Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.44 KB, 32 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Để có thể tạo ra được những tài sản vật chất cụ thể cho nền kinh tế
quốc gia, nhất thiết phải cần tới việc sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động
đầu tư. Vốn đó có thể xuất phát từ nội lực nền kinh tế trong nước, cũng có
thể thu hút từ nước ngoài và đi vào phục vụ nền kinh tế chủ yếu thông qua
các dự án đầu tư.
Một dự án đầu tư có thể được xác định theo nhiều cách. Các dự án có
thể do các Bộ, Ngành hữu quan đề xuất, chúng có thể bắt nguồn từ quá trình
xây dựng các kế hoạch kinh tế quốc gia, hoặc cũng có thể được đề xướng bởi
các động lực chính trị. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và
nước ngoài khi đầu tư cũng đòi hỏi chính phủ phải trợ giúp hoặc phê chuẩn
trước khi thực hiện.
Trong bất kể một dự án đầu tư nào, bao giờ cũng có sự mâu thuẫn
tiềm ẩn về lợi ích giữa những người đề xuất dự án hay chương trình và
toàn xã hội. Sự mâu thuẫn này không phải là một chuyện gì mới lạ: lợi
ích của các dự án thường được tập trung cho một bộ phận tương đối hạn
hẹp (thường là các chủ đầu tư) trong khi những chi phí về môi trường,
chi phí cơ hội cho nguồn lực thì lại phân bổ cho toàn bộ xã hội. Do vậy
mà không một cá nhân nào thấy mình phải chịu gánh nặng chi phí mà các
dự án đem lại. Kết quả có thể đoán trước được là những người được
hưởng lợi từ dự án có xu hướng tận dụng triệt để các ưu đãi về nguồn lực
và cố gắng giảm tối thiểu các chi phí bằng cách chuyển các gánh nặng
chi phí. Trong khi đó nhóm người có khả năng bị thiệt hại (là những
người phải gánh chịu chi phí ) lại quá phân tán và những mất mát của
từng cá nhân trong số họ lại quá nhỏ, bởi vậy họ không thể trở thành một
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
đối trọng hiệu quả chống lại nhóm hưởng lợi có tính tập trung cao. Theo
cách này, cán cân chính trị thường nghiêng về phía chấp thuận các dự án,
ngay cả các dự án có thể gây thiệt hại cho sự phát triển chung của cả
quốc gia. Để ngăn chặn điều này xảy ra cần phải có sự can thiệp của


chính phủ thông qua các quy định về đầu tư, ban hành các tiêu chuẩn
định mức, và chỉ cấp phép cho các dự án đầu tư đủ tiêu chuẩn. Muốn làm
được như vậy cần thông qua công tác thẩm định, giám sát đầu tư để làm
căn cứ quyết định.
Trên thực tế, công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn
khá sơ sài, các khía cạnh nghiên cứu, đánh giá phần lớn chỉ mang tính phân
tích định tính, thiếu tính định lượng nên mang tính phiến diện trong đánh giá.
Thêm vào đó, cơ sở lý luận về vấn đề này lại rất thiếu thốn bởi những vấn đề
lý luận chỉ dừng lại ở việc đưa ra các khái niệm, vấn đề liên quan đến tính
hiệu quả xã hội của dự án chứ chưa phân tích sâu hơn trong khía cạnh thẩm
định…Điều này đặt ra một vấn đề bức thiết đó là phải nâng cao chất lượng
công tác thẩm định các dự án đầu tư. Cũng bởi vậy mà tôi đã chọn đề tài:
“Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu và làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu tổng quát:
- Tổng hợp cơ sở lý luận cho việc thành lập 1 khung thẩm định hoàn
thiện cho công tác thẩm định các dự án đầu tư. Đồng thời tạo cơ sở quản trị
rủi do cho các dự án đầu tư.
- Đánh giá thực trạng công tác thẩm định trong thời gian qua, các mặt
được cũng như hạn chế, làm cơ sở đề ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa
công tác thẩm định dư án.
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
b. Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hoá và bổ sung các vấn đề lý luận liên quan đến công tác
thẩm định kinh tế dự án đầu tư nước ngoài.
- Phân tích thực trạng và đánh giá những kết quả đạt được của công tác
thẩm định dự án đầu tư FDI.
- Dựa trên những đánh giá, phân tích thực trạng để làm cơ sở đề ra các

giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước với công tác
Thẩm định dự án đầu tư nước ngoài. Tức là đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu công
tác thẩm định tính kinh tế đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phạm vi về không gian nghiên cứu của đề tài là các dự án đầu tư nước
ngoài đầu tư tại Việt Nam, với phạm vi thời gian từ năm 1988 ( năm bắt đầu
thực hiện luật đầu tư nước ngoài) đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sừ dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp
phân tích định tính (gồm các chỉ tiêu định tính, thể hiện các chủng loại hiệu
quả đạt được: hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả
quốc gia và cộng đồng); phương pháp phân tích định lượng (gồm các chỉ tiêu
định lượng, thể hiện quan hệ giữa chi phí và kết quả đạt được của dự án) và
phương pháp phân tích dòng tiền, phân tích chi phí – lợi ích.
5. Kết cấu đề tài
Từ vai trò của các dự án đầu tư, từ đó là vai trò của công tác thẩm
định, giám sát đầu tư đối với nền kinh tế Việt Nam, cùng với yêu cầu cấp
thiết đặt ra cho hoàn thiện hệ thống thẩm định trong tình hình hiện nay, tôi
chọn đề tài “Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu làm chuyên đề thực
tập tốt nghiệp. Tôi mong muốn đề tài có thể đóng góp một chút công sức vào
việc nghiên cứu, hệ thống vấn đề, đề xuất các giải pháp và cải thiện được
công tác thẩm định dự án về dự án đầu tư ở Việt Nam.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, kết cấu của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác thẩm định dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Chuơng 2 : Thực trạng công tác thẩm định các dự án đầu tư FDI
vào Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư nước
ngoài.
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1. Khái niệm và đặc điểm dự án đầu tư
1.1. Khái niệm dự án đầu tư :
Từ khi thuật ngữ dự án ra đời, người ta thường dùng nó để chỉ những
hoạt động, những quá trình rất khác nhau trong từng lĩnh vực cụ thể. Chúng
ta đã được biết đến các dự án như dự án “đường dây cao thế 500kw xuyên
Bắc Nam”, dự án “Xây dựng đường cao tốc Thăng Long-Nội Bài”, dự án
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, dự án cải cách hệ thống hành chính, dự
án cải tạo và nâng cấp môi trường đô thị, dự án tăng cường tiềm lực và phát
triển công nghệ quốc phòng tới năm 2010…Các dự án được tiến hành trong
các lĩnh vực rất khác nhau, với các nội dung và các hoạt động cụ thể cũng rất
khác nhau, nhưng chúng đều được gọi là dự án. Mỗi một dự án đều được xác
định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc, cũng như thoả mãn các yêu cầu cụ thể
của nền kinh tế hoặc của một tổ chức nhất định.
Từ trước tới nay có rất nhiều các nhà khoa học kinh tế cũng như các nhà
quản lý đã đưa ra khái niệm rất khác nhau về dự án. Mỗi một quan niệm
nhấn mạnh về một số các khía cạnh của một dự án cùng các đặc điểm quan
trọng của nó trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Nếu xét về hình thức, dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết và có hệ thống một dự kiến đầu tư trong tương lai.
Nếu xét về góc độ nội dung, dự án được hiểu là một ý đồ tiến hành một
công việc cụ thể nào đó nhằm đạt mục tiêu xác định trong khuôn khổ nguồn
lực nhất định và khoảng thời gian nhất định.
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

