Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Khái niệm, đặc điểm thị trường độc quyền CHƯƠNG i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.52 KB, 25 trang )

Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN
1.Đặc điểm:
1.1. Đặc điểm của thị trường độc quyền:
Độc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của một cơng ty để sản xuất và bán một hàng hóa
hoặc một dịch vụ
Thị trường cạnh tranh độc quyền có một số đặc điểm sau:
Một là: Có rất nhiều người bán tự do gia nhập hay rút lui khỏi ngành, thị phần của
mỗi DN là rất nhỏ, không đáng kể trên thị trường.
Hai là, sản phẩm của các DN có sự khác biệt với nhau qua nhãn hiệu, kiểu dáng,
chất lượng,....và có khả năng thay thế tốt cho nhau nhưng khơng thay thế hồn tồn.
Ví dụ: Thị trường kem đánh răng, xà phịng, dầu gội đầu.....
Chính sự khác nhau của các sản phẩm của các DN đã hình thành hai nhóm khách
hàng:
 Khách hàng trung thành với sản phẩm, nghĩa là họ ưa thích sản phẩm này hơn sản
phẩm khác; do đó vẫn mua sản phẩm này dù giá sản phẩm tăng lên.
 Khách hàng trung lập (không trung thành) với sản phẩm, có nghĩa là họ coi các sản
phẩm tương tự nhau, do đó sẽ nhanh chóng chuyển sang tiêu dùng sản phẩm khác
nếu chỉ có giá sản phẩm này tăng lên.
Ba là, chính sự khác biệt của các sản phẩm, nên khơng thể có một mức giá duy nhất
cho tất cả các sản phẩm, mà hình thành một nhóm giá gồm nhiều mức giá nhưng chênh
lệch không nhiều.
Mâu thuẫn với một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: bên bán là các nhà hoạch định
giá và không thực thi giá cả, vì chúng là những nhà cung cấp duy nhất, tạo ra mức giá cao
hơn và sản lượng thấp hơn so với cạnh tranh hoàn hảo.
Cái lợi quan trọng mà thị trường cạnh tranh độc quyền cung cấp là sự đa dạng của
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu muôn vẻ và thích hợp với thu nhập của từng nhóm khách
hàng.
Các rào cản nhập cảnh có thể được luật pháp, cơng nghệ, kinh tế hoặc tự nhiên. Như
đã nói đúng bởi Milton Friedman rằng độc quyền thường xuyên phát sinh từ sự hỗ trợ từ


chính phủ hay do sự đồng thỏa thuận giữa các cá nhân.
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

1


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

1.2. Đặc điểm thị trường độc quyền nhóm:
Độc quyền nhóm có các đặc điểm sau:


Thị trường do một số ít người bán chi phối, trong đó có ít nhất một số người

bán có sức mạnh đủ lớn so với toàn bộ thị trường để tác động đến giá thị trường.


Thị phần của mỗi DN là khá lớn và có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, nghĩa là

khi một DN có tiến hành chiến lược thay đổi giá cả, sản lượng, quảng cáo....ảnh hưởng
đến bất kỳ các DN còn lại, lập tức các DN này sẽ phản ứng đối phó lại nhằm bảo vệ thị
phần của mình.


Hàng hóa có thể khơng đồng nhất (ví dụ: xe ơ tơ, máy tính, thiết bị điện) hoặc

đồng nhất (ví dụ: xăng dầu, thép, nhơm) và các sản phẩm có khả năng thay thế lẫn nhau.


Các DN mới (tiềm tàng) khó hoặc khơng thể gia nhập ngành vì có những rào


chắn lối vào như: độc quyền về bằng sáng chế, quy trình cơng nghệ, có ưu thế về quy mơ
lớn, uy tín, tiếng tăm của các DN hiện có,... các DN lớn có thể tiến hành những chiến lược
để ngăn chặn những DN mới đi vào thị trường bằng cách xây dựng khả năng sản xuất còn
thừa, dọa sẽ bán phá giá và làm tràn ngập thị trường sản phẩm nếu có DN mới gia nhập
vào ngành


Đường cầu thị trường có thể thiết lập dễ dàng nhưng rất khó thiết lập đường

cầu từng DN vì phải dự đốn chính xác lượng cầu thị trường và số lượng cung ứng của
các đối thủ ở mỗi mức giá, mới thiết lập được đường cầu sản phẩm của DN xác đáng.
Ví dụ: KFC quyết định hạ giá bánh mì Hambeger chẳng hạn, thì tác động lên mức
lợi nhuận của họ sẽ rất khác nếu Lotteria phản ứng lại bằng cách hạ mức giá thấp hơn với
bánh mì Sandwich với số lượng lớn. Do sự phụ thuộc lẫn nhau này, các công ty độc
quyền nhóm (hay độc quyền thiểu số) can dự vào hành vi chiến lược. Hành vi chiến lược
xảy ra khi kết quả tốt nhất cho một bên được quyết định bởi hành động của các bên khác.
Mơ hình đường cầu cong mơ tả một trường hợp trong đó một cơng ty cho là các
công ty khác sẽ làm phù hợp với sự giảm giá của nó nhưng sẽ khơng cho phép tăng giá
tiếp theo. Chiến lược tối ưu trong một tình huống như vậy thường là giữ mức giá hiện tại
và cạnh tranh trên những mặt phi giá cả thay vì cạnh tranh giá. Ví dụ, có hai loại nhà
hàng: nhà hàng bình dân và nhà hàng sang trọng. Nhà hàng bình dân thuộc về cạnh tranh
độc quyền. Họ cạnh tranh trên vấn đề giá cả, xem ai nấu tô phở rẻ và ngon. Nhưng nhà
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

2


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm


hàng sang trọng là độc quyền nhóm, vì có rất ít các nhà hàng sang trọng trong một thành
phố. Giá thức ăn rất là mắc, nhưng họ không cạnh trạnh với nhau trên vấn đề giá cả, mà
họ cạnh tranh với nhau trên vấn đề phong cách phục vụ -- phi giá cả.)
2/ Các rào cản và thách thức:
2.1/ Các rào cản:
2.1.1. Rào cản cạnh tranh chiến lược:
Việc tìm cân bằng trong một thị trường độc quyền nhóm phức tạp hơn trong mơ hình
thị trường khác, bởi vì ta cần xét hành vi của đối thủ cạnh tranh. Ta giả sử rằng từng công
ty muốn làm điều tốt nhất mà nó có thể làm, trong điều kiện đã biết trước hành động của
đối thủ cạnh tranh: ví dụ: sản phẩm tràn ngập thị trường, hoặc kiểm soát một yếu tố đầu
vào.
2.1.2. Rào cản tự nhiên:
Như tính kinh tế theo quy mơ, bằng phát minh sáng chế, bí quyết thương hiệu, cơng
nghệ, lịng trung thành của khách hàng cao.
2.2. Thách thức:
Thách thức trong quản lý đối với các doanh nghiệp khi đối thủ của họ giảm giá bán.
3/ Điều kiện cân bằng thị trường:
Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền hay cạnh tranh độc quyền thì nhà
sản xuất khơng cần tính đến phản ứng của các đối thủ khi lựa chọn các mức sản lượng và
giá bán.
Đối với thị trường độc quyền nhóm: thì nhà sản xuất phải tính đến phản ứng của các
đối thủ cạnh tranh khi đưa ra lựa chọn các mức sản lượng và giá bán.
Điều kiện cân bằng thị trường:
Các DN được tự do hành động sao cho có lợi cho DN nhất và do đó khơng có động
lực để DN thay đổi các quyết định về sản lượng và giá cả. Các DN khi đưa ra quyết định
phải lường trước được sự phản ứng của các đối thủ cạnh tranh.
Cân bằng Nash: từng công ty làm điều tốt nhất trong điều kiện đã biết hành động của
các đối thủ cạnh tranh
Chiến lược ưu thế: mỗi DN sẽ đưa ra quyết định tốt nhất cho mình bất kể hành động
của đối thủ.

