Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHÓM 4 độc QUYỀN NHÓM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.7 KB, 32 trang )

Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
PHẦN MỘT
LỜI MỞ ĐẦU
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
1
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
PHẦN II NỘI DUNG
CHƯƠNG I:KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG ĐỘC QUYỀN
I, Khái niệm và đặc trưng của Thị trường độc quyền nhóm
1. Khái niệm:
Xét từ phía người bán, thị trường độc quyền nhóm là dạng thị trường mà
trên đó chỉ có một nhóm nhỏ doanh nghiệp cùng hoạt động. Tuy không phải
là một doanh nghiệp duy nhất độc chiếm thị trường, doanh nghiệp độc quyền
nhóm thường có quy mô tương đối lớn so với quy mô chung của thị trường.
Điều này cho phép nó có một quyền lực thị trường hay khả năng chi phối giá
đáng kể. Sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm có
thể giống hệt hoặc gần như giống hệt nhau (những sản phẩm được tiêu chuẩn
hóa như thép, hóa chất…), song cũng có thể khác biệt nhau (như ô tô, máy
tính, dịch vụ hàng không…). Tính đồng nhất hay khác biệt của sản phẩm
không phải là những tính chất đặc thù của thị trường này.
2. Đặc trưng:
Đặc trưng cơ bản của một ngành độc quyền nhóm là sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các doanh nghiệp. Mỗi khi ra quyết định về sản lượng, giá cả hay
các quyết định kinh doanh có liên quan khác, mỗi doanh nghiệp đều phải cân
nhắc xem quyết định của mình có ảnh hưởng gì đến các quyết định của các
đối thủ, khiến cho các đối thủ phản ứng như thế nào. Trong trường hợp này,
việc luôn luôn phải tính đến hành vi của các đối thủ làm cho quá trình ra
quyết định của các doanh nghiệp trở nên khó khăn và phụ thuộc vào nhau.
Tính phụ thuộc lẫn nhau của các doanh nghiệp là đặc điểm nổi bật của thị
trường độc quyền nhóm. Nó xuất phát từ quy mô tương đối lớn của mỗi
doanh nghiệp trong điều kiện số lượng doanh nghiệp hạn chế. Trong bối cảnh


Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
2
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
này, hành vi của mỗi doanh nghiệp đều tác động đến lợi ích kinh doanh của
các đối thủ. Điều đó không xảy ra trên thị trường độc quyền thuần túy, vì
thực tế doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ. Trên thị trường cạnh tranh
hoàn hảo, số lượng doanh nghiệp nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ, việc thay
đổi sản lượng của mỗi doanh nghiệp riêng biệt không tác động gì được đến
kết cục chung của thị trường cũng nhưđối thủ. Vả lại, các doanh nghiệp cạnh
tranh hoàn hảo lại là những người chấp nhận giá, do đó, trên thực tế, chúng
không có khả năng theo đuổi cũng như không cần thiết phải theo đuổi một
chính sách giá cả riêng. Sau này, chúng ta sẽ thấy, trên thị trường cạnh tranh
có tính chất độc quyền, do cũng có rất nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ cùng
hoạt động nên hành vi của một doanh nghiệp riêng biệt cũng hầu như không
ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác. Chỉ trên thị trường độc quyền nhóm,
những phản ứng có thể của các đối thủ mới được các doanh nghiệp xem như
một biến số quan trọng cần tính đến mỗi khi ra quyết định. Chẳng hạn, khi
một doanh nghiệp độc quyền nhóm dựđịnh tăng giá sản phẩm của mình lên
10%, nó cần phải dựđoán xem các đối thủ của nó sẽ phản ứng như thế nào?
Nếu các đối thủ của nó vẫn giữ nguyên các mức giá như cũ, sản phẩm của
doanh nghiệp sẽ trở nên đắt hơn một cách tương đối so với sản phẩm của các
đối thủ. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ có thể mất đi một lượng
khách hàng nhất định và thị phần của nó có thể bị thu hẹp. Nếu sự suy giảm
lượng cầu về sản phẩm của doanh nghiệp là đáng kể, việc tăng giá chưa chắc
đã đem lại lợi lộc gì mà thậm chí còn làm cho nó thua thiệt. Nếu các doanh
nghiệp đối thủ cũng tăng giá theo, thì nó cần dựđoán xem các doanh nghiệp
này sẽ tăng giá bao nhiêu? 5, 10 hay hơn 10%? Những cân nhắc như vậy
sẽảnh hưởng trở lại đến quyết định tăng giá của doanh nghiệp. Ngược lại, đôi
khi doanh nghiệp lại muốn giảm giá để mở rộng thị phần của mình. Trên thị
trường độc quyền nhóm, khả năng các đối thủ cũng sẽ giảm giá theo có thể

Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
3
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
lôi cuốn các doanh nghiệp vào một cuộc cạnh tranh giá cả mà thường thì mọi
doanh nghiệp đều bị thua thiệt. Đứng trước khả năng đó, không phải trong
mọi trường hợp, quyết định giảm giá đã là hợp lý.
II, Đặc điểm và phân loại thị trường độc quyền.
1.Đặc điểm:
1.1. Đặc điểm của thị trường độc quyền:
Độc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của một công ty để sản xuất và bán một
hàng hóa hoặc một dịch vụ
Thị trường cạnh tranh độc quyền có một số đặc điểm sau:
Một là: Có rất nhiều người bán tự do gia nhập hay rút lui khỏi ngành, thị phần
của mỗi DN là rất nhỏ, không đáng kể trên thị trường.
Hai là, sản phẩm của các DN có sự khác biệt với nhau qua nhãn hiệu, kiểu
dáng, chất lượng, và có khả năng thay thế tốt cho nhau nhưng không thay thế
hoàn toàn.
Ví dụ: Thị trường kem đánh răng, xà phòng, dầu gội đầu
Chính sự khác nhau của các sản phẩm của các DN đã hình thành hai nhóm
khách hàng:
 Khách hàng trung thành với sản phẩm, nghĩa là họ ưa thích sản phẩm này
hơn sản phẩm khác; do đó vẫn mua sản phẩm này dù giá sản phẩm tăng lên.
 Khách hàng trung lập (không trung thành) với sản phẩm, có nghĩa là họ coi
các sản phẩm tương tự nhau, do đó sẽ nhanh chóng chuyển sang tiêu dùng
sản phẩm khác nếu chỉ có giá sản phẩm này tăng lên.
Ba là, chính sự khác biệt của các sản phẩm, nên không thể có một mức giá duy
nhất cho tất cả các sản phẩm, mà hình thành một nhóm giá gồm nhiều mức giá
nhưng chênh lệch không nhiều.
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
4

Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
Mâu thuẫn với một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: bên bán là các nhà hoạch
định giá và không thực thi giá cả, vì chúng là những nhà cung cấp duy nhất, tạo ra
mức giá cao hơn và sản lượng thấp hơn so với cạnh tranh hoàn hảo.
Cái lợi quan trọng mà thị trường cạnh tranh độc quyền cung cấp là sự đa dạng
của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu muôn vẻ và thích hợp với thu nhập của từng nhóm
khách hàng.
Các rào cản nhập cảnh có thể được luật pháp, công nghệ, kinh tế hoặc tự
nhiên. Như đã nói đúng bởi Milton Friedman rằng độc quyền thường xuyên phát
sinh từ sự hỗ trợ từ chính phủ hay do sự đồng thỏa thuận giữa các cá nhân.
1.2. Đặc điểm thị trường độc quyền nhóm:
Độc quyền nhóm có các đặc điểm sau:
 Thị trường do một số ít người bán chi phối, trong đó có ít nhất một số
người bán có sức mạnh đủ lớn so với toàn bộ thị trường để tác động đến giá thị
trường.
 Thị phần của mỗi DN là khá lớn và có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,
nghĩa là khi một DN có tiến hành chiến lược thay đổi giá cả, sản lượng, quảng
cáo ảnh hưởng đến bất kỳ các DN còn lại, lập tức các DN này sẽ phản ứng đối
phó lại nhằm bảo vệ thị phần của mình.
 Hàng hóa có thể không đồng nhất (ví dụ: xe ô tô, máy tính, thiết bị điện)
hoặc đồng nhất (ví dụ: xăng dầu, thép, nhôm) và các sản phẩm có khả năng thay thế
lẫn nhau.
 Các DN mới (tiềm tàng) khó hoặc không thể gia nhập ngành vì có
những rào chắn lối vào như: độc quyền về bằng sáng chế, quy trình công nghệ, có
ưu thế về quy mô lớn, uy tín, tiếng tăm của các DN hiện có, các DN lớn có thể
tiến hành những chiến lược để ngăn chặn những DN mới đi vào thị trường bằng
cách xây dựng khả năng sản xuất còn thừa, dọa sẽ bán phá giá và làm tràn ngập thị
trường sản phẩm nếu có DN mới gia nhập vào ngành
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
5

Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
 Đường cầu thị trường có thể thiết lập dễ dàng nhưng rất khó thiết lập
đường cầu từng DN vì phải dự đoán chính xác lượng cầu thị trường và số lượng
cung ứng của các đối thủ ở mỗi mức giá, mới thiết lập được đường cầu sản phẩm
của DN xác đáng.
Ví dụ: KFC quyết định hạ giá bánh mì Hambeger chẳng hạn, thì tác động lên
mức lợi nhuận của họ sẽ rất khác nếu Lotteria phản ứng lại bằng cách hạ mức giá
thấp hơn với bánh mì Sandwich với số lượng lớn. Do sự phụ thuộc lẫn nhau này,
các công ty độc quyền nhóm (hay độc quyền thiểu số) can dự vào hành vi chiến
lược. Hành vi chiến lược xảy ra khi kết quả tốt nhất cho một bên được quyết định
bởi hành động của các bên khác.
Mô hình đường cầu cong mô tả một trường hợp trong đó một công ty cho là
các công ty khác sẽ làm phù hợp với sự giảm giá của nó nhưng sẽ không cho phép
tăng giá tiếp theo. Chiến lược tối ưu trong một tình huống như vậy thường là giữ
mức giá hiện tại và cạnh tranh trên những mặt phi giá cả thay vì cạnh tranh giá. Ví
dụ, có hai loại nhà hàng: nhà hàng bình dân và nhà hàng sang trọng. Nhà hàng bình
dân thuộc về cạnh tranh độc quyền. Họ cạnh tranh trên vấn đề giá cả, xem ai nấu tô
phở rẻ và ngon. Nhưng nhà hàng sang trọng là độc quyền nhóm, vì có rất ít các nhà
hàng sang trọng trong một thành phố. Giá thức ăn rất là mắc, nhưng họ không cạnh
trạnh với nhau trên vấn đề giá cả, mà họ cạnh tranh với nhau trên vấn đề phong
cách phục vụ phi giá cả.)
2/ Các rào cản và thách thức:
2.1/ Các rào cản:
2.1.1. Rào cản cạnh tranh chiến lược:
Việc tìm cân bằng trong một thị trường độc quyền nhóm phức tạp hơn trong
mô hình thị trường khác, bởi vì ta cần xét hành vi của đối thủ cạnh tranh. Ta giả sử
rằng từng công ty muốn làm điều tốt nhất mà nó có thể làm, trong điều kiện đã biết
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
6
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

