Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Thế giới nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn l n tonxtoi và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.55 KB, 125 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2




TRỊNH QUỐC HOÀNG




THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGỤ NGÔN L.N.TÔNXTÔI
VÀ Ý NGHĨA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC







HÀ NỘI, 2014



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2




TRỊNH QUỐC HOÀNG




THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGỤ NGÔN L.N.TÔNXTÔI
VÀ Ý NGHĨA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI HỌC SINH TIỂU HỌC


Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc Tiểu học)
Mã số: 60140101


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thu Hiền





HÀ NỘI, 2014

LỜI CẢM ƠN


Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Có được kết quả này, trước tiên tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới TS. Lê Thị Thu Hiền, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau Đại học, các thầy
cô giáo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, trang bị cho tôi
những kiến thức chuyên ngành cần thiết và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Tiểu học Trung Tự, quận
Đống Đa đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm và giúp đỡ
tôi thực hiện công trình nhỏ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả


Trịnh Quốc Hoàng

LỜI CAM ĐOAN

Đề tài “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn L.N.Tônxtôi và ý
nghĩa giáo dục đối với học sinh Tiểu học” được chúng tôi nghiên cứu và
hoàn thành trên cơ sở kế thừa và phát huy những công trình nghiên cứu có
liên quan của các tác giả khác cộng với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân.
Tôi xin cam đoan kết quả của đề tài này không trùng với bất cứ một
công trình nghiên cứu nào khác đã được công bố.
Người thực hiện




Trịnh Quốc Hoàng

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, giới thuyết khái niệm 4
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
4.2. Giới thuyết khái niệm 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Dự kiến đóng góp mới 6
7. Cấu trúc của luận văn 6
CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGỤ NGÔN L.N.TÔNXTÔI TRONG HÀNH
TRÌNH SÁNG TẠO CỦA L.N.TÔNXTÔI 7
1.1. Quan niệm chung về truyện ngụ ngôn 7
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của L.N.Tônxtôi 10
1.3. Những sáng tác cho trẻ em 15
Tiểu kết 19
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGỤ
NGÔN L.N.TÔNXTÔI 20
2.1. Thế giới nhân vật 20
2.1.1. Những loại nhân vật chính 21
2.1.1.1. Loại nhân vật là loài vật 21
2.1.1.2. Loại nhân vật là con người 28
2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 30
2.1.2.1. Xây dựng kiểu nhân vật cặp đôi 30
2.1.2.2. Nghệ thuật nhân hóa 40


2.1.2.3. Nghệ thuật ẩn dụ 44
2.2. Ngôn ngữ 47
2.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện 47
2.2.2. Ngôn ngữ nhân vật 49
2.3. Kết cấu truyện 53
Tiểu kết 57
CHƯƠNG 3: TRUYỆN NGỤ NGÔN L.N.TÔNXTÔI TRONG
CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC VÀ NHỮNG BÀI HỌC
GIÁO DỤC ĐỐI VỚI HỌC SINH 58
3.1. Những bài học giáo dục của truyện ngụ ngôn Tônxtôi với học sinh
tiểu học 58
3.2. Truyện ngụ ngôn Tônxtôi trong chương trình Tiếng Việt tiểu học 66
3.2.1. Khảo sát, nhận xét 66
3.2.2. Việc giảng dạy truyện ngụ ngôn Tônxtôi trong trường Tiểu học 67
3.2.2.1. Những khó khăn trong việc giảng dạy truyện ngụ ngôn Tônxtôi 67
3.2.2.2. Đề xuất một số biện pháp giảng dạy hiệu quả truyện ngụ ngôn
Tônxtôi trong trường Tiểu học 70
3.2.2.3. Thực nghiệm sư phạm 73
3.2.2.3.1. Soạn giáo án 75
3.2.2.3.2. Kết quả thực nghiệm 93
Tiểu kết 96
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC



1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đại văn hào Nga L.N.Tônxtôi (1828 – 1910) đã để lại cho nhân loại di
sản văn học đồ sộ, phong phú, đa dạng. Hơn sáu mươi năm miệt mài không
ngừng lao động sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ vĩ đại của ngôn từ ấy đã
góp phần khẳng định sự thắng lợi của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga thế
kỷ XIX, đưa văn học Nga lên đến đỉnh cao, trở thành một trong những nền
văn học tiên tiến nhất của nhân loại.
Tiểu thuyết là thể loại làm nên tên tuổi Tônxtôi. Chiến tranh và hòa
bình, Anna Karênina từng được đánh giá là những cuốn sách hay nhất của
văn học mọi thời đại. Song, không chỉ là nhà tiểu thuyết kiệt xuất, Tônxtôi
còn là tác giả của hàng trăm truyện ngắn, truyện vừa có ảnh hưởng không nhỏ
không những đối với các nhà văn Nga mà còn tới nhiều nhà văn, nhà triết học,
nhà hoạt động tư tưởng trên thế giới thế kỷ XX.
Trong cuộc đời mình, Tônxtôi rất quan tâm đến trẻ em. Ông đã dành
sáng tác của mình cho các em nhỏ, đặc biệt là con em nông dân trong điền
trang của mình. Những truyện ngắn, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, sách học
vần, sách tập đọc của Tônxtôi giản dị, dễ hiểu, được trẻ em hết sức yêu thích.
Tônxtôi còn tự học tiếng Hy Lạp, dịch truyện ngụ ngôn của Êdôp cho trẻ em
Nga. Dưới ngòi bút thiên tài, các truyện ngụ ngôn của Êdốp trở thành những
tác phẩm mang phong vị Nga, văn hóa Nga, gần gũi với tiếp nhận của các độc
giả nhỏ tuổi Nga, đem lại bài học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Ở Việt Nam, tập truyện ngụ ngôn Kiến và chim bồ câu của Tônxtôi đã
được dịch và giới thiệu từ những năm 50 giữa thế kỷ XX. Mỗi câu chuyện
của nhà văn đã trở thành món quà tuyệt vời cho trẻ em. Thế giới nghệ thuật
trong truyện ngụ ngôn Tônxtôi vô cùng phong phú, hấp dẫn bạn đọc nhỏ
tuổi, khơi dậy trí tưởng tượng, lòng yêu cuộc sống. Những bài học giáo dục
được rút ra sau mỗi tác phẩm có ý nghĩa thiết thực, không chỉ góp phần nâng