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

3


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

4/ Phân loại thị trường:
Có thể phân biệt thị trường độc quyền nhóm thành hai loại:
 Các DN độc quyền nhóm hợp tác với nhau: khi các DN có thể thương lượng với
nhau và có những hợp đồng ràng buộc để đưa ra những chiến lược chung.
 Các DN độc quyền nhóm khơng hợp tác: khi các DN không liên lạc, không thương
lượng với nhau, khơng có những hợp đồng ràng buộc mà cạnh tranh với nhau.
4.1/ Các DN độc quyền nhóm hợp tác với nhau:
Dưới hai hình thức: hợp tác ngầm hoặc hợp tác cơng khai
a/ Độc quyền nhóm hợp tác ngầm (hay mơ hình lãnh đạo giá):
Trong một số ngành dưới mơ hình này các DN thường có ưu thế trên cả hai mặt:
-

Có chi phí sản xuất thấp nhất, chất lượng sản phẩm bảo đảm, ổn định, có uy tín
trên thị trường.

-

Quy mô sản xuất lớn, sản lượng cung ứng chiếm tỷ trọng đáng kể trong ngành.

 DN chiếm ưu thế như vậy sẽ là người quyết định giá bán, các DN khác sẽ là người
chấp nhận giá.
Xét mơ hình:
 Lãnh đạo giá do có ưu thế về chi phí sản xuất thấp nhất:


Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

4


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Đồ thị biểu thị trường hợp trong ngành có 2 DN độc quyền tay đôi, mỗi bên chiếm
phân nữa thị trường, đường cầu mỗi bên là d. Điều kiện sản xuất của DN1 được biểu hiện
bằng đường AC1 và MC1, điều kiện sản xuất của DN2 được thể hiện qua đường AC2 và
MC2. DN1 có chi phí sản xuất thấp hơn DN2.
Để tối đa hóa lợi nhuận, DN1 sẽ quyết định sản xuất ở mức sản lượng Q1 (tại Q1:
MC1 = MR), tương ứng với mức giá P1.
Tương tự, với DN2 để tối đa hóa lợi nhuận thì DN2 quyết định sản xuất ở mức sản
lượng Q2 (tại Q2: MC2 = MR), tương ứng mức giá P2.
Nhìn vào đồ thị ta thấy, giá của DN1 (P1) thấp hơn giá bán của DN2 (P2). Do đó, để
bảo vệ thị phần của mình, buộc lịng DN2 phải giảm giá và bán theo giá của DN1 là P1.
Như vậy, DN1 có chi phí thấp trở thành người lãnh đạo giá.
 Lãnh đạo giá do có ưu thế về quy mơ sản xuất:

Trong ngành, DN có ưu thế về quy mô sản xuất lớn sẽ là người định giá sản phẩm,
các DN còn lại sẽ là người chấp nhận giá, theo mức giá mà DN thống trị đã ấn định.
Nhìn vào mơ hình: Giả sử:
Đường cầu thị trường về sản phẩm là D
Đường cung của các DN chấp nhận giá là SF
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

5



Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Đường cầu của DN lãnh đạo giá là DL: là chênh lệch giữa đường cầu thị trường D
và đường cung DN chấp nhận giá SF
Đường doanh thu biên tương ứng của DN lãnh đạo giá là MR và đường chi phí biên
là MC.
Để tối đa hóa lợi nhuận của mình, DN lãnh đạo giá sẽ sản xuất sản lượng ở mức QL,
tại đó MC = MR, và tương ứng với mức giá P1 tại đường cầu của DN lãnh đạo giá (DL)
Tại mức giá P1, các DN đi theo, hay các DN chấp nhận giá sẽ bán với mức sản
lượng QF, do đó tại mức giá P1 thì sản lượng được bán ra trên thị trường là: Q1=Ql+QF
b/ Độc quyền nhóm hợp tác cơng khai: hình thành mơ hình cartel: ấn định mức giá
và sản lượng cần sản xuất theo nguyên tắc MC = MR.
Khi các DN công khai thỏa thuận hợp tác thỏa thuận với nhau thành một liên minh
sản xuất được gọi là Cartel.
Nếu tất cả các DN kết hợp thành một Cartel thì thị trường trở thành thị trường độc
quyền hồn tồn. Để tối đa hóa lợi nhuận chung, cartel sẽ ấn định mức giá và sản lượng
cần sản xuất theo nguyên tác MC = MR, sau đó sẽ phân phối sản lượng cho các DN thành
viên dựa vào vị thế của mỗi DN, hay phân chia thị trường, mỗi DN thành viên sẽ trở
thành DN độc quyền trong khu vực của mình.
Trong thực tế, thường chỉ có một số DN trong ngành tham gia thành lập Cartel, nên
sản lượng của Cartel chỉ chiếm một phần trong tổng sản lượng, bởi cịn các DN nằm
ngồi Cartel. Các Cartel thường có tính quốc tế, với mục tiêu nâng giá cao hơn nhiều so
với giá cạnh tranh bằng cách hạn chế sản lượng cung ứng.
Một Cartel thành công trong việc nâng cao mức giá nhằm gia tăng lợi nhuận phải có
đủ 3 điều kiện:
-

Cầu thị trường là ít co giãn, khó có sản phẩm thay thế.


-

Các DN cạnh tranh cịn lại (khơng gia nhập Cartel) có cung co giãn là rất ít,
nghĩa là lượng cung của họ rất hạn chế.

-

Sản lượng của Cartel ciểm tỷ trọng lớn và có chi phí thấp trong ngành, đồng
thời các DN thành viên phải trugn thực tuân theo đúng quy định của Cartel.

Ví dụ về mơ hình Cartel là tổ chức OPEC (Orgnization of Petrolium Exporting
Contries): OPEC thành lập năm 1960 gồm các nước: Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia và
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

6


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Venezuela. Năm 1973 thêm 8 nước thành viên khác gia nhập tổ chức này. Tổ chức OPEC
kiểm sốt ¾ trữ lượng dầu thế giới. Và khi tăng giá phải thông qua quy định sản lượng
các nước thành viên và tổ chức này đã thành cơng trong duy trì hợp tác và giá cả cao.
Mục tiêu chính thức được ghi trong Hiệp ước thành lập của OPEC là bảo vệ lợi ích
của các nước-thành viên; bảo đảm sự ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách
khai thác dầu mỏ, ổn định giá dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ; bảo đảm cung cấp đều
đặn dầu mỏ cho các nước khác; bảo đảm cho các nước thành viên nguồn thu nhập ổn định
từ nguồn lợi dầu mỏ; xác định chiến lược khai thác và cung cấp dầu mỏ. Thật ra nhiều
biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các
cơn khủng hoảng dầu mỏ, OPEC chẳng những đã khơng tìm cách hạ giá dầu mà lại duy
trì chính sách giá cao trong một thời gian dài.