trước hành động của đối thủ cạnh tranh: ví dụ: sản phẩm tràn ngập thị trường, hoặc
kiểm soát một yếu tố đầu vào.
2.1.2. Rào cản tự nhiên:
Như tính kinh tế theo quy mô, bằng phát minh sáng chế, bí quyết thương hiệu,
công nghệ, lòng trung thành của khách hàng cao.
2.2. Thách thức:
Thách thức trong quản lý đối với các doanh nghiệp khi đối thủ của họ giảm giá
bán.
3/ Điều kiện cân bằng thị trường:
Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền hay cạnh tranh độc quyền
thì nhà sản xuất không cần tính đến phản ứng của các đối thủ khi lựa chọn các mức
sản lượng và giá bán.
Đối với thị trường độc quyền nhóm: thì nhà sản xuất phải tính đến phản ứng
của các đối thủ cạnh tranh khi đưa ra lựa chọn các mức sản lượng và giá bán.
Điều kiện cân bằng thị trường:
Các DN được tự do hành động sao cho có lợi cho DN nhất và do đó không có
động lực để DN thay đổi các quyết định về sản lượng và giá cả. Các DN khi đưa ra
quyết định phải lường trước được sự phản ứng của các đối thủ cạnh tranh.
Cân bằng Nash: từng công ty làm điều tốt nhất trong điều kiện đã biết hành
động của các đối thủ cạnh tranh
Chiến lược ưu thế: mỗi DN sẽ đưa ra quyết định tốt nhất cho mình bất kể hành
động của đối thủ.
4/ Phân loại thị trường:
Có thể phân biệt thị trường độc quyền nhóm thành hai loại:
 Các DN độc quyền nhóm hợp tác với nhau: khi các DN có thể thương lượng với
nhau và có những hợp đồng ràng buộc để đưa ra những chiến lược chung.
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
7
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
 Các DN độc quyền nhóm không hợp tác: khi các DN không liên lạc, không thương

lượng với nhau, không có những hợp đồng ràng buộc mà cạnh tranh với nhau.
4.1/ Các DN độc quyền nhóm hợp tác với nhau:
Dưới hai hình thức: hợp tác ngầm hoặc hợp tác công khai
a/ Độc quyền nhóm hợp tác ngầm (hay mô hình lãnh đạo giá):
Trong một số ngành dưới mô hình này các DN thường có ưu thế trên cả hai
mặt:
- Có chi phí sản xuất thấp nhất, chất lượng sản phẩm bảo đảm, ổn định, có
uy tín trên thị trường.
- Quy mô sản xuất lớn, sản lượng cung ứng chiếm tỷ trọng đáng kể trong
ngành.
 DN chiếm ưu thế như vậy sẽ là người quyết định giá bán, các DN khác sẽ là
người chấp nhận giá.
Xét mô hình:
 Lãnh đạo giá do có ưu thế về chi phí sản xuất thấp nhất:
Đồ thị biểu thị trường hợp trong ngành có 2 DN độc quyền tay đôi, mỗi bên
chiếm phân nữa thị trường, đường cầu mỗi bên là d. Điều kiện sản xuất của DN1
được biểu hiện bằng đường AC1 và MC1, điều kiện sản xuất của DN2 được thể
hiện qua đường AC2 và MC2. DN1 có chi phí sản xuất thấp hơn DN2.
Để tối đa hóa lợi nhuận, DN1 sẽ quyết định sản xuất ở mức sản lượng Q1 (tại
Q1: MC1 = MR), tương ứng với mức giá P1.
Tương tự, với DN2 để tối đa hóa lợi nhuận thì DN2 quyết định sản xuất ở mức
sản lượng Q2 (tại Q2: MC2 = MR), tương ứng mức giá P2.
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
8
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
Nhìn vào đồ thị ta thấy, giá của DN1 (P1) thấp hơn giá bán của DN2 (P2). Do
đó, để bảo vệ thị phần của mình, buộc lòng DN2 phải giảm giá và bán theo giá của
DN1 là P1. Như vậy, DN1 có chi phí thấp trở thành người lãnh đạo giá.
 Lãnh đạo giá do có ưu thế về quy mô sản xuất:
Trong ngành, DN có ưu thế về quy mô sản xuất lớn sẽ là người định giá sản

phẩm, các DN còn lại sẽ là người chấp nhận giá, theo mức giá mà DN thống trị đã
ấn định.
Nhìn vào mô hình: Giả sử:
Đường cầu thị trường về sản phẩm là D
Đường cung của các DN chấp nhận giá là SF
Đường cầu của DN lãnh đạo giá là DL: là chênh lệch giữa đường cầu thị
trường D và đường cung DN chấp nhận giá SF
Đường doanh thu biên tương ứng của DN lãnh đạo giá là MR và đường chi phí
biên là MC.
Để tối đa hóa lợi nhuận của mình, DN lãnh đạo giá sẽ sản xuất sản lượng ở
mức QL, tại đó MC = MR, và tương ứng với mức giá P1 tại đường cầu của DN
lãnh đạo giá (DL)
Tại mức giá P1, các DN đi theo, hay các DN chấp nhận giá sẽ bán với mức sản
lượng QF, do đó tại mức giá P1 thì sản lượng được bán ra trên thị trường là:
Q1=Ql+QF
b/ Độc quyền nhóm hợp tác công khai: hình thành mô hình cartel: ấn định
mức giá và sản lượng cần sản xuất theo nguyên tắc MC = MR.
Khi các DN công khai thỏa thuận hợp tác thỏa thuận với nhau thành một liên
minh sản xuất được gọi là Cartel.
Nếu tất cả các DN kết hợp thành một Cartel thì thị trường trở thành thị trường
độc quyền hoàn toàn. Để tối đa hóa lợi nhuận chung, cartel sẽ ấn định mức giá và
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
9
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
sản lượng cần sản xuất theo nguyên tác MC = MR, sau đó sẽ phân phối sản lượng
cho các DN thành viên dựa vào vị thế của mỗi DN, hay phân chia thị trường, mỗi
DN thành viên sẽ trở thành DN độc quyền trong khu vực của mình.
Trong thực tế, thường chỉ có một số DN trong ngành tham gia thành lập
Cartel, nên sản lượng của Cartel chỉ chiếm một phần trong tổng sản lượng, bởi còn
các DN nằm ngoài Cartel. Các Cartel thường có tính quốc tế, với mục tiêu nâng giá