2

cao nhận thức, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho trẻ em mà còn hướng các
em đến với cái đẹp, cái thiện, từ đó các em có ý thức vươn lên tự hoàn thiện
mình.
Đặc biệt, trong số những tác phẩm văn học nước ngoài được lựa chọn
giảng dạy ở chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học, truyện ngụ ngôn Tônxtôi
dành được sự quan tâm rất lớn. So với một số tác giả nước ngoài khác, tác
phẩm của Tônxtôi được lựa chọn với số lượng đáng kể. Các tác phẩm của ông
được phân bố hầu như ở các khối lớp và được học sinh yêu thích đón nhận.
Điều này cho thấy sức sống lâu bền của truyện ngụ ngôn Tônxtôi, đúng như
lời tâm nguyện của nhà văn khi ông nói về những đứa con tinh thần của mình:
“nếu mà người ta bảo tôi rằng cái tôi viết ra trẻ em thời nay sẽ đọc và 20 năm
nữa người ta sẽ vẫn đọc, vẫn khóc và cười trên những trang sách của tôi và
yêu hơn nữa cuộc sống, thì tôi sẽ dành cho việc ấy toàn bộ cuộc đời và sức
lực của mình”.
Việc giáo dục trẻ qua những câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có những
tác phẩm của Tônxtôi, đóng vai trò hết sức quan trọng. Đề tài nghiên cứu
"Thế giới nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn L.N.Tônxtôi và ý nghĩa giáo
dục đối với học sinh tiểu học" vì thế có ý nghĩa góp phần nâng cao việc
giảng dạy tốt bộ môn Tiếng Việt và giáo dục học sinh bậc tiểu học của người
giáo viên.
2. Lịch sử vấn đề
Tài liệu về Tônxtôi dường như là vô tận. Cuộc đời và sự nghiệp văn học
của nhà văn thiên tài này đã trở thành đối tượng nghiên cứu cho rất nhiều
công trình, chuyên luận, tiểu luận ở Nga và các nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập những
công trình, bài viết liên quan tới đối tượng nghiên cứu là những truyện ngụ
ngôn của nhà văn. Do chưa bao quát được những tài liệu tiếng Nga, nên

chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát trên nguồn tư liệu tiếng Việt, qua bài



3

viết, công trình của các tác giả trong nước. Có một thực tế là, truyện ngụ ngôn
của Tônxtôi cho đến nay đã được dịch ở Việt Nam, mặc dù vậy, nghiên cứu
về nó, chúng tôi lại chưa thấy xuất hiện công trình, bài viết nào. Hầu hết, các
công trình, luận án đều nghiên cứu chuyên sâu, thiên về lý luận, nghiên cứu
văn học sử, hoặc khái quát, phân tích trên các bình diện tư tưởng, nội dung,
nghệ thuật các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại của nhà văn. Có thể nói thành tựu
nghiên cứu của các nhà “Tônxôi học” ở Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng kể với những nhà nghiên cứu tên tuổi: Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Hải
Hà, Đỗ Xuân Hà, Phạm Gia Lâm, Nguyễn Trường Lịch, Phạm Vĩnh Cư, Đào
Tuấn Ảnh, Hà Thị Hòa, Trần Thị Quỳnh Nga, Đỗ Hải Phong, Những công
trình của các nhà nghiên cứu này là tiền đề quan trọng, gợi mở hướng tiếp cận
cho chúng tôi. Nhắc đến những truyện ngắn dân gian của Tônxtôi, chúng tôi
thấy có một nhận xét rất đáng lưu ý của Hoàng Xuân Nhị trong giáo trình
Lịch sử văn học Nga. Theo Hoàng Xuân Nhị, đó là những mẩu chuyện nhỏ
“có tính chất giáo dục đạo đức, và được văn sĩ viết ra với một văn phong dựa
vào lời ăn tiếng nói của nhân dân, - ngắn gọn, không hoa hòe gì cả, có dụng ý
ngây ngô, như văn phong của hai nhà văn hào cổ Hy Lạp Hê-rô-đô-tô-xơ và
Xê-nô-phôn [14,26].
Mặt khác, có thể nhận thấy, các tác phẩm văn học nước ngoài nói chung,
văn học Nga nói riêng, trong đó có tác phẩm của Tônxtôi đã được dịch rất
nhiều ở Việt Nam. Song số lượng công trình hướng đến nghiên cứu và giảng
dạy văn học nước ngoài ở nhà trường tiểu học còn khá khiêm tốn. Ngay cả
việc đặt vấn đề dạy một tác giả nước ngoài cụ thể, như trường hợp Tônxtôi, ở
tiểu học cũng chưa được chú ý, tất nhiên, ở đây do đặc trưng cấp học, mục

tiêu, nguyên tắc xây dựng chương trình bậc tiểu học. Một trong những cơ chế
của hoạt động tiếp nhận văn bản văn học đó là phải chú ý đến nhà văn – tác
giả với tư cách là người sáng tạo văn bản. Bởi thế, chúng tôi mạnh dạn nghiên
cứu phong cách tác giả Tônxtôi ở một thể loại văn học gần gũi với trẻ em từ