OPEC là đề ra một chiến lược chung về dầu mỏ nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào
việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan
hiếm hoặc dư thừa giả tạo nhằm qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có
thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức
có lợi nhất co các thành viên.

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

7


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

DW là đường cầu thế giới về dầu thô,
SC là đường cung về dầu của các nước ngoài OPEC,
DOPEC là đường cầu về dầu của OPEC: là mức chênh lệch giữa đường cầu thế giới D W
và đường cung cạnh tranh SC (DOPEC = DW – SC).
Đường doanh thu biên và đường chi phí biên của OPEC là MROPEC và MCOPEC
Chi phí sản xuất của OPEC thấp hơn nhiều so với các nước ngoài OPEC.
Để tối đa hóa lợi nhuận, OPEC sẽ sản xuất ở sản lượng Q OPEC (tại đó MC = MR),
tương ứng với mức giá P*.
Ở mức giá P* các nước ngoài OPEC sẽ cung cấp Q C; lượng cầu thế giới ở mức giá P *
là QW = QC + QOPEC.
Trước khi có Cartel OPEC, các nước sản xuất cạnh tranh nhau thì giá cạnh tranh là
PC – là mức giá tại đó đường cầu OPEC cắt đường MC.
Như vậy giá mà Cartel ấn định P* cao hơn rất nhiều so với mức giá PC trước khi chưa
thành lập Cartel.
Sở dĩ OPEC thành cơng trong việc ấn định giá vì cầu về dầu mỏ của thế giới là co
giãn ít, khơng có sản phẩm thay thế, cịn lượng cung dầu mỏ trong ngắn hạn của các nước
ngồi OPEC là ít co giãn. Chi phí sản xuất của OPEC thấp hơn và cung cấp lượng dầu lớn

chiếm 2/3 lượng sản cung thế giới.
4.2. Độc quyền nhóm khơng hợp tác:
4.2.1. Mơ hình Cournot:
Đây là mơ hình đơn giản do nhà kinh tế học người Pháp Augustin Cournot đưa ra
vào năm 1938. Với giả định:
-

Thị trường chỉ có hai DN sản xuất sản phẩm giống nhau nên chỉ có một mức giá
trên thị trường sản phẩm.

-

Cả hai DN này đều am hiểu nhu cầu thị trường và chi phí của nhau.

-

Giá sản phẩm trên thị trường sẽ phụ thuộc vào tổng sản phẩm của cả 2 DN.
Vấn đề đặt ra là cả hai DN chỉ có một lần và cùng một lúc đưa ra quyết định sản xuất

bao nhiêu sản phẩm để tối đa hóa lợi nhuận.
Thực chất của vấn đề này là mỗi DN xem như lượng sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh là cố định, rối quyết định lượng sản phẩm của mình để đạt lợi nhuận tối đa.
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

8


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Ví dụ: Hàm số cầu thị trường của sản phẩm X là: P = 50 - Q. Có 2 DN sản xuất sản

phẩm X. DN1 và DN2 đều sản xuất có chi phí trung bình và chi phí biên khơng đổi là
AC=MC = 4. Với Q = Q1 + Q2, Q1 là sản lượng của DN1 và Q2 là sản lượng của DN2.
Để tối đa hóa lợi nhuận, DN1 sẽ quyết định sản xuất bao nhiêu sản phẩm là tùy
thuộc vào sản lượng mà nó dự đốn DN2 sẽ sản xuất:
+

Nếu DN1 cho rằng DN2 không sản xuất (nghĩa là Q 2 = 0) thì đường cầu của

DN1 chính là đường cầu thị trường: P = 50 - Q 1. Để tối đa hóa lợi nhuận DN1 quyết định
sản xuất sản lượng Q1 mà tại đó: MR1 = MC = 5 hay 50 - 2Q1 = 4, ta tính được Q1 = 23.
+

Nếu DN1 cho rằng DN2 sản xuất Q2 = 23, thì đường cầu DN1 sẽ dịch chuyển

sang trái một đoạn bằng 23, D1(23) có dạng: P = 27 - Q1. Để tối đa hóa lợi nhuận DN1 quyết
định sản xuất sản lượng Q1, tại đó MR1(23) = MC, hay 27 - 2Q1 = 5 và ta được Q1 = 11
+

Nếu DN1 dự đốn DN2 sản xuất Q 2 = 34, thì đường cầu mới của DN1 có

dạng:
P = 16 – Q1. Để tối đa hóa lợi nhuận, MR1(34) = MC = 5 hay 16 – 2Q1 = 5, ta được Q1 = 5.5
+

Nếu DN1 dự đốn Q2 = 45 thì D1(45) là: P = 5 – Q1. Để tối đa hóa lợi nhuận,

MR1(45) = MC hay 5 – 2Q1 = 5, ta tính được Q1 = 0.

Học viên: Vũ Dỗn Ngọc Hưng


9


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Như vậy, quyết định sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận của DN1 phụ thuộc vào sản
lượng của DN2, thể hiện qua bảng sau:
Q2
Q1

0
23

23
11

34
5.5

45
0

Tổng quát, ta có đường cầu của DN1 có dạng:
D1: P = 50 – (Q1 + Q2) = (50 – Q2) – Q1
 MR = (50 – Q2) – 2Q1
Để tối đa hóa lợi nhuận, DN1 sẽ quyết định sản xuất theo nguyên tắc:
MR1 = MC1
(50 – Q2) – 2Q1 = 5
Q1 = 22.5 – ½ Q2


(1)

Phương trình (1) được gọi là phương trình phản ứng của DN1.
Phương trình phản ứng của một DN thể hiện số lượng sản phẩm mà DN sẽ sản xuất để tối
đa hóa lợi nhuận, khi số lượng sản phẩm của DN đối thủ coi như đã biết.
Tương tự, phương trình phản ứng của DN2 là:
Q2 = 22.5 – ½ Q1

(2)

* Lưu ý: khi MC1 ≠ MC2
=> đường phản ứng của DN1≠ DN2

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

10


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Trạng thái cân bằng (Cân bằng Cournot) được xác định ở giao điểm của 2 đường
phản ứng, ở đó mỗi DN dự đốn chính xác số lượng sản phẩm mà đối thủ cạnh tranh sản
xuất và quyết định sản lượng thích hợp để tối đa hóa lợi nhuận của mình và khi đó cả 2
đểu khơng có ý muốn thay đổi quyết định của mình.
 Nếu hai DN khơng cấu kết với nhau:
Để xác định thế cân bằng Cournot thay phương trình (2) vào phương trình (1) ta có,
Q1 = Q2 = 15 suy ra P = 20.
Lợi nhuận của mỗi DN là: r1 = (P – AC) x Q1 = (P – AC) x Q2 = 200
Tổng lợi nhuận của ngành: r = r1 + r2 = 400
 Nếu hai DN cấu kết với nhau:

