Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

ĐÁNH GIÁ CƯỜNG lực KHAI THÁC THỦY SẢN NHẰM QUẢN LÝ tốt hơn CÁC KHU BẢO tồn BIỂN TRƯỜNG hợp NGHIÊN cứu ở KHU BẢO vệ RẠN TRÀO XÃ VẠN HƯNG HUYỆN vạn NINH TỈNH KHÁNH hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.82 KB, 10 trang )

ĐÁNH GIÁ CƯỜNG LỰC KHAI THÁC THỦY SẢN NHẰM QUẢN LÝ TỐT HƠN CÁC
KHU BẢO TỒN BIỂN TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở KHU BẢO VỆ RẠN TRÀO XÃ
VẠN HƯNG HUYỆN VẠN NINH TỈNH KHÁNH HÒA
Trần Văn Hào
Phòng KT&BVNL TS, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3
Tel 0915.839.250 Email:
TÓM TẮT
Bài báo này tập trung nghiên cứu khảo sát và đánh giá cường lực khai thác ở vùng biển ven bờ huyện Vạn
Ninh, tỉnh Khánh Hòa nơi khu bảo vệ Rạn Trào được xây dựng. Với mục đích xác định các nghề khai thác có ảnh
hưởng lớn tới nguồn lợi ven bờ khu vực Rạn Trào, thời điểm những loại nghề này hoạt động mạnh trong năm. Đồng
thời, tính toán cường lực khai thác cho các nghề tại vùng biển ven bờ Vạn Ninh theo các tháng trong năm. Với các
giả thuyết của mô hình kinh tế sinh học cổ điển của Gordon (1954), tác giả đã tính toán cường lực khai thác cho
các nghề khai thác chính tại địa phương. Kết hợp với kết quả khảo sát, đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng
đồng (PRA) và phân tích tính chọn lọc của các loại ngư cụ, tác giả đã đưa ra những kết luận về cường lực khai thác
và tính chọn lọc của các loại hình ngư cụ tại địa phương và đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao tính chọn lọc,
thân thiện với môi trường và đảm bảo tính bền vững cho một số loại hình ngư cụ hoạt động khai thác thủy sản tại
vùng biển ven bờ huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu bảo vệ Rạn Trào thuộc xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa được hình
thành từ năm 2000 với sự hỗ trợ của Liên minh sinh vật biển quốc tế (IMA), tiền thân của Trung
tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD, và được MCD tiếp tục phát triển cho
tới nay. Qua hơn 10 năm hoạt động, với mục đích phục hồi rạn san hô, tái tạo và phát triển nguồn
lợi hải sản ở vùng biển Rạn Trào dựa vào cộng đồng ngư dân địa phương, khu bảo vệ Rạn Trào
cũng như người dân địa phương đã có những chuyển biến tích tực, đạt được nhiều kết quả khả
quan về cả môi trường và kinh tế xã hội được nhiều nhà quản lý, kinh tế và xã hội đánh giá cao
(UBND huyện Vạn Ninh, 2008). Tuy nhiên, do hầu hết các xã của Vạn Ninh đều phát triển mạnh
nghề khai thác thủy sản ven bờ, tổ chức sản xuất ở quy mô nhỏ, manh mún, mỗi chuyến biển
thường chỉ kéo dài 1 đến 3 ngày. Người dân đánh bắt tự do, ý thức bảo vệ nguồn lợi thủy sản của
người dân địa phương đã được cải thiện song vẫn còn hạn chế. Với khoảng hơn 3.000 tàu thuyền
lớn nhỏ các loại, hoạt động trên các loại hình khai thác chính là lưới kéo, lưới trũ, lưới rê, nghề
lưới vây, mành và lặn bắt Trong số đó, tàu khai thác ven bờ (<90 CV) chiếm tới 98%. Người