4

đó đề xuất hướng tiếp cận các tác phẩm văn học nước ngoài nói chung, văn
học Nga nói riêng, trong đó có Tônxtôi đối với học sinh tiểu học.
Liên quan đến đề tài của chúng tôi, trong các trường đại học đã có một
số khóa luận tốt nghiệp triển khai nghiên cứu truyện ngụ ngôn Tônxtôi, song
những luận văn đó, do khuôn khổ và phạm vi nghiên cứu, chỉ mới đề cập đến
một khía cạnh nào đó trong mảng truyện này của nhà văn. Bên cạnh đó chúng
tôi nhận thấy cũng đã có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu thế giới nghệ
thuật của một số tác giả văn học nước ngoài như La Fontaine, Andersen,
trong nhà trường tiểu học. Từ thực tiễn này, đề tài của chúng tôi sẽ đi vào
khái quát các bình diện chính của truyện ngụ ngôn Tônxôi và ý nghĩa giáo
dục đối với học sinh tiểu học. Đây sẽ là một trong những công trình nghiên
cứu chuyên biệt về mảng truyện ngụ ngôn của Tônxtôi và những tác phẩm
của nhà văn được lựa chọn giảng dạy trong nhà trường tiểu học Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn
L.N.Tônxtôi nhằm mục đích khám phá những giá trị thẩm mỹ ở một mảng
sáng tác trong sự nghiệp đồ sộ của đại văn hào, từ đó rút ra ý nghĩa giáo dục
đối với học sinh tiểu học. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích cho công việc giảng
dạy của người giáo viên ở nhà trường tiểu học, trong đó có tác giả luận văn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, giới thuyết khái niệm
4.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Luận văn xác định đối tượng khảo sát, nghiên cứu, là toàn bộ truyện
ngụ ngôn của Tônxtôi đã được dịch sang tiếng Việt trong tập Kiến và chim bồ
câu (do Xuân Oanh dịch, Nxb Văn học 2013) và những truyện có mặt trong
chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5)
- Là một chỉnh thể nghệ thuật, thế giới nghệ thuật bao gồm tất cả các yếu
tố: không gian, thời gian, nhân vật, điểm nhìn, giọng điệu, sự kiện, cốt
truyện, Khuôn khổ luận văn không cho phép chúng tôi khảo sát, nghiên cứu



5

tất cả các yếu tố đó. Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của luận văn là
tìm hiểu thể loại truyện ngụ ngôn của Tônxtôi từ một số bình diện quan trọng:
nhân vật, ngôn ngữ, một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc,
4.2. Giới thuyết khái niệm
Thuật ngữ “thế giới nghệ thuật” (tiếng Nga: художественный мир) ở
đây được chúng tôi hiểu như một chỉnh thể nghệ thuật được kiến tạo theo một
nguyên tắc thống nhất, chịu sự qui định bởi quan niệm nghệ thuật của nhà văn
đã được chuyển hóa thành hình tượng trong tác phẩm. Thế giới nghệ thuật là
mô hình đặc biệt về thực tại phản ánh hiện thực xã hội và đời sống tinh thần
bên trong của con người thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Chính vì
thế, “thế giới nghệ thuật bao giờ cũng khác với thực tại để không hoà tan vào
thực tại, và chứng tỏ nó là nó, và sự khác biệt cũng là một phương tiện biểu
hiện ý nghĩa [30,48].
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng thế giới nghệ thuật là một thế giới
được tạo ra trong nghệ thuật “theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới
thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh các thế
giới ấy” [15,302-303]. Có nhiều con đường khác nhau để đi vào khám phá thế
giới nghệ thuật của nhà văn. Luận văn của chúng tôi nghiên cứu thế giới nghệ

thuật trong truyện ngụ ngôn của Tônxtôi chủ yếu trên bình diện thi pháp học,
đồng thời dựa trên một gợi ý quan trọng của chính Tônxtôi “…tác phẩm nghệ
thuật hay hay dở tuỳ thuộc vào điều nhà văn nói ra, cách anh ta nói và anh ta
nói có thật lòng không” [12,164]. Theo đó, chúng tôi xác định cùng một lúc
phải tìm hiểu nhà văn muốn nói điều gì và nói điều đó như thế nào, bởi điều
nhà văn muốn nói bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ thống nhất với cách nhà văn
nói điều đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thi pháp học
- Phương pháp tiếp cận hệ thống



6

- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh ,đối chiếu.
6. Dự kiến đóng góp mới.
- Thế giới nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn L.N.Tônxtôi được mô tả
một cách tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống trên các bình diện: nhân
vật, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật.
- Đề tài giúp giáo viên Tiểu học hiểu sâu sắc hơn giá trị của truyện ngụ
ngôn Tônxtôi từ đó có những phương pháp giảng dạy phù hợp, nâng cao chất
lượng dạy và học môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Truyện ngụ ngôn L.N.Tônxtôi trong hành trình sáng tạo của
L.N.Tônxtôi
Chương 2: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn L.N.Tônxtôi
Chương 3: Truyện ngụ ngôn L.N.Tônxtôi trong sách giáo khoa Tiếng