Nếu 2 DN cấu kết hay cùng quyết định sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận chung thì
cũng tương tự như một DN độc quyền với hai cơ sở, đường cầu thị trường chính là đường
cầu đứng trước tổ chức độc quyền này: P = 50 – Q, do đó MR = 50 – 2Q. Sản lượng để tối
đa hóa lợi nhuận của 2 DN thỏa điều kiện MR = MC hay 50 – 2Q = 5, như vậy Q = 22.5
và Q1 = Q2 = 11.25 => P = 27.5, do đó:
Rmax = (P – AC) x Q = 506.25
 r1 = r2 = 253.125
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

11


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Như vậy nếu cấu kết với nhau, cả 2 sẽ sản xuất ít hơn, giá bán cao hơn và lợi nhuận
cao hơn so với thế cân bằng Cournot. Trong trường hợp này mọi sự kết hợp sản lượng Q 1
và Q2 của cả 2 DN luôn bằng 22.5 đều đạt lợi nhuận tối đa. Đường Q 1 + Q2 = 22.5 được
gọi là đường hợp đồng.
Đường hợp đồng là tập hợp các tổ hợp sản lượng của 2 DN để tối đa hóa lợi nhuận
chung.
Nhược điểm: trong thực tế, những giả định của mô hình Cournot thường khó mà
thực hiện được, chỉ một lần DN không thể chọn đúng sản lượng ở thế cân bằng mà phải
trải qua q trình thăm dị, điều chỉnh mới có thể đạt được.
4.2.2. Mơ hình Stackelberg (lợi thế của người hành động trước):
Với giả định:
-

Thị trường có hai doanh nghiệp DN1 và DN2

-


Sản phẩm đồng nhất

-

DN1 quyết định cơng bố trước sản lượng sản xuất của DN mình
DN1 sẽ có một lợi thế chiến lược và sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Bởi vì khi DN1

chọn mức sản lượng lớn thì đối thủ cạnh tranh là DN2 phải chọn mức sản lượng nhỏ hơn
nếu muốn tối đa hóa lợi nhuận vì nếu DN2 đặt Q lớn hơn =>đẩy P↓=>cả 2 bị thiệt
Xét lại ví dụ trên, giả sử DN1 quyết định trước sản lượng là Q 1 thì DN2 sẽ sản xuất
sản lượng là Q2 = 22.5 – ½ Q1
Hàm cầu của DN1 sẽ có dạng: P = 50 – Q1 – Q2 = 27.5 – ½ Q1
Hàm doanh thu biên của DN1: MR1 = 27.5 – Q1
Để đạt lợi nhuận tối đa, DN1 sẽ sản xuất theo nguyên tắc: MR1 = MC1
Hay 27.5 – Q1 = 5 giải phương trình ta có Q1 = 22.5
Thay vào phương trình (2) ta có: Q2 = 11.25
Và P = 50 – 22.5 – 11.25 = 16.25
r1 = (P – AC) x Q1 = 253.125
r2 = (P – AC) x Q2 = 126.5625
Qua ví dụ trên ta thấy rằng:
 Lợi nhuận của DN1 cao hơn so với mơ hình Cournot
 Lợi nhuận của DN2 thấp hơn so với mơ hình Cournot
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

12


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm


Tại sao? Vì DN1 có thể đề ra một mức sản lượng trước DN2 và sử dụng mục tiêu
này để chiếm lấy phần lớn thị trường. DN2 không xông xáo phản ứng lại điều này bởi vì
khơng có tác động ăn cắp-thương mại trong mơ hình này. DN1 sẽ sản xuất sản lượng cao
hơn và thu được lợi nhuận cao hơn so với DN2.
Như vậy, thơng thường người hành động trước là người có thế lực thị trường lớn hơn.
 Các mơ hình Cournot và Stackelberg là những biểu hiện của thái độ độc quyền
nhóm. Để lựa chọn việc mơ hình nào là thích hợp hơn tùy thuộc vào lĩnh vực kinh hoạt
động. Đối với một ngành cơng nghiệp gồm có những hãng đại thể giống nhau, khơng một
hãng nào có được lợi thế hành động hay vị thế lãnh đạo mạnh mẽ, mô hình Cournot chắc
chắn thích hợp hơn. Mặt khác, một số ngành công nghiệp bị khống chế bởi một hãng lớn,
hãng này thường lãnh đạo trong việc đưa ra những sản phẩm mới hay việc định giá thì mơ
hình Stackelberg thích hợp hơn.
4.2.3. Mơ hình Bertrand – Cạnh tranh giá cả:
Với giả định:
+ các DN định giá cùng lúc
+ sản phẩm đồng nhất
+ khơng hợp tác
Mơ hình Bertrand về độc quyền nhóm cho rằng các DN sản xuất một sản vật giống
nhau nhưng cạnh tranh với nhau bằng cách ấn định giá cả, mỗi doanh nghiệp coi các giá
của các đối thủ cạnh tranh với mình là cho trước và DN nào có giá cả thấp nhất sẽ chiếm
đoạt được tồn bộ số hàng bán ra. Trong trường hợp này, DN nào cũng có động cơ làm
cho giá cả của mình thấp hơn của các đối thủ cạnh với mình, cho đến khi giá cả bị kéo
xuống bằng chi phí biên.
Tính đồng nhất hàm ý người tiêu dùng sẽ mua của bên bán giá thấp. Công ty định
giá cao hơn sẽ khơng bán được gì.
Mỗi DN nhận thức được rằng cầu của mình phụ thuộc vào giá của chính mình lẫn
giá do các DN khác ấn định. Do đó, bất cứ giá nào ít nhất bằng chi phí biên đều bảo đảm
lợi nhuận khơng âm.

Học viên: Vũ Dỗn Ngọc Hưng


13


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Nếu ta giả định khơng có hạn chế về cơng suất và mọi DN đều có chi phí biên và chi
phí trung bình khơng đổi, khi đó:
Để đáp ứng của DN này với DN kia là tốt nhất thì mỗi cơng ty phải giảm giá của
mình chừng nào mà ta vẫn cịn P > MC.
Vậy quá trình này sẽ kết thúc ở đâu? ở P = M, nên trong cân bằng:


Các DN ấn định giá bằng với chi phí biên



Các DN thu lợi nhuận bằng khơng

Tuy nhiên, mơ hình này gặp hai nhược điểm lớn là:


Khi các DN đã ấn định giá và thống nhất bán cùng mức giá, lúc đó những

người tiêu dùng đứng trung lập giữa DN, như vậy thị phần của các DN sẽ khó được xác
định trong thế cân bằng. Vì vậy, cạnh tranh số lượng là điều hiện thực hơn khi một sản
vật giống nhau được sản xuất.


