọng thu được lợi nhuận ở tương lai. Đặc biệt trong lĩnh vực
sản xuất sản phẩm công nghệ cao, số vốn cần cho đầu tư ở mức rất lớn vì ứng dụng
các thành tựu khoa học công nghệ mới nhất vào dây chuyền nghiên cứu hay sản
xuất sản phẩm rất tốn kém, lại ẩn chứa nhiều rủi ro mạo hiểm do là các công nghệ
lần đầu thử nghiệm và khó đo lường. Do đó, các nhà đầu tư thường tìm đến các khu
vực đầu tư có sự khuyến khích của nước sở tại về phát triển công nghệ cao. Các ưu
đãi hay những hạn chế được quy định trong hệ thống luật pháp dành cho nhà đầu tư
liên quan đến thuế, chi phí thuê bất động sản, quy định về tổ chức lao động, thủ tục
xuất nhập khẩu…ảnh hưởng to lớn đến tỉ suất sinh lợi, khả năng gia tăng hay giảm
thiểu các chi phí hay rủi ro trong quá trình đầu tư sản xuất sản phẩm.
17

Một đặc điểm của lĩnh vực này là các sản phẩm gắn liền với các thành tựu
khoa học kĩ thuật tiên tiến, do đó vấn đề về bản quyền luôn được chú trọng. Sự rõ
ràng, công bằng về luật sở hữu trí tuệ trong hệ thống luật cũng sẽ gây ấn tượng và
tạo sự an toàn cho nhà đầu tư khi thực hiện nghiên cứu – phát triển công nghệ mới,
sản phẩm mới tại quốc gia đó.
1.3.2. Kinh tế cơ bản
Nhìn chung, một môi trường đầu tư lành mạnh với tốc độ tăng trưởng ổn định
và bền vững của các chỉ số kinh tế vĩ mô sẽ là một động lực với các nhà đầu tư khi
ra quyết định đầu tư vào một quốc gia. Hơn nữa, sự ổn định kinh tế và chính trị sẽ
dẫn đến tăng trưởng bền vững, tạo điều kiện để cải thiện nhiều yếu tố khác liên
quan đến hoạt động đầu tư. Ngược lại, một môi trường kinh tế không ổn định sẽ tạo
ra nhiều khó khăn cản trở hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp.

Ngoài ra, các nước cởi mở hơn với nền kinh tế toàn cầu và hội nhập thương
mại quốc tế cũng sẽ có được sự quan tâm nhiều hơn từ các nhà đầu tư, đặc biệt là
trong các lĩnh vực sản xuất các sản phẩm với định hướng xuất khẩu ra thị trường
toàn cầu như sản phẩm công nghệ cao. Điều này được giải thích bởi thực tế là tự do
hóa thương mại và giảm các rào cản gia nhập thị trường sẽ cho phép các công ty
nước ngoài dễ dàng khai thác thị trường của nước chủ nhà dễ dàng hơn, giảm chi
phí sản xuất và luân chuyển nguyên vật liệu, thành phẩm qua biên giới.
1.3.3. Lao động
Như đã trình bày trong phần đặc điểm của lĩnh vực sản xuất sản phẩm công
nghệ cao, lĩnh vực này thu hút được nhiều nhân tài, nhân lực trình độ cao. Vì là lĩnh
vực sản xuất có liên quan mật thiết đến các tiến bộ về khoa học công nghệ trên thế
giới, chi phí dành cho nghiên cứu và phát triển luôn chiếm tỉ trọng cao, lĩnh vực này
luôn sở hữu nguồn lao động chất lượng cao nhất trong các ngành công nghiệp hiện
đại bây giờ.
Chi phí lưu chuyển lao động giữa các quốc gia là không nhỏ, hơn nữa không
thể bù đắp được về mặt quy mô, do đó các quốc gia có lợi thế về nguồn lao động
chất lượng cao sẽ chiếm được nhiều sự quan tâm của các doanh nghiệp trong lĩnh
18