dân địa phương đã và đang sử dụng các loại hình ngư cụ xâm hại nghiêm trọng tới nguồn lợi
thủy sản ven bờ như lưới kéo đáy, lưới trũ. Thậm chí, vẫn còn có những hoạt động trên các nghề
thuộc diện cấm như sử dụng như sử dụng chất độc (xyanua), sử dụng kích điện Do đó, việc
đánh giá cường lực khai thác ở vùng biển ven bờ huyện Vạn Ninh nhằm thấy rõ thực trạng nghề
khai thác ở địa bàn địa phương và đưa ra các giải pháp nhằm quản lý tốt hơn khu bảo vệ Rạn
Trào là hết sức cần thiết. Việc đánh giá này cung cấp cơ sở khoa học trong công tác quản lý khu
bảo tồn và đề xuất các giải pháp phát triển nghề khai thác thủy sản bền vững cho khu vực này
trong tương lai.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp về tàu thuyền của Vạn Ninh được thu thập từ Chi cục Khai thác và Bảo vệ
Nguồn lợi Thủy sản tỉnh Khánh Hòa (nhóm trên 20 CV) và phòng Nông nghiệp huyện Vạn Ninh
(nhóm dưới 20 CV) bằng biểu mẫu điều tra. Số liệu sơ cấp được phỏng vấn trực tiếp người dân
địa phương bằng phiếu phỏng vấn. Kết hợp với khảo sát thực tế trên biển, nhằm quan sát thực tế
các loại hình ngư cụ hoạt động tại Vạn Ninh, đo đạc kích thước mắt lưới sử dụng và các đối
tượng khai thác chính của địa phương.
b. Tổ chức đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của cộng đồng
Tổ chức đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (Phương pháp PRA
theo Bishnu B. Bhadari, 2003) để lấy ý kiến của người dân địa phương về số ngày hoạt động của
các tháng trong năm, chỉ số CPUE, các loại hình ngư cụ xâm hại nguồn lợi và sự thay đổi về sản
lượng khai thác trong những năm gần đây tại Vạn Ninh.
c. Ước tính cường lực và sản lượng cường lực khai thác.
Cường lực khai thác thực tế: E = C * V (1) (FAO, 2002)
Trong đó: - E (Effort): tổng cường lực khai thác của một nghề hoặc của toàn bộ hoạt động khai
thác trong một đơn vị thời gian.
- C (Catchability): khả năng khai thác được tính toán đối với mỗi nghề hoặc toàn bộ hoạt động
khai thác tại thời điểm nghiên cứu hay số ngày hoạt động tiềm năng.
- V (Fishing Vessel): tổng số đơn vị nghề của nghề khai thác đó hoặc toàn bộ hoạt động khai thác
của vùng biển.
Sản lượng khai thác: Y = CPUE*E (2) (FAO, 2002)

- Y (Yield): Sản lượng khai thác của mỗi nghề hoặc của toàn bộ hoạt động khai thác tại thời điểm
nghiên cứu.
- CPUE (Catch Per Unit Effort): Sản lượng khai thác trên một đơn vị cường lực của mỗi loại
nghề được khảo sát.
d. Các giả thuyết
Việc tính toán và đánh giá cường lực khai thác cho một vùng biển nhỏ cố định như ở Rạn
Trào, Vạn Ninh được thực hiện dựa trên một số giả thuyết sau:
- Giả thuyết 1: Số lượng tàu thuyền khai thác tại vùng biển Vạn Ninh là không đổi trong
năm khảo sát (Ola Flaaten, 2011). Điều này có nghĩa là số lượng tàu thuyền tại Vạn Ninh đi ra
ngoài vùng biển ven bờ của địa phương (đi xa bờ hoặc sang địa phận vùng biển khác) đúng bằng
số lượng tàu thuyền của các địa phương khác (các địa phương lân cận như Ninh Hòa, Nha Trang
hay Vũng Rô (Phú Yên)) tới khai thác trong vùng biển Vạn Ninh.
- Giả thuyết 2: Để đơn giản hóa, đội tàu khai thác tại địa phương được giả định có tính
đồng nhất (homogeneous). Điều này có nghĩa là các tàu thuyền trong nhóm có chi phí và doanh
thu chuyến biển tương đối đồng đều. Giá bán cá không có dao động lớn trong năm và không bị
ảnh hưởng nhiều khi sản lượng đánh bắt tăng cao (Gordon, 1954)
- Giả thuyết 3: Để áp dụng cách tính toán này, nghề cá tại Vạn Ninh được mặc định là
hoạt động ở cơ chế tự do (open-access fisheries)
Năng lực đánh bắt và chỉ số CPUE
Ước định sản lượng đánh bắt theo cường lực khai thác
Cơ cấu đội tàu theo nhóm nghề, nhóm CV và theo địa phương
Đánh giá cường lực khai thác
Điều tra thông tin thứ cấp, sơ cấp về khai thác
Đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng đồng (PRA)
Khảo sát thực tế trên biển
Đánh giá tính chọn lọc của ngư cụ
Hình 1 . Khung phân tích của đề tài.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Cơ cấu, đặc điểm và trang thiết bị trên tàu cá ở huyện Vạn Ninh
Tính tới tháng 10 năm 2010, toàn huyện Vạn Ninh có 2.999 tàu thuyền các loại. Trong đó, có