Ngoài ra, khi các DN sản xuất ra các sản phẩm đồng nhất, và đã chứng tỏ được


rằng các DN cạnh tranh với nhau bằng cách ấn định trước các khả năng đầu ra rồi mới ấn
định giá cả thì lại quay về thế cân bằng Cournot về số lượng.
4.2.4. Mơ hình đường cầu gãy – tính cứng nhắc của giá cả:
Vì sự cấu kết ngầm giữa các DN đồng quyền nhóm có xu hường là mong manh, nên
các DN đều rất mong muốn có một sự ổn định, đặc biệt là trong lĩnh vực giá cả. Điều đó
giải thích tại sao tính cứng nhắc của giá cả lại thường là một đặc điểm của các ngành cơng
nghiệp độc quyền nhóm. Dù cho các chi phí hay nhu cầu thay đổi, các DN vẫn khơng sẵn
lịng thay đổi giá cả. Nếu các chi phí giảm xuống hay nhu cầu của thị trường suy thối,
các DN đều khơng sẵn lịng hạ thấp giá cả vì việc đó có thể gửi một thơng điệp sai lạc tới
các đối thủ cạnh tranh của họ và do đó dẫn tới chiến tranh giá cả. Và nếu như các chi phí
hay nhu cầu gia tăng, các DN cũng khơng sẵn lịng nâng cao giá vì họ sợ rằng các đối thủ
cạnh tranh của họ không thể cùng nâng cao giá.
Tính cứng nhắc này của giá cả là nền tảng của mơ hình “đường cầu gãy“ (hình vẽ).
Theo mơ hình này, mỗi DN đứng trước đường cầu gãy với mức giá phổ biến là P 1. Ở
những mức giá cao hơn P1, đường cầu rất co giãn, bởi vì mỗi DN cho rằng nếu tăng giá
sản phẩm cao hơn mức giá P1 thì sẽ khơng một đối thủ nào tăng giá theo, do đó thị phần
và doanh thu của DN sẽ bị giảm.
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

14


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Ngược lại, ở những mức giá thấp hơn P1, đường cầu rất ít co dãn, vì khi một DN hạ
giá bán sản phẩm của mình thấp hơn mức giá hiện hàng P 1 thì các đối thủ cũng sẽ hạ giá
theo vì họ khơng muốn bị giảm thị phần, do vậy lượng sản phẩm bán ra của DN chỉ tăng
đến phạm vi lượng cầu của thị trường tăng do giá giảm.


Vì thế, đường cầu của DN độc quyền nhóm là đường cầu gãy tại mức giá hiện hành
là P1, đường doanh thu biên tương ứng không liên tục tại sản lượng Q 1. Do đó nếu chi phí
biên tăng từ MC1 lên MC2 (hoặc ngược lại) thì xí nghiệp vẫn sản xuất ở sản lượng như cũ
Q1 với giá bán ra vẫn không đổi P1.
Nhược điểm của mơ hình này là khơng giải thích được sự hình thành mức giá thị
trường P1
Ngày nay các DN luôn né tránh cuộc cạnh tranh bằng giá cả vì hậu quả của nó là các
bên đều bị thiệt hại, nhưng để tồn tại và phát triển, các DN ln nổ lực tìm kiếm những
hình thức cạnh tranh phi giá cả an toàn và hiệu quả nhất.

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

15


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN NHÓM TẠI VIỆT NAM
Những lĩnh vực độc quyền nhóm (oligopoly) bao gồm: Xăng dầu, bảo hiểm, ngân
hàng, xi măng, sắt thép, mía đường, xuất, nhập khẩu cà phê, xuất nhập khẩu gạo, du lịch
(trừ kinh doanh khác sạn)…
Do các cơ quan địa phương quyết định hành chính để bảo vệ doanh nghiệp nhà
nước, ở khơng ít tỉnh đã xuất hiện tình trạng “độc quyền địa phương”, “độc quyền cục
bộ”, như đến tỉnh A chỉ được dùng bia của doanh nghiệp nhà nước tỉnh đó, xi măng tỉnh
đó sản xuất hay chỉ có cơng ty lương thực của tỉnh mới được độc quyền kinh doanh thu
mua gạo, … dẫn đến biến dạng nghiêm trọng trên thị trường.
Các sản phẩm và dịch vụ độc quyền được bảo hộ rất cao đối với cạnh tranh nước
ngồi. Hàng khơng nội địa, dịch vụ điện thoại hữu tuyến và viễn thông, bến cảng, …
khơng có cạnh tranh. Hệ số bảo hộ có hiệu lực rất cao đối với nhiều ngành công nghiệp
chế biến như: đồ uống không cồn 126%, đường 125%, xi măng 69%, xe máy 144%, …

Mức độ bảo hộ này chưa tính đến các yếu tố bảo hộ phi thuế quan.
Dưới đây là một số ngành tượng trưng cho việc độc quyền nhóm ở Việt Nam:
1. Độc quyền nhóm trong ngành xăng dầu:
Xăng, dầu là mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả
của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Vì thế, trong suốt nhiều năm qua, nhà
nước đã can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành giá mặt hàng này ở thị trường nội địa.
Tuy nhiên, lộ trình thị trường hóa mặt hàng xăng, dầu cũng đã được tính đến từ năm
2003.
Chính phủ đã ban hành Quyết định 187 (ngày 15/9/2003) về quy chế quản lý kinh
doanh xăng, dầu, cho phép doanh nghiệp (DN) được điều chỉnh giá bán trong phạm vi 5%
đối với dầu, 10% đối với xăng - trong khung giá định hướng do nhà nước xác định. Sau
đó, Nghị định số 55 của Chính phủ quy định về kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh
doanh xăng dầu tại thị trường Việt Nam được ban hành (ngày 06/4/2007) - thay thế QĐ
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

16


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

187 - đã quyết định đưa mặt hàng xăng theo giá thị trường và kể từ ngày 16/9/2008 là
chấm dứt bù lỗ tất cả các mặt hàng dầu - để vận hành kinh doanh xăng, dầu theo cơ chế
giá thị trường theo Quyết định 79 về Cơ chế quản lý điều hành giá xăng dầu.
Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) hiện vẫn chiếm tới gần 60% thị
phần xăng dầu cả nước. Một vấn đề nữa cũng được nhiều chuyên gia lý giải cho việc độc
quyền của Petrolimex, đó là nguyên tắc “một giá” trong suốt một năm qua, kể từ khi xóa
bỏ bù lỗ hoàn toàn mặt hàng xăng, dầu. Việc vận hành kinh doanh xăng dầu theo cơ chế
thị trường, đồng nghĩa với việc phải có cạnh tranh cả về giá bán của các đơn vị đầu mối
nhập khẩu xăng dầu, để tạo ra một thị trường có nhiều giá bán. Tuy nhiên, mỗi lần điều
chỉnh giá bán lẻ xăng dầu, các doanh nghiệp lại có chung một mức điều chỉnh và thời gian