Việt tiểu học và những bài học giáo dục đối với học sinh



7

CHƯƠNG 1
TRUYỆN NGỤ NGÔN L.N.TÔNXTÔI
TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA L.N.TÔNXTÔI

1.1. Quan niệm chung về truyện ngụ ngôn
Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ra đời từ thời kỳ
trước công nguyên. Ở folklore của mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ
ngôn, đó là những sáng tác của nhân dân, được lưu truyền từ đời này qua đời
khác bằng con đường truyền miệng.
Ngụ ngôn xuất hiện trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn
Độ, Ai Cập, Trung Hoa và xa xưa nhất có thể tính đến các tác phẩm ngụ ngôn
nửa thực nửa truyền thuyết tương truyền do Êdốp sáng tác, có tầm ảnh hưởng
sâu rộng không chỉ đối với văn học Hy Lạp cổ đại mà còn đối với nhiều nền
văn học trên thế giới.
Theo từ nguyên, ngụ ngôn là những “lời nói, mẩu chuyện có ngụ ý (ngụ
là “gửi”) xa xôi bóng gió được sử dụng rộng rãi trong nhiều thể loại văn học
dân gian và văn học thành văn (như thơ ngụ ngôn, truyện ngụ ngôn, ca dao,
tục ngữ” [15,216]. Có thể thấy, trong văn học dân gian Việt Nam, ngụ ngôn là
một kho triết lí dân gian độc đáo, đó là những câu tục ngữ ngụ ngôn như: Chó
chê mèo lắm lông, Lươn ngắn lại chê trạch dài, Cáo chết ba năm quay đầu về
núi, ; là những câu ca dao ngụ ngôn như: Con mèo mà trèo cây cau, Con gà
cục tác lá chanh, Con cò mà đi ăn đêm, Con kiến mà kiện củ khoai, cũng có
khi là truyện thơ ngụ ngôn như: Trê Cóc, Lục súc tranh công, Hai ông phật
cãi nhau, Như vậy, truyện ngụ ngôn là những tác phẩm nghệ thuật bằng văn

xuôi hoặc văn vần, có ngụ ý một bài học đạo lí, một triết lí nhân sinh, một
nhận xét về thực tế xã hội bằng lối diễn đạt bóng gió, hài hước nhưng sâu sắc,
thường qua nghệ thuật nhân hóa giới tự nhiên để nói chuyện về con người.
Ta có thể bắt gặp trong truyện ngụ ngôn các nhân vật là loài vật như:
Thỏ, Rùa, Voi, Chuột, các loại cây cối, hoa quả như: cây lúa, mướp đắng,



8

các nhân vật vô tri vô giác: nồi đất, nồi gang, ngòi bút, có khi cả những bộ
phận của con người như: dạ dày, tứ chi, mắt, miệng, Như vậy, một trong
những đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngụ ngôn là thường dùng loài vật, đồ
vật, các vật vô tri vô giác để gián tiếp nói chuyện về con người, qua đó nhằm
nêu lên những bài học đạo đức dưới một hình thức kín đáo. Nhân vật truyện
ngụ ngôn vì thế trở thành phương tiện để nhận thức và lý giải những vấn đề
của con người và xã hội loài người. Theo Từ điển văn học, ngụ ngôn là "một
thể loại văn học giáo huấn, thường sử dụng phúng dụ như một nguyên tắc tổ
chức tác phẩm” [16,1091].
Từ những cách hiểu trên, chúng tôi cho rằng truyện ngụ ngôn là loại
truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, mượn một câu chuyện kể về loài vật
qua đó gửi gắm ý tưởng, nhận xét về nhân sinh, hay bài học về kinh nghiệm
sống, có ý nghĩa răn dạy đạo đức.
Có thể thấy, ngụ ngôn có hình thức ngắn gọn, bởi nội dung truyện đơn
giản, kết cấu mạch lạc, rõ ràng nhưng bao chứa nhiều tầng ý nghĩa. Có lẽ vì
thế, trong văn học thành văn thế giới, nhiều nhà văn đã xem sự ngắn gọn, súc
tích, kiệm lời của ngụ ngôn là mẫu mực sáng tác cho mình. Trong văn học
Nga, L.Tônxtôi về cuối đời, sau khi lên đến đỉnh cao vinh quang với những
tiểu thuyết đồ sộ: Chiến tranh và hòa bình, Anna Karênina đã bắt tay viết
truyện ngụ ngôn, truyện ngắn theo quy luật ngụ ngôn dành cho những bạn đọc

bình dân. A.Sêkhôp với quan niệm: công việc viết văn là lược bỏ, Truyện
ngụ ngôn ít tình tiết, ít cảnh vì thường chỉ xoay quanh một sự kiện. Không
gian và thời gian truyện rất ít khi được nêu. Thời gian trong mỗi câu chuyện
chỉ được nhắc thông qua cụm từ ngày xửa ngày xưa, rất lâu về trước Đó là
khoảng thời gian nhất định nhưng không thể xác định chi tiết, cụ thể hơn
được nữa. Số lượng nhân vật trong mỗi câu chuyện cũng ít và mỗi nhân vật
chỉ được khai thác ở một nét tính cách hoặc một thói quen, thậm chí có truyện
chỉ có một nhân vật với một hoàn cảnh, một tình huống nhất định, một sự



9

kiện cố định. Vì vậy, mỗi truyện ngụ ngôn là một câu chuyện nhỏ vừa sức
tiếp thu với học sinh tiểu học.
Truyện ngụ ngôn là phương tiện hữu ích để giáo dục cho học sinh. Ngay
từ khi còn nhỏ, trẻ em đã được tiếp xúc với những bài ca dao mang tính ngụ
ngôn thông qua những lời ru, câu hát. Khi 4, 5 tuổi, các em được làm quen
với những câu chuyện ngụ ngôn đơn giản. Ở lứa tuổi tiểu học, tư duy trực
quan cụ thể vẫn còn đang phát triển, các em chủ yếu đánh giá, nhìn nhận các
sự vật, hiện tượng bằng trực giác. Các em yêu thích truyện ngụ ngôn vì bề
ngoài đơn giản, các câu chuyện ngắn gọn, nhân vật gần gũi, thân thuộc, tuy
nhiên, phần triết lý trừu tượng ẩn dấu phía sau nội dung đó thì cần có sự trợ
giúp, phân tích của người lớn thì các em mới hiểu được.
Thế giới nhân vật trong truyện ngụ ngôn phong phú, đa dạng, có nhân
vật là người (cha, mẹ, ông, bà, người hàng xóm, cụ già ); có nhân vật siêu
nhiên (hung thần, bà tiên, con cá vàng ); có vua chúa, hoàng hậu, công chúa
và cũng có những người lao động như bác nông dân, người thợ săn, ông lão
đánh cá, rồi cả những tính cách của con người như anh nói khoác, chị lọc
lừa, kẻ bới móc, những điều vô hình, vô dạng như: sự khôn khéo, sự ngu