1.240 tàu thuyền lắp máy loại từ 20 CV trở lên. Tập trung chủ yếu ở Đại Lãnh (376 chiếc), Vạn
Thắng (254 chiếc), Vạn Giã (239 chiếc), Vạn Thạnh (221 chiếc), Vạn Hưng (53 chiếc), Vạn Thọ
(43 chiếc), Vạn Long (25 chiếc), Vạn Lương (17 chiếc) và Vạn Phước (12 chiếc).
Bảng 1. Cơ cấu tàu thuyền huyện Vạn Ninh phân theo địa phương và theo công suất.
Địa phương
Nhóm công suất (Cv)
Tổng
< 20 (*) 20 – 44 45 – 89 ≥ 90
Đại Lãnh 164 206 118 52 540
Vạn Thắng 281 230 24 0 535
Vạn Giã 270 222 13 4 509
Vạn Thạnh 365 204 16 1 586
Vạn Hưng 358 51 2 0 411
Các xã khác 321 93 4 0 418
Tổng 1.759 1.006 177 57 2.999
(Nguồn: Chi cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản tỉnh Khánh Hòa; (*)Phòng NN huyện
Vạn Ninh, UBND các xã, thị trấn)
Tàu cá ở địa phương hoạt động chủ yếu trên các nghề lưới kéo (434 chiếc), lưới vây (490
chiếc) phổ biến với 03 hình thức vây rút chì, trũ rút và mành; lưới rê có 121 chiếc, tàu dịch vụ
thủy sản có 80 chiếc và nhóm nghề khác có 115 chiếc như nghề lặn, lồng bẫy, nghề xoi
Bảng 2. Cơ cấu tàu thuyền Vạn Ninh phân theo địa phương và theo nghề khai thác.
Địa phương
Loại nghề khai thác Tổng
Lưới kéo Lưới trũ Lưới rê Nghề câu Nghề khác
Đại Lãnh 96 209 32 12 27 376
Vạn Thắng 223 11 3 12 5 254
Vạn Giã 81 62 46 35 15 239
Vạn Thạnh 1 170 7 26 17 221
Vạn Hưng 23 3 12 7 8 53
Các xã khác 10 35 21 23 8 97