thì cũng… gần như trùng thời điểm. Điều này khẳng định thị trường xăng dầu nước ta
đang bị độc quyền về giá.
Và một khi Petrolimex là một doanh nghiệp lớn của nhà nước, chiếm giữ tới 60% thị
phần xăng dầu cả nước thì đương nhiên cũng chi phối ln giá cả thị trường này. Cịn 10
doanh nghiệp đầu mối khác, cũng vẫn là các doanh nghiệp nhà nước. Trên nguyên tắc,
với thị phần ít hơn, sức ép đảm bảo nguồn cung cũng ít hơn… thì cho dù quyền lợi có
được hưởng nhiều hơn cũng khơng thể đưa giá xuống thấp hơn.
Ở Việt Nam, việc đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đã diễn ra từ hơn
20 năm nay. Thế nhưng, cho đến giờ sự độc quyền thời bao cấp trong một số lĩnh vực như
kinh doanh xăng dầu... vẫn còn khá đậm nét. Luật Cạnh tranh, trong khi đó, vẫn chưa phát
huy được tác dụng trong việc chống độc quyền.
Hiện đang có 11 đơn vị đầu mối tham gia kinh doanh xăng dầu nhưng hơn 60% khối
lượng phân phối lại nằm trong tay Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex). Do
vậy, việc tăng hay giảm giá xăng dầu là tùy thuộc vào họ sau khi có quyết định cho phép
các đơn vị kinh doanh xăng dầu được chủ động về giá bán từ ngày 15-12-2009.
2. Độc quyền nhóm trong ngành bảo hiểm
Hiện tượng độc quyền nhóm trong ngành bảo hiểm được thể hiện ở chỗ chỉ có một
vài tập đồn lớn làm bảo hiểm ở nước ta, nhưng lại có một thị trường để bán bảo hiểm rất
tiềm năng, vẫn còn một khối lượng lớn người dân vẫn chưa tham gia mua bảo hiểm.

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

17


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Năm 1976, khi hồn tồn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, cơng ty được
chuyển thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Thời
kỳ này, Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chế

độ hạch toán kế tốn kinh tế thống nhất tồn ngành. Cơng ty trực thuộc Bộ Tài chính, có
chức năng giúp Bộ Tài chính thống nhất quản lý cơng tác bảo hiểm Nhà nước và trực tiếp
tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm trong cả nước. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam, Bảo Việt
độc quyền kinh doanh bảo hiểm nên các sản phẩm của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu
thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ với khoảng 20 sản phẩm bảo hiểm.
Ngày 18/12/1993, nghị định 100 CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được
Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Nó phá
vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức bảo hiểm với
nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù vậy, phải từ sau năm
1995, một loạt các công ty kinh doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo Minh, VINARE, PVI,
PJICO... và các công ty liên doanh bảo hiểm như: UIC, VIA,...
Tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm như:
* Các công ty kinh doanh bảo hiểm theo luật kinh doanh bảo hiểm
- Doanh nghiệp nhà nước (bao gồm: công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), Công ty
bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI))
- Công ty cổ phần (bao gồm: Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), Công
ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI), Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long))
- Công ty liên doanh (bao gồm: Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh – CMG, Công
ty liên doanh bảo hiểm quốc tế (VIA), Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc (BIDV QBE), Công ty bảo hiểm liên hợp (United Insurance Company of Vietnam - UIC), Công
ty TNHH bảo hiểm Samsung - Vina, Công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Châu Á - Ngân
hàng Cơng thương (IAI)
- Cơng ty 100% vốn nước ngồi (bao gồm: Công ty TNHH bảo hiểm Prudential,
Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA), Công ty TNHH bảo hiểm Manulife, Công ty
TNHH bảo hiểm Allianz, Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam
- Tổ chức bảo hiểm tương hỗ
* Tổ chức tái bảo hiểm
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

18



Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

* Các tổ chức trung gian bảo hiểm
* Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (AIV)
Nếu như trước năm 1993, ở nước ta chỉ có Bảo Việt độc quyền kinh doanh, hoạt
động dưới hình thức bao cấp thì đến hết năm 2002 đã có tới 23 doanh nghiệp thuộc nhiều
loại hình sở hữu tham gia kinh doanh: các doanh nghiệp nhà nước là Bảo Việt, Bảo Minh,
PVI và VINARE; các công ty cổ phần PJICO, PTI, Bảo Long; các doanh nghiệp liên
doanh Bảo Minh - CMG, VIA, UIC, IAI, BIDV-QBE, Samsung - Vina và 5 doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài gồm: Prudential, AIA, Manulife, Alianz, Groupama cùng với 5
công ty môi giới bảo hiểm: AIB, Đại Việt, Gras Savoye... Bên cạnh đó, sự hiện diện của
hơn 40 văn phịng đại diện của các cơng ty bảo hiểm nước ngồi có uy tín càng đẩy mạnh
sự phát triển của ngành bảo hiểm.
Mạng lưới đại lý bảo hiểm được mở rộng và đã dần phủ kín tồn quốc. Bảo Việt đã
có hệ thống đơn vị thành viên ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước gồm 61 công ty
bảo hiểm phi nhân thọ, 56 công ty bảo hiểm nhân thọ, 5 chi nhánh bảo hiểm nhân thọ, 1
trung tâm đào tạo... với gần 5.000 nhân viên, trên 18.000 đại lý và cộng tác viên hoạt
động trên khắp mọi miền đất nước. Riêng công ty Bảo Việt cũng thời gian qua đã góp vốn
vào thành lập nên 15 cơng ty cổ phần lớn, trong đó có các công ty như Công ty liên doanh
bảo hiểm quốc tế, Cơng ty cổ phần Chứng khốn Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu...
Sự xuất hiện của các cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi đã tạo ra một mơi trường
cạnh tranh đầy tính tích cực. Sự cạnh tranh quyết liệt đã khiến các công ty phải giảm phí,
mở rộng điều kiện, điều khoản bảo hiểm. Các cơng ty đều phải có chiến lược cụ thể và lâu
dài vì giờ đây, khách hàng đã có nhiều lựa chọn.
Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, các công ty có vốn đầu tư nước ngồi hiện tỏ ra
vượt trội về nhiều mặt, đặc biệt là có ưu thế về kinh nghiệm, uy tín, khả năng phát triển hệ
thống đại lý, mở rộng thị trường... Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vốn chưa quen
với việc môi trường cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường đã sử dụng nhiều biện pháp

không lành mạnh như dùng mệnh lệnh hành chính để tác động đến thị trường, gây bất
bình đẳng trong cạnh tranh và đi ngược lại những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường.