dại, cái thiện, cái ác, điều họa, phúc, Nói chung, tất cả vạn vật tồn tại trong
trời đất, những cái có thể xuất hiện hoặc có thể tồn tại, ngụ ngôn đều mượn
cả. Thế giới ấy vừa hiện thực vừa kì ảo lung linh cho trẻ thỏa sức tưởng
tượng, khám phá. Nhưng, để lại ấn tượng nhất trong nhận thức thẩm mỹ của
trẻ nhỏ, có lẽ là những nhân vật loài vật với đủ giống loại mang ý nghĩa tượng
trưng cho các tầng lớp khác nhau trong xã hội loài người. Thế giới nhân vật
ấy giúp độc giả nhỏ tuổi bước vào thế giới tự nhiên, xã hội chung quanh một
cách tự nhiên, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ và giúp các em dễ
dàng tìm được tiếng nói chung trong cộng đồng sau này.
Truyện ngụ ngôn đưa học sinh vào một thế giới loài vật đa dạng, phong
phú mà mục đích sâu xa hơn là đến với thế giới loài người với những bài học



10

ứng xử tế nhị. Thông qua truyện ngụ ngôn, các em không chỉ được đồng cảm
thương yêu những con người bất hạnh, hiểu được lẽ sống, cách ứng nhân xử
thế mà còn bộc lộ thái độ yêu ghét, lên án, phê phán những cái xấu, cái ác,
đấu tranh chống lại áp bức, cường quyền. Khi được hòa mình vào thế giới của
những câu chuyện ngụ ngôn, học sinh không chỉ rút ra cho mình những bài
học về nhân tâm thế sự mà trí tưởng tượng, tính thẩm mĩ của học sinh cũng
được hình thành và phát triển. Có thể nói, truyện ngụ ngôn giúp học sinh có
những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, con người. Truyện hình thành và phát
triển ở các em tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm với con người, góp
phần quan trọng vào việc hình thành, hoàn thiện nhân cách, giáo dục thẩm mĩ
trong các em. Việc tìm hiểu và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại qua
truyện ngụ ngôn giúp học sinh ghi nhớ, nâng cao hiểu biết và thực hiện nó
trong các trường hợp cụ thể.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của L.N.Tônxtôi

Đại văn hào Lep Nhikôlaievich Tônxtôi sinh ngày 9.9.1828 trong một
gia đình quý tộc truyền thống giàu có lâu đời tại trại ấp Iaxnaia Pôliana (tiếng
Nga có nghĩa là: khoảng rừng thưa sáng). Thời thơ ấu và niên thiếu, ông sống
giữa cảnh thiên nhiên tươi đẹp với những trò chơi dân gian trong trại ấp của
gia đình. Xuất thân từ tầng lớp quý tộc song Tônxtôi rất gần gũi với nông dân,
nông nô, đặc biệt là con em của họ. Tônxtôi sớm mồ côi cha mẹ. Việc trông
nom anh em Tônxtôi do cô Tachiana Ergônxkaia - một người phụ nữ không
lấy chồng, có họ hàng xa bên nội tự nguyện chăm sóc các cháu. Bà là một nhà
giáo dục tuyệt diệu; với tâm hồn rộng mở và cương nghị bà đã truyền lại cho
cậu bé Lep lòng yêu thương mọi người, khuyến khích niềm say mê văn học
trong cậu bé. Nhà văn tương lai rất yêu quý người cô, sau này ông thường viết
thư đàm đạo với bà về những vấn đề văn chương, xã hội, và những tác phẩm
do ông sáng tác.
Năm 16 tuổi, Tônxtôi vào học trường Đại học Kadan ngành ngôn ngữ
phương Đông, sau chuyển sang ngành Luật. Lúc đầu cậu sinh viên quý tộc



11

mải mê chạy theo đủ mốt chơi bời, cùng bầu bạn lao vào các thú hưởng lạc
mong sao cho xứng “một công tử quý tộc hào hoa phong nhã” (lời của
Tônxtôi). Song chẳng bao lâu, cuộc sống phóng đãng trở nên vô vị. Cảm thấy
ân hận và lỗi lầm, Tônxtôi chán ngán cả cái xã hội thượng lưu trống rỗng và
sự trì trệ bảo thủ của trường đại học. Tônxtôi gần gũi lớp sinh viên dân chủ
cách mạng, tìm thấy phong cách sống giản dị, lành mạnh, niềm say mê học
tập, lao động và nghiên cứu khoa học. Từ đây trong ông có những chuyển
biến sâu sắc về nhận thức xã hội cũng như đạo đức. Mùa xuân năm 1847,
Tônxtôi đoạn tuyệt với trường Đại học Kadan quay về trại ấp (Ông từng thổ
lộ: “chúng tôi thu hoạch được những gì ở các chủng viện này? Hãy quay về

nông thôn chúng ta sẽ được những điều bổ ích và cần thiết”). Sau khi về quê,
theo truyền thống gia đình và di chúc của cha mẹ, Tônxtôi được thừa kế trại
ấp Iaxnaia Pôliana và 330 nông nô. Trong thời gian này, ông chăm lo đến việc
cải thiện đời sống cho nông dân và đặt cho mình một kế hoạch tự học tập thật
đồ sộ. Ông tự học ngoại ngữ, đọc sách, nghiên cứu triết học, văn chương. Ông
say mê nghiên cứu tủ sách với hàng nghìn cuốn trong thư viện của cha. Bằng
con đường tự học, ông biết rất nhiều ngoại ngữ, đọc thông viết thạo tiếng
Pháp, tiếng Anh.
Đầu những năm 1850, Tônxtôi gia nhập quân đội, tham gia chiến đấu
bảo vệ hải cảng Xêvaxtôpôn trước cuộc tấn công của liên quân Anh - Pháp
trong chiến tranh Crưm (1854-1856). Những ngày ở đây nhà văn viết xong
Thời thơ ấu - tập một của bộ ba tiểu thuyết tự thuật và gửi in trên tạp chí
Người đương thời. Tài năng miêu tả tâm lý của Tônxtôi được bộc lộ ngay từ
tác phẩm đầu tay này. Tác phẩm giành được tình cảm của đông đảo bạn đọc,
được giới phê bình dân chủ cách mạng ngợi khen. Chính trong cuộc chiến đấu
sinh tử này, Tônxtôi cùng đồng đội nếm trải đủ mùi vị cay đắng ngọt bùi nơi
khói lửa. Ông trực tiếp chiến đấu ở pháo đài bốn thần kỳ - một trong những
pháo đài trọng yếu của quân đội Nga. Hiện thực cuộc chiến đã cung cấp cho