Tổng 434 490 121 115 80 1.240
(Nguồn: Chi cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi thủy sản tỉnh Khánh Hòa)
* Đặc điểm tàu thuyền
Hầu hết tàu thuyền của Vạn Ninh có kết cấu theo kiểu truyền thống, kích thước nhỏ, chiều dài
tàu từ 4,5 đến 14,0m, trung bình là 9,8m. Chiều rộng phổ biến từ 2,0 đến 4,0 m. Chiều cao của
tàu từ 0,5 tới 1,8m, trung bình là 1,2m. Các chỉ số về kích thước tàu thuyền được thể hiện ở bảng
3.
Bảng 3. Các chỉ số trung bình chỉ báo đặc điểm tàu nghề tại Vạn Ninh
Chỉ tiêu trung bình
Các chỉ số trung bình tàu thuyền phân theo nghề khai thác
Lưới kéo Lưới trũ Lưới rê Nghề câu
Công suất (CV) 32.7 28.5 16.1 14.2
Chiều dài (m) 10.6 11.3 6.0 6.6
Chiều rộng (m) 2.9 3.0 1.7 1.7
Chiều cao (m) 1.4 1.2 0.7 0.9
Số mẫu (N) 37 22 23 8
(Số liệu điều tra cấp hộ dân của đề tài)
* Trang thiết bị trên tàu
Mức độ đầu tư trang thiết bị trên tàu cá ở Vạn Ninh là tương đối đơn giản. Người dân chỉ mới
trang bị các dụng cụ cốt yếu, thực sự cần thiết theo đặc điểm hoạt động của từng loại tàu nghề và
cũng để phù hợp với khả năng kinh tế của người dân địa phương. Cụ thể, đối với nghề lưới kéo
84% trang bị máy định vị GPS và 81% trang bị máy khai thác (máy thu lưới “cảo”), do tính chất
công việc nên 100% tàu lưới trũ được trang bị máy dò cá. Riêng đối với máy thông tin liên lạc
thì 100% các tàu thuyền được trang bị. Nếu đi trong tuyến bờ, điện thoại di động được sử dụng
phổ biến nhất, nếu đi tuyến lộng sử dụng các máy thông tin liên lạc tầm gần như ICOM 3 và 6
băng, OWAI
3.2. Kết quả phỏng vấn nhanh về tính chọn lọc của các loại ngư cụ tại địa phương.
Nghề lưới kéo và nghề trũ là những nghề xâm hại nguồn lợi mạnh mẽ tại vùng biển Vạn
Ninh. Bên cạnh đó, các ý kiến cũng tập trung cho rằng, nghề lưới rê, nghề câu tay là những nghề
ít ảnh hưởng tới nguồn lợi ven bờ. Ngoài ra, một số hình thức khai thác hủy diệt vẫn còn tồn tại

một cách lén lút tại địa phương như: sử dụng chất độc xyanua, kích điện Tuy nhiên, số lượng
này là không nhiều và đang được sự đấu tranh, phản đối quyết liệt từ phía những người dân ven
biển tại địa phương.
Bảng 4. Kết quả khảo sát nhanh về mức độ xâm hại của các loại ngư cụ.
Loại nghề Cực kỳ xâm hại Rất xâm hại Có xâm hại Không xâm hại
Lưới kéo đáy 66% 23,4% 10,6% 0%
Lưới trũ 74,5% 14,9% 10,6% 0%
Cào bay 83% 12,8% 4,2% 0%
Lưới rê 0% 0% 10,6% 89,4%
Nghề câu 0% 0% 14,9% 85,1%
Lồng bẫy 0% 10,6% 14,9% 74,5%
Tổng số ý kiến (N) 47
(Số liệu khảo sát nhanh của đề tài)
3.3. Đánh giá cường lực khai thác tại vùng biển Vạn Ninh
Các tàu nghề tại Vạn Ninh thường đi biển từ 12 đến 25 ngày trong tháng, tùy theo đặc
điểm từng nghề. Trung bình mỗi tàu đi biển 19 ngày trong tháng. Trong đó, nghề câu và nghề rê
có số ngày khai thác trong tháng cao nhất. Mỗi tàu thuộc các nhóm nghề này thường đi biển trên
20 ngày trong tháng. Còn nghề lưới kéo chỉ đi khoảng 19 ngày trong tháng.
Bảng 5. Cường lực khai thác theo nghề tại thời điểm khảo sát
Nghề
Số
mẫu
C (ngày khai thác/tháng/tàu)
V (tàu)
E (ngày khai thác/tháng)
Max Min TB Max Min TB
Kéo
43
25 12.5 19.2 434 10.850 5.425 8.333
Trũ