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

19


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

Ngồi ra, tình trạng đưa thơng tin sai lệch gây tổn hại đến hình ảnh của đối thủ cạnh tranh
nhằm lôi kéo khách hàng cũng thường xuyên xảy ra.
Hiện tượng "độc quyền công ty" hiện nay cũng diễn ra phổ biến với sự tham gia của
các công ty cổ phần bảo hiểm. Hầu hết các cổ đông thành lập nên các công ty cổ phần bảo
hiểm là các doanh nghiệp nhà nước đang nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế như:
xăng dầu, dầu khí, bưu điện... Điều này dẫn tới một thực tế là các doanh nghiệp Nhà nước
trực thuộc ngành, thuộc tổng cơng ty có cổ phần ở cơng ty bảo hiểm nào sẽ phải mua bảo
hiểm tại đó. Bảo Việt đã phải chuyển bảo hiểm cho hành khách đường sắt cho PJICO vì
Tổng cơng ty đường sắt Việt Nam là cổ đơng của PJICO. Tình trạng này sẽ khiến các
cơng ty bảo hiểm ỷ lại, khơng chịu khó tìm kiếm thêm thị trường và nâng cao chất lượng
dịch vụ.
Hiện nay, các cơng ty bảo hiểm đều có mối quan hệ hợp tác bảo hiểm và tái bảo
hiểm với các tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới như: Commercial Union, Tokyo
Marine, Yasuda, Sedgwich, Willis Corroon, Munich Re, Swiss Re... Bộ Tài Chính cũng
khơng ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác với các cơ quan quản lý bảo hiểm của EU,
ASEAN, từ đó, từng bước chuẩn hóa mơi trường kinh doanh bảo hiểm để phù hợp với
tình hình chung của khu vực và thế giới.
3. Độc quyền trong xuất khẩu gạo
Một thời gian dài, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao là nhờ vào xuất khẩu. Rõ
ràng trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát triển ổn định, thì thị trường xuất khẩu ít có

những đột biến lớn xảy ra nên đà tăng trưởng của xuất khẩu liên tục được duy trì. Do
hướng mạnh vào xuất khẩu như vậy, nên Nhà nước, doanh nghiệp tập trung nhiều nguồn
lực cho tìm kiếm thị trường nước ngồi, mà chưa đầu tư thỏa đáng phát triển thị trường
nội địa.
Trong thực tế muốn xác định được hiện tượng doanh nghiệp bắt tay liên kết để độc
quyền, thống lĩnh thị trường, tăng giá vơ tội vạ... phải thơng qua phân tích các dấu hiệu
trực tiếp trên thị trường, hoặc thông tin phản ánh từ các doanh nghiệp khác.
Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, việc kiểm tra, kiểm soát thị trường cần tập trung
vào các khâu từ nhập khẩu đến nhà phân phối, tiêu dùng... Qua đó, nếu phát hiện các nhà

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

20


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

nhập khẩu, phân phối có được lợi nhuận thơng qua các hành vi liên kết, độc quyền nhóm
thì sẽ xử lý theo Luật cạnh tranh và các quy định pháp lý về cạnh tranh khơng lành mạnh.
Philippin có nhu cầu mua thêm lúa gạo, chủ yếu là từ Việt Nam. Tuy nhiên, mức giá
của mặt hàng này phụ thuộc rất lớn vào động thái của Thái Lan vì nhà xuất khẩu gạo hàng
đầu này hiện đang tồn kho đến 7 triệu tấn gạo và có kế hoạch "xả hàng" trong thời gian
tới.
Tại thời điểm này, giá gạo thế giới vẫn đang giảm do bội thu vụ lúa ở một sốước
xuất khẩu gạo lớn như Việt Nam, Thái Lan, Pakistan và một số nước nhập khẩu lớn đã
mua gần đủ nhu cầu. Giá gạo của Thái Lan cũng đã giảm đáng kể, và thị trường chủ yếu
vẫn là châu Á, chiếm khoảng 62% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo, tiếp đến là châu Phi với
trên 17%, châu Mỹ với gần 15%.
Về lý thuyết, một khi doanh nghiệp trong nước yếu thế, thị trường có tín hiệu mang
lại hiệu quả đầu tư, thì nước ngồi sẵn sàng nhảy vào lấp khoảng trống, giống như cách

mà nhiều cơng ty Mỹ, châu Âu, thậm chí Thái Lan, Indonesia vào liên kết nuôi cá tra, tôm
hay heo, gà.
Tuy nhiên, kịch bản ấy khó xảy ra với ngành gạo khi mà một vài đại gia quốc doanh
còn đang nắm lợi thế quá lớn về vốn, cơ sở hạ tầng (nhà máy xay xát, kho bãi…) Chẳng
hạn, Vinafood II hiện đang sở hữu số vốn nhà nước hàng ngàn tỉ đồng, cộng thêm hệ
thống nhà máy xay xát, lau bóng, máy sấy, kho chứa trải đều ở hầu hết các vùng trọng
điểm sản xuất lúa lớn. Họ luôn nắm quyền chủ động thu mua lúa gạo, khi thị trường khó
khăn lại cịn được Chính phủ hỗ trợ vốn, lãi suất. Đó là chưa kể, một khi chúng ta vẫn coi
gạo là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, thì khi thị trường biến động, giá tăng nóng,
thiếu hụt nguồn cung thì nhà nước lại dùng chính sách kiểm sốt giống như lâu nay vẫn
làm.
4. Nguyên nhân của độc quyền nhóm tại Việt Nam
Chuyện độc quyền nhóm khơng lạ và dễ dàng tìm thấy trong các sách giáo khoa về
kinh tế học. Độc quyền nhóm cũng được đề cập đâu đó trong các bài báo bàn về tình hình
kinh tế trong và ngồi nước. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta giật mình nhìn lại thì hóa ra
độc quyền nhóm đơi khi vẫn tạo ra những cú sốc quá lớn cho toàn nền kinh tế. Độc quyền

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

21


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

nhóm về dầu mỏ của OPEC thỉnh thoảng vẫn khiến người ta hoảng loạn lo lạm phát, đẩy
giá nhiều hàng hóa khác lên những mức khơng tưởng.
Các nhà làm chính sách và quản lý kinh tế của Việt Nam lưu ý vì có vẻ như tình
trạng độc quyền nhóm ở một số ngành có xu hướng duy trì rất lâu và thường xuyên tổn
hại đến thị trường theo những cách tương tự nhau, nhưng các cơng ty độc quyền nhóm
cuối cùng vẫn khơng bị gì cả.

Nguyên nhân lớn nhất là do cạnh tranh và thiếu các nguyên vật liệu đầu vào; kế đến
là hạn chế về tài chính và do đặt giá sản phẩm cao; hai nguyên nhân ít quan trọng hơn là
do nhu cầu nước ngồi hạn chế và do khơng có khả năng thâm nhập thị trường nước
ngồi, giá cả khơng ổn định, và do đặt giá sản phẩm khơng có tính cạnh tranh.
Việt Nam quá chậm trong ban hành Luật Cạnh tranh và Kiểm soát Độc quyền. Hiện
nay, trên thị trường Việt Nam vẫn còn quá nhiều các DN độc quyền, độc quyền nhóm cả
về mua và bán, ở khơng ít tỉnh, thành phố cịn có độc quyền địa phương. Mặt bằng giá của
các sản phẩm độc quyền hay độc quyền nhóm, được bảo hộ cao như xi măng, đường mía,
ơ tơ, xe máy v.v... đều cao hơn mức trung bình khu vực, trong khi thu nhập của người
Việt Nam thấp hơn các nước đó, làm thiệt thịi cho người tiêu dùng. Trong khi đó, hàng
nơng sản khơng được bảo hộ, phụ thuộc giá thị trường thế giới lại thuộc loại rẻ nhất trong
khu vực, làm giảm sút thu nhập thực tế của nông dân.
Do được độc quyền, cơ cấu giá khó kiểm tra, nên dẫn đến những hiện tượng trì trệ
trong kinh doanh.
Nhưng còn một nguyên tắc nữa, quan trọng, mang tính quyết định, đó chính là bởi
họ khơng được quyền định giá, dù giá bán đó thực sự cạnh tranh, thấp hơn so với các
doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu khác! Và tất yếu dẫn đến một hệ quả là khơng thể có sự
cạnh tranh lành mạnh thực chất khi thị trường chỉ có một giá! Cuối cùng, người tiêu dùng
phải chịu thiệt thòi từ hệ quả này.
5.Giải pháp đề ra:
5.1. Đối với ngành bảo hiểm
Mục tiêu trước mắt đối với ngành bảo hiểm Việt Nam là rất nặng nề. Việc duy trì
được tốc độ tăng trưởng lên đến 40% một năm là điều khó khăn, tuy nhiên để nâng cao
hơn nữa so với tốc độ tăng trưởng trong ba năm qua là điều có thể thực hiện được.
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