cao hơn nhiều so với giá cạnh tranh bằng cách hạn chế sản lượng cung ứng.
Một Cartel thành công trong việc nâng cao mức giá nhằm gia tăng lợi nhuận
phải có đủ 3 điều kiện:
- Cầu thị trường là ít co giãn, khó có sản phẩm thay thế.
- Các DN cạnh tranh còn lại (không gia nhập Cartel) có cung co giãn là rất
ít, nghĩa là lượng cung của họ rất hạn chế.
- Sản lượng của Cartel ciểm tỷ trọng lớn và có chi phí thấp trong ngành,
đồng thời các DN thành viên phải trugn thực tuân theo đúng quy định của
Cartel.
Ví dụ về mô hình Cartel là tổ chức OPEC (Orgnization of Petrolium
Exporting Contries): OPEC thành lập năm 1960 gồm các nước: Iran, Iraq, Kuwait,
Saudi Arabia và Venezuela. Năm 1973 thêm 8 nước thành viên khác gia nhập tổ
chức này. Tổ chức OPEC kiểm soát ¾ trữ lượng dầu thế giới. Và khi tăng giá phải
thông qua quy định sản lượng các nước thành viên và tổ chức này đã thành công
trong duy trì hợp tác và giá cả cao.
Mục tiêu chính thức được ghi trong Hiệp ước thành lập của OPEC là bảo vệ
lợi ích của các nước-thành viên; bảo đảm sự ổn định thị trường dầu thô, bao gồm
các chính sách khai thác dầu mỏ, ổn định giá dầu mỏ và các sản phẩm dầu mỏ; bảo
đảm cung cấp đều đặn dầu mỏ cho các nước khác; bảo đảm cho các nước thành
viên nguồn thu nhập ổn định từ nguồn lợi dầu mỏ; xác định chiến lược khai thác và
cung cấp dầu mỏ. Thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
10
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu mỏ, OPEC chẳng
những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách giá cao trong một
thời gian dài.
OPEC là đề ra một chiến lược chung về dầu mỏ nhằm để giữ giá. OPEC dựa
vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu,
tạo ra khan hiếm hoặc dư thừa giả tạo nhằm qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá

dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm
cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất co các thành viên.
D
W
là đường cầu thế giới về dầu thô,
S
C
là đường cung về dầu của các nước ngoài OPEC,
D
OPEC
là đường cầu về dầu của OPEC: là mức chênh lệch giữa đường cầu thế
giới D
W
và đường cung cạnh tranh S
C
(D
OPEC
= D
W
– S
C
).
Đường doanh thu biên và đường chi phí biên của OPEC là MR
OPEC
và MC
OPEC
Chi phí sản xuất của OPEC thấp hơn nhiều so với các nước ngoài OPEC.
Để tối đa hóa lợi nhuận, OPEC sẽ sản xuất ở sản lượng Q
OPEC
(tại đó MC =

MR), tương ứng với mức giá P
*
.
Ở mức giá P
*
các nước ngoài OPEC sẽ cung cấp Q
C
; lượng cầu thế giới ở mức
giá P
*
là Q
W
= Q
C
+ Q
OPEC
.
Trước khi có Cartel OPEC, các nước sản xuất cạnh tranh nhau thì giá cạnh
tranh là P
C
– là mức giá tại đó đường cầu OPEC cắt đường MC.
Như vậy giá mà Cartel ấn định P
*
cao hơn rất nhiều so với mức giá P
C
trước
khi chưa thành lập Cartel.
Sở dĩ OPEC thành công trong việc ấn định giá vì cầu về dầu mỏ của thế giới là
co giãn ít, không có sản phẩm thay thế, còn lượng cung dầu mỏ trong ngắn hạn của
các nước ngoài OPEC là ít co giãn. Chi phí sản xuất của OPEC thấp hơn và cung

cấp lượng dầu lớn chiếm 2/3 lượng sản cung thế giới.
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
11
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
4.2. Độc quyền nhóm không hợp tác:
4.2.1. Mô hình Cournot:
Đây là mô hình đơn giản do nhà kinh tế học người Pháp Augustin Cournot đưa
ra vào năm 1938. Với giả định:
- Thị trường chỉ có hai DN sản xuất sản phẩm giống nhau nên chỉ có một mức
giá trên thị trường sản phẩm.
- Cả hai DN này đều am hiểu nhu cầu thị trường và chi phí của nhau.
- Giá sản phẩm trên thị trường sẽ phụ thuộc vào tổng sản phẩm của cả 2 DN.
Vấn đề đặt ra là cả hai DN chỉ có một lần và cùng một lúc đưa ra quyết định
sản xuất bao nhiêu sản phẩm để tối đa hóa lợi nhuận.
Thực chất của vấn đề này là mỗi DN xem như lượng sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh là cố định, rối quyết định lượng sản phẩm của mình để đạt lợi nhuận tối
đa.
Ví dụ: Hàm số cầu thị trường của sản phẩm X là: P = 50 - Q. Có 2 DN sản
xuất sản phẩm X. DN1 và DN2 đều sản xuất có chi phí trung bình và chi phí biên
không đổi là AC=MC = 4. Với Q = Q
1
+ Q
2
, Q
1
là sản lượng của DN1 và Q
2
là sản
lượng của DN2.
Để tối đa hóa lợi nhuận, DN1 sẽ quyết định sản xuất bao nhiêu sản phẩm là

tùy thuộc vào sản lượng mà nó dự đoán DN2 sẽ sản xuất:
+ Nếu DN1 cho rằng DN2 không sản xuất (nghĩa là Q
2
= 0) thì đường cầu
của DN1 chính là đường cầu thị trường: P = 50 - Q
1
. Để tối đa hóa lợi nhuận DN1
quyết định sản xuất sản lượng Q
1
mà tại đó: MR
1
= MC = 5 hay 50 - 2Q
1
= 4, ta
tính được Q
1
= 23.
+ Nếu DN1 cho rằng DN2 sản xuất Q
2
= 23, thì đường cầu DN1 sẽ dịch
chuyển sang trái một đoạn bằng 23, D
1(23)
có dạng: P = 27 - Q
1
. Để tối đa hóa lợi
nhuận DN1 quyết định sản xuất sản lượng Q
1
, tại đó MR
1(23)
= MC, hay 27 - 2Q

1
=
5 và ta được Q
1
= 11
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
12
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
+ Nếu DN1 dự đoán DN2 sản xuất Q
2
= 34, thì đường cầu mới của DN1
có dạng:
P = 16 – Q
1
. Để tối đa hóa lợi nhuận, MR
1(34)
= MC = 5 hay 16 – 2Q
1
= 5, ta được Q
1
= 5.5
+ Nếu DN1 dự đoán Q
2
= 45 thì D
1(45)
là: P = 5 – Q
1
. Để tối đa hóa lợi
nhuận, MR
1(45)