Nếu xét ở góc độ kế hoạch, dự án được hiểu là một chi tiết đầu tư về phát
triển, là đơn vị kế hoạch độc lập nhỏ nhất trong hệ thống kế hoạch hoá, làm
cơ sở cho việc ra quyết định về đầu tư phát triển.
Nếu từ giác độ quan sát các hoạt động cần thiết cho một dự án thì dự án
được hiểu là hàng loạt các hoạt động cần thiết nhằm xác định mục tiêu, tiến
hành các nghiên cứu khả thi, dự đoán chi phí, hoàn thiện các thủ tục và thiết
kế cuối cùng, cũng như việc lắp đặt và hoàn thiện các điều kiện làm việc.
Một dự án nhất định sẽ bị giới hạn về thời gian, con người cùng các nguồn
lực khác để hoàn thành mục tiêu đã được xác định.
Như vậy, một dự án có thể được xem xét như là một chuỗi các công việc
và các nhiệm vụ:
Có mục tiêu cụ thể được hoàn thành trong những điều kiện nhất định
Được xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc.
Có giới hạn nhất định về tài chính
Sử dụng các nguồn lực nhất định về phương tiện, thiết bị, con người…
Từ các định nghĩa khái quát về dự án như trên, đến nay dự án đã được
dùng rất rộng rãi và phổ biến cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vỡi
mỗi lĩnh vực, dự án sẽ được cụ thể hoá một cách chi tiết hơn cho phù hợp
với đặc điểm riêng có của lĩnh vực đó. Tuy nhiên, những tính chất chung vốn
có của dự án thì vẫn tồn tại và được thể hiện rõ nét ở tất cả các lĩnh vực.
1.2. Dự án đầu tư có các đặc điểm sau:
• Dự án có tính thống nhất: dự án là một thực thể độc lập trong một môi
trường xác định với các giới hạn nhất định về quyền hạn và trách
nhiệm.
• Dự án có tính xác định: dự án được xác định rõ ràng về các mục tiêu
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
phải đạt được, thời hạn bắt đầu và thời hạn kết thúc cũng như nguồn
lực cần có với một số lượng, cơ cấu, chất lượng và thời điểm giao
nhận.
• Dự án có tính logic: Tính logic của dự án được thể hiện ở mối quan hệ

biện chứng giữa các bộ phận cấu thành dự án. Một dự án thường có 4
bộ phận sau:
Mục tiêu của dự án: một dự án thường có hai cấp mục tiêu: mục tiêu phát
triển và mục tiêu trực tiếp.
- Mục tiêu phát triển: là mục tiêu mà dự án góp phần thực hiện. Mục tiêu
phát triển được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, của vùng.
- Mục tiêu trực tiếp: là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong
khuôn khổ nguồn lực nhất định và trong khoảng thời gian nhất định.
Kết quả của dự án: là những đầu ra cụ thể của dự án được tạo ra từ các
hoạt động của dự án. Kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực
tiếp của dự án.
Các hoạt động của dự án: là các đầu vào về vật chất, tài chính, sức lao
động cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án.
Nguồn lực cho dự án: là các đầu vào về vật chất, tài chín, sức lao động
cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Nguồn lực là tiền đề tạo nên
các hoạt động của dự án.
Bốn bộ phận trên của dự án có quan hệ logic chặt chẽ với nhau:
Nguồn lực của dự án được sử dụng để tạo ra các hoạt động của dự án. Các
hoạt động tạo nên các kết quả (đầu ra). Các kết quả là điều kiện cần thiết để
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
đạt được mục tiêu trực tiếp của dự án. Đạt được mục tiêu trực tiếp là tiền đề
để góp phần đạt được mục tiêu phát triển.
2. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Khái niệm dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là
hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước
ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu

tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà
đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền
kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng
trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước
khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của
nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng
thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy”.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp
thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp
liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật
này”
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất
10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư
trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không
phải tất cả các quốc gia nào cũng đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định
FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh
nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành
quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người
đầu tư gián tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia
là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào
vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát

một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của
mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản
hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp
đòng và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí
quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ
kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch
chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân)
trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư.
2.2. Vai trò của các dự án FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có vai trò to lớn đối với việc
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu
tư . Cụ thể là:
- Giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất
nghiệp. Theo thống kê của Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thất
nghiệp của các nước đang phát triển chiếm khoảng 35- 38% tổng số lao
động.
- Giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo
dài. Nhờ vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính
khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hoá - thời kỳ mà thông thường đòi hỏi đầu tư một tỷ lệ vốn lớn hơn các giai
đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự cung ứng từ bên trong.
FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển, tránh tình
trạng tích luỹ quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng
xảy ra.
- Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo
nên sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm cho không khí hoạt động của các doanh