34
21 13 16.4 490 10.290 6.370 8.036

33
23 17 20.5 121 2.723 2.118 2.481
Câu
27
23 18 20.8 115 2.645 2.128 2.392
TB 23 15 19 1160 26.535 17.835 22.301
(Số liệu điều tra, khảo sát nhanh của đề tài)
Với chỉ số CPUE khảo sát được trong tháng 4, bảng 7 thể hiện sản lượng ước định trong
tháng thông qua chỉ số CPUE của tháng. Theo đó, nghề lưới kéo và nghề trũ cho sản lượng khá
cao với lần lượt là 953 tấn và 545 tấn. Ngược lại, các nghề câu và rê có số ngày khai thác trong
tháng lớn. Tuy nhiên, do chỉ số CPUE thấp, số lượng tàu thuyền ít nên sản lượng của 2 nghề này
là rất thấp, với lần lượt là 62 và 12 tấn trong toàn vùng biển Vạn Ninh trong tháng 4/2011.
Bảng 6. Sản lượng khai thác tức thời theo nghề tại thời điểm khảo sát
Nghề
E (ngày khai thác)
CPUE
(kg/ngày)
Y (tấn)
Max Min TB Max Min TB
Lưới kéo 10.850 5.425 8.333 114,4 1.241 621 953
Lưới trũ 10.290 6.370 8.036 67,8 698 432 545
Nghề câu 2.723 2.118 2.481 25,1 68 53 62
Nghề rê 2.645 2.128 2.392 5,1 14 11 12
Toàn bộ 26.535 17.835 22.301 74,6 1.979 1.330 1.664
(Số liệu điều tra, khảo sát nhanh của đề tài)
Số ngày khai thác tiềm năng theo các tháng trong năm của từng nghề được thể hiện ở
hình 3. Theo đó, một điều dễ dàng nhận thấy là nghề cá của huyện Vạn Ninh có thời gian hoạt

động gần như quanh năm, đặc biệt là đối với nhóm nghề nhỏ, hoạt động ven bờ như rê, câu. Số
ngày khai thác trong tháng bắt đầu giảm ở tất cả các nghề bắt đầu từ đầu tháng 8 và giảm tới
điểm thấp nhất vào tháng 10 (tháng 9 âm lịch). Đây là thời điểm bắt đầu mùa mưa bão nên người
dân tập trung cho việc sửa chữa, nâng cấp tàu, lưới. Chuẩn bị cho mùa bám biển khai thác vào
đầu năm sau. Vào đầu vụ mới, hầu hết các nghề tập trung khai thác từ tháng 2 dương lịch. Số
ngày khai thác đạt tới đỉnh điểm từ tháng 3 tới tháng 8 dương lịch.
Hình 2. Khả năng khai thác của các nhóm nghề theo các tháng trong năm
Chi tiết số ngày khai thác của các tàu nghề theo các tháng trong năm được thể hiện qua bảng 8.
Theo đó, số ngày khai thác trong năm của nghề rê và nghề câu cao hơn so với các nghề khác. Hai
nghề này khai thác trên 20 ngày trong tháng suốt từ tháng 1 đến tháng 8 trong năm. Ngay cả vào
mùa mưa bão, hai nghề này cũng bám biển từ 10 đến 15 ngày mỗi tháng. Trong khi đó, nghề trũ
tập trung khai thác từ tháng 4 tới tháng 9; nghề lưới kéo tập trung khai thác từ tháng 2 tới tháng 8
dương lịch trong năm. Vào mùa mưa bão, nghề trũ và nghề giã chỉ đi biển 5 đến 7 ngày.
Bảng 7. Khả năng khai thác trung bình theo nghề các tháng trong năm
Tháng Số ngày khai thác trung bình các tháng trong năm theo
nghề khai thác (ngày khai thác/tàu)
Tổng số ngày khai thác
của toàn vùng biển (ngày)
Lưới kéo Lưới trũ Lưới rê Nghề câu
01
10 10 20 20 60
02 12 10 20 20 62
03 15 15 25 25 80
04 17 16 25 25 83
05 15 20 25 25 85
06 12 20 25 20 77
07 10 20 25 20 75
08 10 20 20 15 65
09 5 15 10 10 40
10 5 7 10 10 32