= MC hay 5 – 2Q
1
= 5, ta tính được Q
1
= 0.
Như vậy, quyết định sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận của DN1 phụ thuộc vào
sản lượng của DN2, thể hiện qua bảng sau:
Q
2
0 23 34 45
Q
1
23 11 5.5 0
Tổng quát, ta có đường cầu của DN1 có dạng:
D
1
: P = 50 – (Q
1
+ Q
2
) = (50 – Q
2
) – Q
1
 MR = (50 – Q
2
) – 2Q
1
Để tối đa hóa lợi nhuận, DN1 sẽ quyết định sản xuất theo nguyên tắc:
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm

13
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
MR
1
= MC
1
(50 – Q
2
) – 2Q
1
= 5
Q
1
= 22.5 – ½ Q
2
(1)
Phương trình (1) được gọi là phương trình phản ứng của DN1.
Phương trình phản ứng của một DN thể hiện số lượng sản phẩm mà DN sẽ sản xuất
để tối đa hóa lợi nhuận, khi số lượng sản phẩm của DN đối thủ coi như đã biết.
Tương tự, phương trình phản ứng của DN2 là:
Q
2
= 22.5 – ½ Q
1
(2)
* Lưu ý: khi MC1 ≠ MC2
=> đường phản ứng của DN1≠ DN2
Trạng thái cân bằng (Cân bằng Cournot) được xác định ở giao điểm của 2
đường phản ứng, ở đó mỗi DN dự đoán chính xác số lượng sản phẩm mà đối thủ
cạnh tranh sản xuất và quyết định sản lượng thích hợp để tối đa hóa lợi nhuận của

mình và khi đó cả 2 đểu không có ý muốn thay đổi quyết định của mình.
 Nếu hai DN không cấu kết với nhau:
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
14
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
Để xác định thế cân bằng Cournot thay phương trình (2) vào phương trình (1)
ta có, Q
1
= Q
2
= 15 suy ra P = 20.
Lợi nhuận của mỗi DN là: r
1
= (P – AC) x Q
1
= (P – AC) x Q
2
= 200
Tổng lợi nhuận của ngành: r = r
1
+ r
2
= 400
 Nếu hai DN cấu kết với nhau:
Nếu 2 DN cấu kết hay cùng quyết định sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận
chung thì cũng tương tự như một DN độc quyền với hai cơ sở, đường cầu thị
trường chính là đường cầu đứng trước tổ chức độc quyền này: P = 50 – Q, do đó
MR = 50 – 2Q. Sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận của 2 DN thỏa điều kiện MR =
MC hay 50 – 2Q = 5, như vậy Q = 22.5 và Q
1

= Q
2
= 11.25 => P = 27.5, do đó:
R
max
= (P – AC) x Q = 506.25
 r
1
= r
2
= 253.125
Như vậy nếu cấu kết với nhau, cả 2 sẽ sản xuất ít hơn, giá bán cao hơn và lợi
nhuận cao hơn so với thế cân bằng Cournot. Trong trường hợp này mọi sự kết hợp
sản lượng Q
1
và Q
2
của cả 2 DN luôn bằng 22.5 đều đạt lợi nhuận tối đa. Đường Q
1
+ Q
2
= 22.5 được gọi là đường hợp đồng.
Đường hợp đồng là tập hợp các tổ hợp sản lượng của 2 DN để tối đa hóa lợi
nhuận chung.
Nhược điểm: trong thực tế, những giả định của mô hình Cournot thường khó
mà thực hiện được, chỉ một lần DN không thể chọn đúng sản lượng ở thế cân bằng
mà phải trải qua quá trình thăm dò, điều chỉnh mới có thể đạt được.
4.2.2. Mô hình Stackelberg (lợi thế của người hành động trước):
Với giả định:
- Thị trường có hai doanh nghiệp DN1 và DN2

- Sản phẩm đồng nhất
- DN1 quyết định công bố trước sản lượng sản xuất của DN mình
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
15
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
DN1 sẽ có một lợi thế chiến lược và sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Bởi vì khi
DN1 chọn mức sản lượng lớn thì đối thủ cạnh tranh là DN2 phải chọn mức sản
lượng nhỏ hơn nếu muốn tối đa hóa lợi nhuận vì nếu DN2 đặt Q lớn hơn =>đẩy
P↓=>cả 2 bị thiệt
Xét lại ví dụ trên, giả sử DN1 quyết định trước sản lượng là Q
1
thì DN2 sẽ sản
xuất sản lượng là Q
2
= 22.5 – ½ Q
1

Hàm cầu của DN1 sẽ có dạng: P = 50 – Q
1
– Q
2
= 27.5 – ½ Q
1
Hàm doanh thu biên của DN1: MR
1
= 27.5 – Q
1
Để đạt lợi nhuận tối đa, DN1 sẽ sản xuất theo nguyên tắc: MR
1
= MC

1
Hay 27.5 – Q
1
= 5 giải phương trình ta có Q
1
= 22.5
Thay vào phương trình (2) ta có: Q
2
= 11.25
Và P = 50 – 22.5 – 11.25 = 16.25
r
1
= (P – AC) x Q
1
= 253.125
r
2
= (P – AC) x Q
2
= 126.5625
Qua ví dụ trên ta thấy rằng:
 Lợi nhuận của DN1 cao hơn so với mô hình Cournot
 Lợi nhuận của DN2 thấp hơn so với mô hình Cournot
Tại sao? Vì DN1 có thể đề ra một mức sản lượng trước DN2 và sử dụng mục
tiêu này để chiếm lấy phần lớn thị trường. DN2 không xông xáo phản ứng lại điều
này bởi vì không có tác động ăn cắp-thương mại trong mô hình này. DN1 sẽ sản
xuất sản lượng cao hơn và thu được lợi nhuận cao hơn so với DN2.
Như vậy, thông thường người hành động trước là người có thế lực thị trường lớn
hơn.
 Các mô hình Cournot và Stackelberg là những biểu hiện của thái độ độc