nghiệp trong nước ''nóng lên'', buộc họ phải hoàn thiện và nâng cao sức cạnh
tranh để tồn tại và phát triển.
- Theo sau FDI là máy móc, thiết bị và công nghệ mới giúp các nước
đang phát triển tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ
vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các
nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
- Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế xã hội hiện đại được
du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt
kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần
với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ
những nhà doanh nghiệp giỏi.
- FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước
ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động marketing được mở rộng không
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
ngừng. Do các công ty tư bản độc quyền quốc gia đầu tư trực tiếp vào các
nước đang phát triển mà các nước này có thể bước vào thị trường xa lạ, thậm
chí có thể xem như “ lãnh địa cấm kỵ ” đối với họ trước kia.
- FDI giúp tăng thu ngân sách nhà nước thông qua thu thuế các công
ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong
việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
II. Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1. Tổng quan về thẩm định dự án đầu tư
1.1. Khái niệm:
Thẩm định kinh tế dự án đầu tư (sau đây gọi tắt là thẩm định dự án) là
việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội
dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án xét trên khía
cạnh kinh tế - xã hội, tức là xem xét dự án dưới góc độ chi phí – lợi ích mà
toàn xã hội thu được khi thực hiện dự án. Thẩm định dự án tạo ra cơ sở vững
chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả về mặt xã hội. Các kết luận rút ra từ
quá trình thẩm định sẽ là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước

ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư .
1.2. Tính thiết yếu phải thẩm định dự án đầu tư:
Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết, nó bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ
mô của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. Nhà nước với chức năng
quản lý của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án được đầu tư.
Bởi một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng
vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo, để đảm bảo tính khách quan
cần thiết phải thẩm định khía cạnh kinh tế của dự án.
Thẩm định kinh tế dự án là cần thiết, có tính quyết định trong việc trả
lời dự án có được chấp nhận và cấp phép đầu tư hay không. Nó là một bộ
phận của công tác quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
thực sự có hiệu quả.
1.3. Mục đích của thẩm định dự án
Đánh giá tính khả thi của dự án nhằm đưa ra quyết định cấp phép hay
không đối với một dự án. Hai tiêu chí được đánh giá là:
• Đánh giá tính hợp lý của dự án: được biểu hiện ở từng nội dung và
cách thức tính toán của dự án, tính phù hợp của dự án với các chương trình
phát triển...
• Đánh giá tính hiệu quả của dự án: hiệu quả của dự án được xem xét
trên hai phương diện đó là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội của
dự án.
1.4. Ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án có ý nghĩa rất lớn, giúp bảo vệ các dự án lớn tốt khỏi
bị bác bỏ, ngăn chặn những dự án phi hiệu quả, góp phần đảm bảo cho việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Cụ thể là, thẩm định dự án giúp cho các
cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự án
với quy hoạch phát triển chung của ngành, vùng, lãnh thổ và của cả nước
trên các mặt, mục tiêu, quy mô, quy hoạch. Xác định được hiệu quả của việc
sử dụng các nguồn lực xã hội của dự án; những cái lợi, cái hại của dự án trên

các mặt khi đi vào hoạt động, từ đó có biện pháp khai thác các khía cạnh có
lợi và hạn chế các mặt có hại…
2. Quy trình thẩm định các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực
hiện các công việc thẩm định. Thực hiện tốt khâu này sẽ đảm bảo được
những yêu cầu đặt ra trong công tác thẩm định. Để thực hiện tốt khâu này
cần phải có một quy trình thẩm định hợp lý, khoa học.
Vì nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án là: Phân tích,
đánh giá tính khả thi của dự án về công nghệ, kinh tế, xã hội, môi trường và
SVTH Trần Xuân Thuận GVHD Th.s Đặng Thị Lệ Xuân

×