11 5 7 10 15 37
12 7 10 15 18 50
Trung
bình năm
10.3 14.2 19.2 18.6 62.2
Số mẫu
(N)
43 34 33 27 137
(Số liệu điều tra, khảo sát nhanh của đề tài)
Cường lực khai thác ở vùng biển Vạn Ninh tập trung khai thác từ tháng 2 dương lịch tới
tháng 8 trong năm. Cường lực khai thác đạt đỉnh điểm vào tháng 5 với trên 22,2 nghìn ngày khai
thác cho tất cả các nghề trên toàn vùng biển. Cường lực bắt đầu giảm mạnh vào mùa mưa bão từ
cuối tháng 8 (tháng 7 âm lịch) và đạt cực tiểu vào tháng 10 với chỉ gần 8.000 ngày khai thác.
Sang tháng 11, cường lực khai thác bắt đầu có dấu hiệu tăng cao nhờ sự đóng góp của các nhóm
nghề câu, rê ven bờ. Nghề lưới trũ có cường lực khai thác cao nhất và tập trung khai thác từ
tháng 4 đến tháng 9. Cường lực khai thác của nghề trũ đạt cực đỉnh trong 3 tháng là từ tháng 5
đến tháng 7 trong năm với mức gần 9.800 ngày khai thác/tháng. Cuối tháng 10, đầu tháng 11 là
thời gian nghề trũ ít đi khai thác nhất với chỉ số cường lực chỉ đạt 3.400 ngày khai thác/tháng.
Nghề lưới kéo là nghề có cường lực khai thác lớn thứ 2 ở vùng biển Vạn Ninh. Cường lực của
nghề kéo tập trung chủ yếu trong 3 tháng từ tháng 3 đến tháng 5 dương lịch. Nghề lưới kéo đạt
đỉnh điểm trong tháng 4 với gần 7,4 nghìn đơn vị cường lực. Mặc dù nghề câu và lưới rê có số
ngày khai thác trong tháng rất cao, gần như khai thác quanh năm. Tuy nhiên, do sản lượng đánh
bắt ít, chỉ số CPUE thấp và số lượng tàu thuyền ít nên cường lực của hai nhóm nghề này thấp
hơn nhiều so với nghề trũ và nghề lưới kéo. Vào mùa khai thác chính, cường lực của hai loại
nghề này cũng chỉ xấp xỉ 3 nghìn đơn vị cường lực. Còn vào mùa mưa bão, chỉ số cường lực của
hai nghề này chỉ đạt khoảng 1 nghìn đơn vị cường lực trong tháng.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
- Ở Vạn Ninh, tàu thuyền khai thác thủy sản tập trung chủ yếu ở các xã Vạn Thạnh, Đại Lãnh,
Vạn Thắng, Thị trấn Vạn Giã và xã Vạn Hưng. Trong đó, tàu thuyền của Vạn Hưng, Vạn Thắng