quyền nhóm. Để lựa chọn việc mô hình nào là thích hợp hơn tùy thuộc vào lĩnh vực
kinh hoạt động. Đối với một ngành công nghiệp gồm có những hãng đại thể giống
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
16
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
nhau, không một hãng nào có được lợi thế hành động hay vị thế lãnh đạo mạnh mẽ,
mô hình Cournot chắc chắn thích hợp hơn. Mặt khác, một số ngành công nghiệp bị
khống chế bởi một hãng lớn, hãng này thường lãnh đạo trong việc đưa ra những sản
phẩm mới hay việc định giá thì mô hình Stackelberg thích hợp hơn.
4.2.3. Mô hình Bertrand – Cạnh tranh giá cả:
Với giả định:
+ các DN định giá cùng lúc
+ sản phẩm đồng nhất
+ không hợp tác
Mô hình Bertrand về độc quyền nhóm cho rằng các DN sản xuất một sản vật
giống nhau nhưng cạnh tranh với nhau bằng cách ấn định giá cả, mỗi doanh nghiệp
coi các giá của các đối thủ cạnh tranh với mình là cho trước và DN nào có giá cả
thấp nhất sẽ chiếm đoạt được toàn bộ số hàng bán ra. Trong trường hợp này, DN
nào cũng có động cơ làm cho giá cả của mình thấp hơn của các đối thủ cạnh với
mình, cho đến khi giá cả bị kéo xuống bằng chi phí biên.
Tính đồng nhất hàm ý người tiêu dùng sẽ mua của bên bán giá thấp. Công ty
định giá cao hơn sẽ không bán được gì.
Mỗi DN nhận thức được rằng cầu của mình phụ thuộc vào giá của chính mình
lẫn giá do các DN khác ấn định. Do đó, bất cứ giá nào ít nhất bằng chi phí biên đều
bảo đảm lợi nhuận không âm.
Nếu ta giả định không có hạn chế về công suất và mọi DN đều có chi phí biên
và chi phí trung bình không đổi, khi đó:
Để đáp ứng của DN này với DN kia là tốt nhất thì mỗi công ty phải giảm giá
của mình chừng nào mà ta vẫn còn P > MC.
Vậy quá trình này sẽ kết thúc ở đâu? ở P = M, nên trong cân bằng:

 Các DN ấn định giá bằng với chi phí biên
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
17
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
 Các DN thu lợi nhuận bằng không
Tuy nhiên, mô hình này gặp hai nhược điểm lớn là:
 Khi các DN đã ấn định giá và thống nhất bán cùng mức giá, lúc đó những người
tiêu dùng đứng trung lập giữa DN, như vậy thị phần của các DN sẽ khó được xác
định trong thế cân bằng. Vì vậy, cạnh tranh số lượng là điều hiện thực hơn khi một
sản vật giống nhau được sản xuất.
 Ngoài ra, khi các DN sản xuất ra các sản phẩm đồng nhất, và đã chứng tỏ được
rằng các DN cạnh tranh với nhau bằng cách ấn định trước các khả năng đầu ra rồi
mới ấn định giá cả thì lại quay về thế cân bằng Cournot về số lượng.
4.2.4. Mô hình đường cầu gãy – tính cứng nhắc của giá cả:
Vì sự cấu kết ngầm giữa các DN đồng quyền nhóm có xu hường là mong
manh, nên các DN đều rất mong muốn có một sự ổn định, đặc biệt là trong lĩnh vực
giá cả. Điều đó giải thích tại sao tính cứng nhắc của giá cả lại thường là một đặc
điểm của các ngành công nghiệp độc quyền nhóm. Dù cho các chi phí hay nhu cầu
thay đổi, các DN vẫn không sẵn lòng thay đổi giá cả. Nếu các chi phí giảm xuống
hay nhu cầu của thị trường suy thoái, các DN đều không sẵn lòng hạ thấp giá cả vì
việc đó có thể gửi một thông điệp sai lạc tới các đối thủ cạnh tranh của họ và do đó
dẫn tới chiến tranh giá cả. Và nếu như các chi phí hay nhu cầu gia tăng, các DN
cũng không sẵn lòng nâng cao giá vì họ sợ rằng các đối thủ cạnh tranh của họ
không thể cùng nâng cao giá.
Tính cứng nhắc này của giá cả là nền tảng của mô hình “đường cầu gãy“ (hình
vẽ). Theo mô hình này, mỗi DN đứng trước đường cầu gãy với mức giá phổ biến là
P
1
. Ở những mức giá cao hơn P
1

, đường cầu rất co giãn, bởi vì mỗi DN cho rằng
nếu tăng giá sản phẩm cao hơn mức giá P
1
thì sẽ không một đối thủ nào tăng giá
theo, do đó thị phần và doanh thu của DN sẽ bị giảm.
Ngược lại, ở những mức giá thấp hơn P
1
, đường cầu rất ít co dãn, vì khi một
DN hạ giá bán sản phẩm của mình thấp hơn mức giá hiện hàng P
1
thì các đối thủ
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
18
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
cũng sẽ hạ giá theo vì họ không muốn bị giảm thị phần, do vậy lượng sản phẩm bán
ra của DN chỉ tăng đến phạm vi lượng cầu của thị trường tăng do giá giảm.
Vì thế, đường cầu của DN độc quyền nhóm là đường cầu gãy tại mức giá hiện
hành là P
1
, đường doanh thu biên tương ứng không liên tục tại sản lượng Q
1
. Do đó
nếu chi phí biên tăng từ MC
1
lên MC
2
(hoặc ngược lại) thì xí nghiệp vẫn sản xuất ở
sản lượng như cũ Q
1
với giá bán ra vẫn không đổi P