vực công nghệ cao. Khâu nghiên cứu và phát triển luôn là khâu quan trọng nhất và
chiếm tỉ trọng giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi sản xuất sản phẩm, do đó các
quốc gia này sẽ thu được nguồn lợi lớn về cả mặt tăng thu ngân sách nhà nước,
cũng như thêm cơ hội để nâng cao hơn nữa trình độ lao động trong nước. Ngược lại
các quốc gia có mặt bằng lao động thấp, năng suất kém thường chỉ nhận các công
đoạn gia công cuối cùng ra thành phẩm của loại sản phẩm công nghệ cao, phần giá
trị thu được là không nhiều. Các nhà đầu tư cũng ít lựa chọn các quốc gia này để đặt
cơ sở nghiên cứu và sản xuất vì chi phí bỏ ra để đào tạo hoặc tìm kiếm lao động là
rất lớn.
1.3.4. Cơ sở hạ tầng
Các yêu cầu về cơ sở vật chất như hệ thống đường sá, cảng, sân bay, hệ thống

cung cấp năng lượng…đều là mối quan tâm của các nhà đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất bất kì loại sản phẩm nào. Chất lượng cơ sở hạ tầng ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng cung ứng nhiên liệu nguyên liệu cho các nhà máy phục vụ sản xuất cũng như
việc phân phối và tiêu thụ thành phẩm.
Đặc biệt hơn với sản phẩm công nghệ cao, việc sản xuất được chia thành
nhiều công đoạn và thường đặt ở các khu vực khác nhau khắp thế giới. Một sản
phẩm như máy tính, điện thoại, máy bay…được cấu thành từ rất nhiều các linh phụ
kiện khác nhau và chúng được sản xuất riêng biệt tại nhiều cơ sở trước khi được thu
gom lại về nhà máy lắp ráp thành phẩm. Do đó để trở thành một công đoạn trong
chuỗi sản xuất sản phẩm công nghệ cao trên quy mô toàn cầu, việc đồng bộ và hiện
đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng là rất cần thiết.


19

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ TRONG LĨNH VỰC
SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHỆ CAO TẠI VIỆT NAM

2.1. Toàn cảnh các ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam
2.1.1. Sự phát triển của các ngành sản xuất sản phẩm công nghệ cao tại Việt
Nam
Bước vào thập niên 90 của thế kỉ XX, bốn lĩnh vực thuộc công nghệ cao bao
gồm công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ
tự động hoá đã được đưa lên thành các chương trình khoa học và công nghệ trọng
điểm cấp nhà nước và được đầu tư triển khai trong suốt thời gian từ đó đến nay.
Mục tiêu hình thành bốn chương trình trọng điểm cấp nhà nước về công nghệ cao là
tập trung vào nghiên cứu, tiếp thu và làm chủ các công nghệ mới, ứng dụng trong
các ngành kinh tế quốc dân như: viễn thông, nông nghiệp, y tế, các ngành công
nghiệp, xây dựng, v.v Nhằm đưa nhanh hơn kết quả nghiên cứu và phát triển vào
sản xuất, bốn chương trình kỹ thuật - kinh tế về công nghệ thông tin, công nghệ sinh

học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa cũng đã được xây dựng và
triển khai thực hiện. Theo Quyết định số 842/QĐ-TTg (2011) của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt “Kế hoạch phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ
cao đến năm 2020”, một số hướng phát triển thuộc các lĩnh vực công nghệ cao như
sau:
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông: Công nghiệp sản xuất,
chế tạo pin, ắc quy có hiệu năng cao cho các thiết bị thông tin, di động và truyền
thông; hệ thống vi cơ điện tử (MEMS), hệ thống nano cơ điện tử (NEMS) và thiết
bị sử dụng hệ thống vi cơ điện tử, hệ thống nano cơ điện tử; màn hình độ phân giải
cao …
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học: Ứng dụng công nghệ sinh học trong
công nghiệp chế biến, trong sản xuất nhiên liệu sinh học, trong ngành hóa dược; sản
xuất các protein, enzym tái tổ hợp sử dụng trong dược phẩm, thực phẩm, công
nghiệp và xử lý môi trường; vắc xin ADN tái tổ hợp; vắc xin protein tái tổ hợp dùng

×