12

Tônxtôi những tài liệu vô giá về tính cách, tinh thần và ý thức trách nhiệm của
con người Nga đối với Tổ quốc. Ý chí kiên cường bất khuất của họ đã được
nhà văn miêu tả vô cùng sinh động trong tập truyện ký nổi tiếng Truyện
Xêvatxtôpôn. Cuối tháng 11.1856 Tônxtôi giải ngũ và trở về Pêtecbua.
Mùa xuân năm 1857, Tônxtôi đi du lịch ra nước ngoài. Ông đi thăm các
nước Pháp, Thuỵ Sĩ, Ý, Đức. Chuyến đi đầu tiên này đã tạo nên một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển thế giới quan của nhà văn. Ông

cảm thấy thất vọng và hoàn toàn mất niềm tin vào nền công nghiệp tư bản khi
chứng kiến những cảnh tượng bất công, độc ác đang diễn ra hàng ngày ở các
nước phương Tây. Những ấn tượng nặng nề của Tônxtôi về thái độ tàn nhẫn,
lạnh lùng của trật tự tư sản phương Tây đối với nghệ thuật, nghệ sĩ, đối với
con người đã được ghi lại trong truyện ngắn Luyxecnơ (1857). Khi trở về
nước (30-7-1857), Tônxtôi viết truyện Ba cái chết (1858) phê phán lối sống
quý tộc xa hoa, đề cao quy luật vĩnh hằng của thiên nhiên và truyện Hạnh
phúc gia đình (1859) bảo vệ truyền thống gia trưởng trong gia đình.
Năm 1860 Tônxtôi ra nước ngoài lần thứ hai để thăm người anh ốm
nặng và tìm hiểu tình hình giáo dục phương Tây. Ông đi thăm các nước Đức,
Pháp, Ý, Anh, Bỉ, gặp gỡ nhiều nhà giáo dục, nhà văn và nhà hoạt động Châu
âu. Tháng 4 năm 1861 Tônxtôi về nước đúng vào dịp Nga hoàng công bố sắc
lệnh “Cải cách nông nô” (19.2.1861). Tônxtôi nhận xét về bản cải cách của
Nga hoàng: “Nông dân thì không hiểu một chữ nào còn chúng ta thì không tin
một lời nào”, bản chất của nó “không có gì ngoài những lời hứa hẹn”. Thời
gian này ông chủ yếu hoạt động giáo dục, mở trường học cho con em nông
dân, viết sách cho trẻ em học và xuất bản tạp chí giáo dục “Iaxnaia Pôliana”.
Năm 1862, Tônxtôi kết duyên cùng Xôphia Anđrêepna Berx. Hạnh
phúc gia đình tràn ngập đã giúp nhà văn hoàn thành cuốn tiểu thuyết Chiến
tranh và hoà bình - tác phẩm vĩ đại làm rạng rỡ nền văn học Nga, đưa ông trở
thành “con sư tử của văn học Nga” (I. Gônsarôp).



13

Những năm 1870, Tônxtôi tham gia cứu đói ở đồng cỏ Xamara. Thời
gian này ông bắt tay vào viết Anna Karênina (1873-1877). Cuốn tiểu thuyết
kỳ diệu này làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước.
Những năm 1880, Tônxtôi và gia đình chuyển đến ở Matxcơva. Ông

giữ nếp sống giản dị, tự mình sách nước, bổ củi, khâu giày, ăn uống kham
khổ. Năm 1882 Tônxtôi tham gia kiểm kê dân số tại một khu vực dân nghèo ở
Matxcơva. Chứng kiến tận mắt cuộc sống của những con người nghèo khổ,
khốn cùng Tônxtôi hết sức xúc động. Nhà văn đã ghi lại những cảm xúc và
bày tỏ thái độ quyết liệt của mình trong bài Thế thì chúng ta phải làm gì đây:
“Có thể bắt người ta làm nô lệ Nhưng không thể bắt người ta nghĩ rằng khi
chịu đựng bạo lực thì con người được tự do và điều ác hiển nhiên mà con
người phải chịu đựng đó lại tạo nên hạnh phúc của nó”. Thời gian này
Tônxtôi viết khá nhiều truyện cho nhân dân nhằm tiếp tục phê phán xã hội
đương thời và truyền bá học thuyết của mình. Ông cũng viết một số truyện
ngắn xuất sắc như: Cái chết của Ivan Ilich (1886), Bản Xônat Cơrâyxe (1887-
1889), Ma quỷ (1889), và hai vở kịch có tính tố cáo sâu sắc Quyền lực của
bóng tối (1886) và Thành quả giáo dục (1890). Đây là thời kỳ diễn ra bước
chuyển biến căn bản trong tư tưởng cũng như sáng tác của Tônxtôi.
Những năm 1890, chống lại ý kiến vợ, Tônxtôi tuyên bố từ bỏ bản
quyền văn học của những tác phẩm do ông viết sau năm 1881. Tônxtôi sốt
sắng tham gia cứu đói ở các tỉnh Riadan, Tula, Oren. Nỗi niềm u ái trước số
phận dân nghèo day dứt, giằng xé tâm tư nhà văn đã được bộc lộ hết sức
mãnh liệt trong Vì sao nhân dân Nga đói. Trong bài này, ông vạch rõ: “Nhân
dân Nga đói chỉ vì chúng ta quá no nê. Làm sao nhân dân lại không đói được
khi họ sống trong những điều kiện bố thí, ít đất đai, bị cầm tù trong cảnh
hoang tàn, man rợ lại phải làm tất cả công việc đáng sợ mà kết quả của nó đã
bị các thủ đô, các thành phố trung tâm những người giàu có nhất ở nông thôn
nuốt hết Tình trạng của họ cứ như vậy mãi ”. Bài báo là tiếng thét mạnh