và thị trấn Vạn Giã có nhiều tàu thuyền tập trung khai thác xung quanh khu bảo vệ Rạn Trào.
Các nghề hoạt động chính là lưới kéo, lưới trũ, lưới rê, nghề câu, lồng mực, lặn
- Các trang thiết bị trên tàu cá khai thác Vạn Ninh là tương đối đơn giản. Người dân chỉ mua sắm
các trang thiết bị cốt yếu, phục vụ theo đặc điểm của từng loại nghề và cũng để phù hợp với khả
năng kinh tế của người dân địa phương.
- Tính chọn lọc của các loại hình ngư cụ đã và đang sử dụng tại đây là chưa cao. Trong đó phải
kể đến là lưới kéo đáy, giã cào bay và nghề trũ. Bên cạnh đó, vẫn còn các hình thức khai thác
xâm hại nguồn lợi như việc sử dụng trứng mực trong lồng bẫy mực, sử dụng xiệc điện vùng ven
bờ, sử dụng chất độc xyanua
- Về cường lực khai thác, người dân tập trung khai thác mạnh từ tháng 2 tới tháng 9 dương lịch.
Cường lực khai thác được đóng góp tích cực bởi nhóm lưới kéo và lưới trũ. Nghề trũ có cường
lực khai thác cao nhất từ tháng 5 tới tháng 8 dương lịch và đạt 9.800 ngày khai thác/tháng trong
khoảng thời gian này. Lưới kéo có cường lực lớn thứ hai nhưng tập trung từ tháng 3 tới tháng 5
dương lịch với đỉnh điểm là gần 7,4 nghìn đơn vị cường lực trong tháng 4. Riêng đối với nhóm
lưới rê và nghề câu, mặc dù có số ngày hoạt động trong tháng cao nhưng do có chỉ số CPUE thấp
và số lượng tàu thuyền ít nên có cường lực khai thác nhỏ.
4.2. Định hướng nghiên cứu tiếp theo
- Nghề lồng bẫy là nghề có tính chọn lọc cao, thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, người dân
địa phương đang sử dụng loại hình lồng bẫy gọi là nghề lồng mực. Đối tượng đánh bắt chính của
nghề này là mực và hoạt động vùng ven bờ. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là nghề lồng mực sử
dụng chính trứng mực làm mồi. Điều này gây tổn hại nghiêm trọng tới nguồn lợi mực vùng ven
bờ. Do đó, việc nghiên cứu giải pháp sử dụng mồi nhân tạo để thay thế việc sử dụng trứng mực
làm mồi ở nghề lồng bẫy mực là hết sức cấp thiết hiện nay để bảo vệ nguồn lợi mực khu vực ven
bờ.
- Khu vực ven bờ có rất nhiều lưới kéo hoạt động, đặc biệt là lưới kéo đáy và cào bay đã phá hủy
môi trường sống của nhiều loài sinh vật đáy. Do đó, cần nghiên cứu lắp đặt hệ thống rạn nhân
tạo, vừa tạo nơi trú ẩn, sinh sản và kiếm mồi cho các loài sinh vật đáy, vừa nhằm hạn chế hoạt
động của nghề lưới kéo vùng ven bờ nhằm tái tạo, phục hồi và phát triển nguồn lợi tại khu bảo
vệ Rạn Trào nói riêng và vùng biển ven bờ huyện Vạn Ninh nói chung.
LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin chân thành cảm ơn tới Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển
Cộng đồng (MCD), Văn phòng MCD ở Khánh Hòa đã tài trợ kinh phí, cử thành viên cộng tác và
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình thực hiện khảo sát. Xin chân thành cảm ơn Chi
cục KT&BVNL TS tỉnh Khánh Hòa, Phòng NN&PTNT huyện Vạn Ninh, UBND các xã Vạn
Hưng, Vạn Thắng và thị trấn Vạn Giã đã hỗ trợ, giúp đỡ và cung cấp những số liệu thứ cấp cần
thiết. Chân thành cảm ơn nhóm hạt nhân của khu bảo vệ Rạn Trào đã giúp đỡ nhóm thực hiện
đề tài trong các chuyến khảo sát trên biển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bishnu B. Bhadari, 2003. Participatory Rural Appraisal (PRA), Institute for Global
Environmental Strategies (IGES)
2. FAO, 2002. Sample-based fishery surveys – Technical handbook, pages 9&17/132.
3. Flaaten Ola, 2011. Fisheries Economic and Management. Student book – Norwegian College of
Fishery Science, University of Trumso, 169 pages.
4. Gordon S. H., 1954. The economic theory of common property resources: the fisheries. Journal
of Political Economy, 62, 124-142
ABSTRACT
This paper investigate on observing and evaluating the fishing effort of inshore fisheries in Van Ninh district, Khanh
Hoa province where Trao Reef Conservative Area was built. The objectives of study are determining destructive
fishing gears which have many impacts to inshore resources in Trao reef conservation and illustrate the highest
active time period of gear types annually. Simultaneously, calculate fishing efforts of gear types monthly. With the
hypothesis of traditional bio-economic model was derived by Gordon (1954), the author computed main gears’
fishing effort in Van Ninh. By combining Participatory Rapid Assessment method (PRA) and analyzing the
selectivities of local fishing gears, author gave conclusions on fishing effort and gear selectivity and propose
solutions in order to improve selectivity, environmentally and sustainable of gear types which are fishing in Van
Ninh district’s inshore areas, Khanh Hoa province
Từ khóa: Cường lực khai thác, tính chọn lọc của ngư cụ, Rạn Trào, Vạn Ninh

×