1
.
Nhược điểm của mô hình này là không giải thích được sự hình thành mức giá
thị trường P
1
Ngày nay các DN luôn né tránh cuộc cạnh tranh bằng giá cả vì hậu quả của nó
là các bên đều bị thiệt hại, nhưng để tồn tại và phát triển, các DN luôn nổ lực tìm
kiếm những hình thức cạnh tranh phi giá cả an toàn và hiệu quả nhất.
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
19
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN NHÓM TẠI VIỆT NAM
Những lĩnh vực độc quyền nhóm (oligopoly) bao gồm: Xăng dầu, bảo hiểm,
ngân hàng, xi măng, sắt thép, mía đường, xuất, nhập khẩu cà phê, xuất nhập khẩu
gạo, du lịch (trừ kinh doanh khác sạn)…
Do các cơ quan địa phương quyết định hành chính để bảo vệ doanh nghiệp nhà
nước, ở không ít tỉnh đã xuất hiện tình trạng “độc quyền địa phương”, “độc quyền
cục bộ”, như đến tỉnh A chỉ được dùng bia của doanh nghiệp nhà nước tỉnh đó, xi
măng tỉnh đó sản xuất hay chỉ có công ty lương thực của tỉnh mới được độc quyền
kinh doanh thu mua gạo, … dẫn đến biến dạng nghiêm trọng trên thị trường.
Các sản phẩm và dịch vụ độc quyền được bảo hộ rất cao đối với cạnh tranh
nước ngoài. Hàng không nội địa, dịch vụ điện thoại hữu tuyến và viễn thông, bến
cảng, …không có cạnh tranh. Hệ số bảo hộ có hiệu lực rất cao đối với nhiều ngành
công nghiệp chế biến như: đồ uống không cồn 126%, đường 125%, xi măng 69%,
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
20
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
xe máy 144%, …Mức độ bảo hộ này chưa tính đến các yếu tố bảo hộ phi thuế
quan.
Dưới đây là một số ngành tượng trưng cho việc độc quyền nhóm ở Việt Nam:

1. Độc quyền nhóm trong ngành xăng dầu:
Xăng, dầu là mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân.
Giá cả của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Vì thế, trong suốt nhiều năm
qua, nhà nước đã can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành giá mặt hàng này ở thị
trường nội địa. Tuy nhiên, lộ trình thị trường hóa mặt hàng xăng, dầu cũng đã được
tính đến từ năm 2003.
Chính phủ đã ban hành Quyết định 187 (ngày 15/9/2003) về quy chế quản lý
kinh doanh xăng, dầu, cho phép doanh nghiệp (DN) được điều chỉnh giá bán trong
phạm vi 5% đối với dầu, 10% đối với xăng - trong khung giá định hướng do nhà
nước xác định. Sau đó, Nghị định số 55 của Chính phủ quy định về kinh doanh
xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường Việt Nam được ban hành
(ngày 06/4/2007) - thay thế QĐ 187 - đã quyết định đưa mặt hàng xăng theo giá thị
trường và kể từ ngày 16/9/2008 là chấm dứt bù lỗ tất cả các mặt hàng dầu - để vận
hành kinh doanh xăng, dầu theo cơ chế giá thị trường theo Quyết định 79 về Cơ chế
quản lý điều hành giá xăng dầu.
Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) hiện vẫn chiếm tới gần 60%
thị phần xăng dầu cả nước. Một vấn đề nữa cũng được nhiều chuyên gia lý giải cho
việc độc quyền của Petrolimex, đó là nguyên tắc “một giá” trong suốt một năm qua,
kể từ khi xóa bỏ bù lỗ hoàn toàn mặt hàng xăng, dầu. Việc vận hành kinh doanh
xăng dầu theo cơ chế thị trường, đồng nghĩa với việc phải có cạnh tranh cả về giá
bán của các đơn vị đầu mối nhập khẩu xăng dầu, để tạo ra một thị trường có nhiều
giá bán. Tuy nhiên, mỗi lần điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu, các doanh nghiệp lại có
chung một mức điều chỉnh và thời gian thì cũng… gần như trùng thời điểm. Điều
này khẳng định thị trường xăng dầu nước ta đang bị độc quyền về giá.
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
21
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
Và một khi Petrolimex là một doanh nghiệp lớn của nhà nước, chiếm giữ tới
60% thị phần xăng dầu cả nước thì đương nhiên cũng chi phối luôn giá cả thị
trường này. Còn 10 doanh nghiệp đầu mối khác, cũng vẫn là các doanh nghiệp nhà

nước. Trên nguyên tắc, với thị phần ít hơn, sức ép đảm bảo nguồn cung cũng ít
hơn… thì cho dù quyền lợi có được hưởng nhiều hơn cũng không thể đưa giá
xuống thấp hơn.
Ở Việt Nam, việc đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đã diễn ra
từ hơn 20 năm nay. Thế nhưng, cho đến giờ sự độc quyền thời bao cấp trong một số
lĩnh vực như kinh doanh xăng dầu vẫn còn khá đậm nét. Luật Cạnh tranh, trong
khi đó, vẫn chưa phát huy được tác dụng trong việc chống độc quyền.
Hiện đang có 11 đơn vị đầu mối tham gia kinh doanh xăng dầu nhưng hơn
60% khối lượng phân phối lại nằm trong tay Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex). Do vậy, việc tăng hay giảm giá xăng dầu là tùy thuộc vào họ sau khi
có quyết định cho phép các đơn vị kinh doanh xăng dầu được chủ động về giá bán
từ ngày 15-12-2009.
2. Độc quyền nhóm trong ngành bảo hiểm
Hiện tượng độc quyền nhóm trong ngành bảo hiểm được thể hiện ở chỗ chỉ có
một vài tập đoàn lớn làm bảo hiểm ở nước ta, nhưng lại có một thị trường để bán
bảo hiểm rất tiềm năng, vẫn còn một khối lượng lớn người dân vẫn chưa tham gia
mua bảo hiểm.
Năm 1976, khi hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, công ty được
chuyển thành chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí
Minh. Thời kỳ này, Bảo Việt là công ty duy nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở
Việt Nam theo chế độ hạch toán kế toán kinh tế thống nhất toàn ngành. Công ty
trực thuộc Bộ Tài chính, có chức năng giúp Bộ Tài chính thống nhất quản lý công
tác bảo hiểm Nhà nước và trực tiếp tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm trong cả nước.
Trong giai đoạn này, ở Việt Nam, Bảo Việt độc quyền kinh doanh bảo hiểm nên các
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
22
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
sản phẩm của Bảo Việt chưa đa dạng, chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm
phi nhân thọ với khoảng 20 sản phẩm bảo hiểm.
Ngày 18/12/1993, nghị định 100 CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã

được Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt
Nam. Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ
chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc
dù vậy, phải từ sau năm 1995, một loạt các công ty kinh doanh bảo hiểm mới ra
đời: Bảo Minh, VINARE, PVI, PJICO và các công ty liên doanh bảo hiểm như:
UIC, VIA,
Tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm như:
* Các công ty kinh doanh bảo hiểm theo luật kinh doanh bảo hiểm
- Doanh nghiệp nhà nước (bao gồm: công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt),
Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), Bảo hiểm dầu khí Việt Nam
(PVI))
- Công ty cổ phần (bao gồm: Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO),
Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI), Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng
(Bảo Long))
- Công ty liên doanh (bao gồm: Công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh – CMG,
Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế (VIA), Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc
(BIDV - QBE), Công ty bảo hiểm liên hợp (United Insurance Company of Vietnam
- UIC), Công ty TNHH bảo hiểm Samsung - Vina, Công ty liên doanh TNHH bảo
hiểm Châu Á - Ngân hàng Công thương (IAI)
- Công ty 100% vốn nước ngoài (bao gồm: Công ty TNHH bảo hiểm
Prudential, Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA), Công ty TNHH bảo hiểm
Manulife, Công ty TNHH bảo hiểm Allianz, Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp
Groupama Việt Nam
- Tổ chức bảo hiểm tương hỗ
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
23
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
* Tổ chức tái bảo hiểm
* Các tổ chức trung gian bảo hiểm
* Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (AIV)

Nếu như trước năm 1993, ở nước ta chỉ có Bảo Việt độc quyền kinh doanh,
hoạt động dưới hình thức bao cấp thì đến hết năm 2002 đã có tới 23 doanh nghiệp
thuộc nhiều loại hình sở hữu tham gia kinh doanh: các doanh nghiệp nhà nước là
Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và VINARE; các công ty cổ phần PJICO, PTI, Bảo Long;
các doanh nghiệp liên doanh Bảo Minh - CMG, VIA, UIC, IAI, BIDV-QBE,
Samsung - Vina và 5 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài gồm: Prudential, AIA,
Manulife, Alianz, Groupama cùng với 5 công ty môi giới bảo hiểm: AIB, Đại Việt,
Gras Savoye Bên cạnh đó, sự hiện diện của hơn 40 văn phòng đại diện của các
công ty bảo hiểm nước ngoài có uy tín càng đẩy mạnh sự phát triển của ngành bảo
hiểm.
Mạng lưới đại lý bảo hiểm được mở rộng và đã dần phủ kín toàn quốc. Bảo
Việt đã có hệ thống đơn vị thành viên ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước gồm
61 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 56 công ty bảo hiểm nhân thọ, 5 chi nhánh bảo
hiểm nhân thọ, 1 trung tâm đào tạo với gần 5.000 nhân viên, trên 18.000 đại lý và
cộng tác viên hoạt động trên khắp mọi miền đất nước. Riêng công ty Bảo Việt cũng
thời gian qua đã góp vốn vào thành lập nên 15 công ty cổ phần lớn, trong đó có các
công ty như Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế, Công ty cổ phần Chứng khoán
Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
Sự xuất hiện của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một môi
trường cạnh tranh đầy tính tích cực. Sự cạnh tranh quyết liệt đã khiến các công ty
phải giảm phí, mở rộng điều kiện, điều khoản bảo hiểm. Các công ty đều phải có
chiến lược cụ thể và lâu dài vì giờ đây, khách hàng đã có nhiều lựa chọn.
Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hiện
tỏ ra vượt trội về nhiều mặt, đặc biệt là có ưu thế về kinh nghiệm, uy tín, khả năng
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
24
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
phát triển hệ thống đại lý, mở rộng thị trường Các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước vốn chưa quen với việc môi trường cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường
đã sử dụng nhiều biện pháp không lành mạnh như dùng mệnh lệnh hành chính để

tác động đến thị trường, gây bất bình đẳng trong cạnh tranh và đi ngược lại những
nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, tình trạng đưa thông tin sai lệch
gây tổn hại đến hình ảnh của đối thủ cạnh tranh nhằm lôi kéo khách hàng cũng
thường xuyên xảy ra.
Hiện tượng "độc quyền công ty" hiện nay cũng diễn ra phổ biến với sự tham
gia của các công ty cổ phần bảo hiểm. Hầu hết các cổ đông thành lập nên các công
ty cổ phần bảo hiểm là các doanh nghiệp nhà nước đang nắm vai trò quan trọng
trong nền kinh tế như: xăng dầu, dầu khí, bưu điện Điều này dẫn tới một thực tế
là các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc ngành, thuộc tổng công ty có cổ phần ở
công ty bảo hiểm nào sẽ phải mua bảo hiểm tại đó. Bảo Việt đã phải chuyển bảo
hiểm cho hành khách đường sắt cho PJICO vì Tổng công ty đường sắt Việt Nam là
cổ đông của PJICO. Tình trạng này sẽ khiến các công ty bảo hiểm ỷ lại, không chịu
khó tìm kiếm thêm thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Hiện nay, các công ty bảo hiểm đều có mối quan hệ hợp tác bảo hiểm và tái
bảo hiểm với các tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới như: Commercial Union,
Tokyo Marine, Yasuda, Sedgwich, Willis Corroon, Munich Re, Swiss Re Bộ Tài
Chính cũng không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác với các cơ quan quản lý
bảo hiểm của EU, ASEAN, từ đó, từng bước chuẩn hóa môi trường kinh doanh bảo
hiểm để phù hợp với tình hình chung của khu vực và thế giới.
3. Độc quyền trong xuất khẩu gạo
Một thời gian dài, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao là nhờ vào xuất khẩu.
Rõ ràng trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát triển ổn định, thì thị trường xuất
khẩu ít có những đột biến lớn xảy ra nên đà tăng trưởng của xuất khẩu liên tục
được duy trì. Do hướng mạnh vào xuất khẩu như vậy, nên Nhà nước, doanh nghiệp
Nhóm 4: Thị trường độc quyền nhóm
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×