14

mẽ vào mặt bọn quan lại tham nhũng, bọn giàu có sống trên mồ hôi nước mắt

của nhân dân lao động. Tác phẩm vĩ đại nhất của Tônxtôi trong những năm 90
là tiểu thuyết Phục sinh (1889- 1899). Đây là bản án đanh thép tố cáo chế độ
nông nô chuyên chế và giáo hội Nga là những kẻ đẩy quần chúng vào cảnh
khốn cùng. Tác phẩm là duyên cớ cuối cùng để giáo hội Nga khai trừ Tônxtôi
– “kẻ dị giáo và phản Chúa”. Ngoài ra Tônxtôi còn viết một số truyện vừa:
Đức cha Xerghi (1898), Chiếc thây sống (1890), Khatgi Murat (1896- 1904),
Sau đêm vũ hội (1903). Đồng thời nhà văn hoàn thành bài khảo cứu nổi tiếng
Nghệ thuật là gì? (1897-1898) tổng kết những suy nghĩ của ông trong nhiều
năm về nghệ thuật.
Trong những năm cuối đời mình, cơn khủng hoảng tư tưởng trong
Tônxtôi càng trầm trọng. Những mộng ước của ông về việc xoá bỏ mọi bất
công, xoá bỏ chế độ tư hữu ruộng đất, những lý tưởng của ông về thứ tự do
nguyên thuỷ, về con người chí thiện mà ông đã truyền bá suốt đời mình vẫn
chưa được thực hiện. Trước mắt ông vẫn sừng sững cái mâu thuẫn xã hội gay
gắt: “Càng ngày tôi càng cảm thấy đau đớn, hầu như về thể xác, về sự bất
bình đẳng, cảnh giàu sang thừa thãi giữa cảnh nghèo nàn, thế mà tôi lại không
giảm nhẹ được sự bất bình đẳng đó. Đó là bi kịch thầm kín của đời tôi.”(NK
ngày 10/6/1907). Sự bất hoà giữa ông và gia đình lại càng làm cho bi kịch đó
thêm nặng nề. Vì thế từ lâu Tônxtôi đã có ý định rời bỏ “tổ ấm quý tộc” và xã
hội thượng lưu.
Rạng sáng ngày 28/10/1910, Tônxtôi cùng bác sĩ riêng bỏ nhà ra đi.
Dọc đường đi Tônxtôi bị cảm lạnh phải nghỉ lại ở ga Axtapôvô (hiện nay
mang tên Tônxtôi). Ngày 7/11/1910, Tônxtôi tạ thế, thọ 82 tuổi. Cả nước Nga
và thế giới thương tiếc nhà đại văn hào. Lênin viết bài điếu văn L.N.Tônxtôi
nêu bật cống hiến to lớn của Tônxtôi vào kho tàng văn hoá của nhân loại và
tầm quan trọng lịch sử của Tônxtôi. M.Gorki viết: “Trong đời mình chưa bao
giờ tôi khóc thảm thiết, tuyệt vọng cay đắng như vậy”. Đúng như nguyện




15

vọng của nhà văn, thi hài ông được đưa về mai táng trên trại ấp quê hương
Iaxnaia Pôliana trong khu vườn quang đãng, thanh tĩnh giữa tiếng rì rào của
cây cỏ, nơi mà những ngày ấu thơ Tônxtôi từng làm trò chơi “anh em họ nhà
kiến”, từng chôn dấu “chiếc gậy xanh” thần kỳ có phép lạ mong đem lại hạnh
phúc cho nhân loại khổ đau.
1.3. Những sáng tác cho trẻ em
L.Tônxtôi đã để lại cho nhân loại trong sách của mình những kho báu
tư tưởng và ngôn từ vô giá. Sự nghiệp văn học đồ sộ của đại văn hào đã trở
thành nguồn đề tài vô tận cho các nhà nghiên cứu phê bình, các học giả, các
nhà hoạt động xã hội. Với sáu mươi năm hoạt động văn học không mệt mỏi,
Tônxtôi đã đóng góp cho nền văn học Nga và thế giới ba bộ tiểu thuyết vĩ đại
(Chiến tranh và hòa bình, Anna Karênina, Phục sinh), hàng chục truyện vừa
xuất sắc (Cái chết của Ivan Ilich, Đức cha Xerghi, Khatgi-Murat, ), hàng
trăm truyện ngắn, hàng chục vở kịch, nhiều tác phẩm chính luận, thư từ, nhật
ký, Bằng ngòi bút tài năng, tinh tế, Tônxtôi đã phản ánh chân thực, sâu sắc
hiện thực nước Nga trong thời kỳ lịch sử đầy biến động, ông được coi là “tấm
gương phản chiếu cách mạng Nga” (V.Lênin). Nhiều vấn đề nhà văn đặt ra,
cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
Phần lớn cuộc đời mình, Tônxtôi đã sống ở điền trang Iaxnaia Pôliana.
Ông rất yêu trẻ nhỏ và đã viết cho trẻ con nông dân Iaxnaia Pôliana nhiều
truyện ngắn, truyện đồng thoại, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích. Tônxtôi đã in
chúng trong những cuốn Sách học vần và Sách tập đọc dành cho trẻ em.
Trong di sản văn học đồ sộ của đại văn hào, đây là một mảng sáng tác khiêm
tốn, nhưng Tônxtôi rất yêu thích, say mê. Những tác phẩm này được Tônxtôi
in lần đầu vào những năm 1874 – 1875, song nhà văn đã viết và sử dụng
chúng cho những hoạt động giáo dục của mình, kể từ khi ông mở trường dạy
học “Iaxnaia Pôliana” cho con em nông dân vào đầu những năm 1860. Khi đó
ở Nga, ngay cả ở thành phố, có rất ít trường học, còn ở các làng quê thì hầu