22


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm


Để làm được việc này, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên tập trung vào các
giải pháp phù hợp nhằm tăng doanh thu và nâng cao hiệu quả đầu tư như sau:
Tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển mạng lưới
đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới. Hiện nay các công ty bảo hiểm phi
nhân thọ trong nước hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài một phần nhờ
sự bảo hộ của Chính phủ, một phần dựa vào mạng lưới khách hàng đã được xây dựng từ
trước. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh, khai thác thị
trường và các mối quan hệ nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng truyền thống.
Đây là một yếu tố quan trọng hỗ trợ các cơng ty bảo hiểm có thêm nguồn lực để thực hiện
các kế hoạch và chiến lược kinh doanh dài hạn để cạnh tranh với các đối thủ nước ngồi
có tiềm lực.
Thành lập các tổ chức đầu tư độc lập với hoạt động khai thác để có thể thực hiện đầu
tư chuyên nghiệp và hiệu quả từ phí bảo hiểm.
Liên doanh, liên kết với các tổ chức tài chính để có thể có khả năng mạnh hơn với áp
lực cạnh tranh khi các cơng ty bảo hiểm nước ngồi gia nhập thị trường theo lộ trình cam
kết của Việt Nam với WTO
Giảm sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm bằng cách đưa các
doanh nghiệp bảo hiểm lên sàn để vừa gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, vừa dễ huy động
vốn, gia tăng khả năng tài chính trong hoạt động
Mười năm năm qua, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát
triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị
trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các
vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và
phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động
vốn dài hạn và đầu tư dài hạn, giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước thơng qua hệ
thống bảo hiểm xã hội.
Tuy vẫn cịn những hạn chế nhất định trong việc đóng góp một cách chủ động vào
phát triển tài chính, nhưng những hạn chế này sẽ nhanh chóng được gỡ bỏ. Với mục tiêu
chiến lược phát triển phù hợp và trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, ngành bảo

hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vai trò trong nền kinh tế.
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

23


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

5.2. Đối với ngành xăng dầu
Để tăng tính thị trường, đặc biệt là thị trường xăng dầu, có nhiều cách thức. Thứ nhất
là phải có cơ chế cơng bố thơng tin, thứ hai là cơ chế giám sát, thứ ba là tạo cơ chế cho
doanh nghiệp tham gia các nghiệp vụ giao dịch hiện đại và cho hình thành mạng lưới dự
trữ xăng dầu quốc gia.
Xăng dầu là loại hàng hóa đặc biệt, địi hỏi vốn và hệ thống phân phối lớn nên khó
có thể có nhiều doanh nghiệp tham gia. Vì vậy trên lý thuyết, rất dễ hình thành độc quyền
nhóm. Nên bên cạnh công cụ giám sát đặt tại các cơ quan chức năng, Nhà nước vẫn cần
tạo lập và tăng mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, không để chúng ln cùng
chung lợi ích và trong thế có thể thỏa hiệp. Muốn vậy, chúng ta cần những tiêu chí cụ thể
để đánh giá và lượng hóa hành vi liên kết độc quyền.
Một công cụ rất quan trọng mà các nước vẫn dùng để điều tiết thị trường xăng dầu là
lập kho dự trữ xăng dầu quốc gia. Với lượng dự trữ đủ mạnh, khi giá tăng, thấy cần thiết,
Nhà nước có thể bán dầu từ kho dự trữ.
Đây là cách làm hiệu quả, thực tế ở nhiều nước đã thấy chúng có thể giúp giảm giá
một cách tiết kiệm hơn là bỏ tiền trực tiếp bù lỗ cho các doanh nghiệp. Giá giảm mà Nhà
nước vẫn thu được tiền, thậm chí có lãi.
Tất nhiên, khơng phải muốn là có thể lập ngay kho dự trữ vì chi phí rất cao. Đây là
bài tốn cần được giải giữa chi phí và lợi ích. Với một thị trường gần 100 triệu dân, tốc độ
tiêu thụ dầu mỏ tăng chúng ta lại sắp lọc được xăng dầu thì đã đến lúc VN nên tính đến
cơng cụ hiện đại trên nhằm đảm bảo an ninh năng lượng.
Năm 2010 cũng là năm đầu tiên kinh doanh xăng dầu áp dụng Nghị định 84/CP của

Chính phủ, sự chủ động của doanh nghiệp đầu mối tạo ra cơ hội phát triển cho các doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu. Vì là năm đầu tiên áp dụng Nghị định 84 nên trong quá trình
chuyển đổi cơ chế kinh doanh sẽ còn phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của thị
trường, đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước, Doanh nghiệp và đặc biệt là người tiêu
dùng phải thích ứng với những biến động tăng, giảm giá theo quy luật thị trường, kiên trì
thực hiện đảm bảo thực thi có hiệu quả Nghị định này.
Với vai trị và kinh nghiệm của một doanh nghiệp chủ đạo, chiếm thị phần lớn,
Petrolimex đã đề xuất, kiến nghị với Chính phủ chuyển đổi cơ chế kinh doanh xăng, dầu,
Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng

24


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

góp sức cùng các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng, ban hành Nghị định 84, đây là
bước ngoặt quan trọng làm thay đổi về chất của hoạt động quản lý kinh doanh xăng, dầu.
Nghị định 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu
chính thức có hiệu lực từ 15/12/2009; theo đó việc kinh doanh xăng, dầu được vận hành
theo cơ chế mới, doanh nghiệp được quyền quyết định giá bán lẻ khi giá xăng, dầu thành
phẩm thị trường thế giới có biến động, là cơ sở để các thương nhân đầu mối vận hành giá
bán xăng dầu theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước.
Chủ động và kiên trì vận hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường bảo đảm: Đủ
nguồn cung – Đóng góp cho ngân sách Nhà nước và có tích lũy cho Doanh nghiệp, đảm
bảo hài hịa 3 lợi ích Nhà nước - Doanh nghiệp và Người tiêu dùng
Đẩy nhanh tiến độ thi cơng các cơng trình dự án đầu tư trọng điểm để sớm đưa vào
khai thác sử dụng, phát huy hiệu quả đồng vốn và tăng khả năng dự trữ hàng hóa theo quy
định mới (30 ngày), góp phần bình ổn thị trường xăng dầu trong mọi tình huống.

Học viên: Vũ Doãn Ngọc Hưng


25


×