16

như con em nông dân không được đến trường. Tônxtôi tự mình dạy những
đứa trẻ nông dân, viết sách học cho chúng và coi đây là công việc quan trọng
của cuộc đời mình. Nhiều truyện trong đó các em nhỏ đã quen biết như Ba
con gấu, Người tù Kapka, Sư tử và con chó con, Chó sói và chó nhà, Kiến và
chim bồ câu, Những truyện này được Tônxtôi kể từ đơn giản nhất sau đó
phức tạp dần Nhiều em nhỏ đã học đọc và học viết theo những cuốn sách
của Tônxtôi.
Tônxtôi đã đưa vào những cuốn sách ông viết cho trẻ em nhiều câu
chuyện và truyền thuyết lấy từ văn học cổ, từ cuộc sống của các dân tộc khác
nhau trên thế giới. Ông đặc biệt yêu thích các truyện ngụ ngôn giản dị, ngắn
của Êdôp. Để hiểu tác phẩm Êdôp, dịch được đúng Êdôp, Tônxtôi đã không
quản ngại khó khăn học tiếng Hy Lạp cổ, đọc rất nhiều sách, đọc những câu
chuyện người xưa còn ghi lại về nhà thông thái này. Dưới ngòi bút Tônxtôi,
các bản dịch truyện của Êdôp trở thành những truyện ngụ ngôn Nga, những
câu tục ngữ Nga, trở thành những tác phẩm mang phong cách Tônxtôi. Sáng
tạo của nhà văn là ở chỗ, ông đã đưa sự kiện của truyện ngụ ngôn về môi
trường thân quen với trẻ em Nga, không kết thúc bằng một lời giáo huấn nặng
nề mà tập trung miêu tả hành động, tính cách nhân vật và xung đột của câu
chuyện, từ đó trẻ em sẽ tự rút ra cho mình bài học. Tác phẩm của Tônxtôi, vì
thế gần gũi với trẻ em, khiến chúng dễ hiểu, dễ nhớ, đó là những mẩu chuyện
nhỏ nhưng mang lại bài học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Độc giả nhỏ tuổi hẳn
không thể nào quên câu chuyện ngụ ngôn về hai người bạn và con gấu mà
Tônxtôi kể: Gặp gấu, hai người bạn, một anh hoảng sợ vội vàng leo tót lên
cây, còn anh kia ở lại trên đường, đành phải nằm xuống giả vờ chết. Khi gấu
bỏ đi, người bạn tụt xuống hỏi: "Gấu nói gì với cậu thế?", anh kia trả lời: "Nó

bảo rằng, không được bỏ bạn trong hoạn nạn". Hay câu chuyện nổi tiếng về
thằng bé nông dân chăn cừu nghịch ngợm mấy lần kêu cứu: "Sói ! Sói !" đã
làm mọi người lo lắng vô ích. Nhưng khi tai hoạ thực sự đến, nó lên tiếng kêu



17

cứu thì không ai đáp lại, bởi vì mọi người đều nghĩ nó đùa như trước
đây Chỉ với nửa trang giấy, Tônxtôi đã tái hiện những tình huống đầy kịch
tính, hồi hộp, khơi dậy sự tò mò, khám phá của trẻ em. Nhà văn không rút ra
bài học, lời răn đe như thường thấy ở cuối mỗi truyện ngụ ngôn. Ông để nhân
vật trong câu chuyện, người trực tiếp tham gia hành động, xung đột truyện tự
nêu ra. Truyện của Tônxtôi vì thế nhẹ nhàng phù, hợp với tiếp nhận của trẻ,
song sự chế giễu không kém phần sắc nhọn.
Trong nhiều mẩu chuyện về Êdôp còn được lưu giữ trong ký ức của
nhân dân, Tônxtôi đã đưa vào cuốn Sách học vần của mình một câu chuyện
khá thú vị. Có một lần Xanphơ sai Êdôp đi dò xem đám cưới của người hàng
xóm có nhiều người đến dự không. Êdôp đến nhà người hàng xóm, ném một
súc gỗ xuống ngưỡng cửa nhà anh ta, rồi ngồi bên cạnh chờ khách khứa ra về.
Tiệc tan, ai ra khỏi nhà cũng đều vấp phải khúc gỗ nhưng chỉ bực bội nhìn
khúc gỗ rồi đi đường mình. Chỉ có một bà cụ sau khi bị vấp đã quay lại đẩy
khúc gỗ dẹp sang bên để người khác không bị cản trở. Êdôp hài lòng trở về
gặp chủ.
- Thế nào, ở đấy có nhiều người không? - Xanphơ tò mò hỏi.
- Tất cả chỉ có một con người, mà đấy là một bà cụ già, Êdôp trả lời.
- Sao lại thế? - người chủ ngạc nhiên.
- Tất cả đều vấp phải khúc gỗ - Êdôp nói - mà không ai dẹp nó đi. Thế
thì lũ cừu cũng làm như vậy. Riêng bà cụ già dẹp súc gỗ đi để người khác
không bị ngã. Chỉ có con người mới làm như vậy. Một mình bà cụ là người.

Trong câu chuyện của Tônxtôi, Êdôp trở thành một nhân vật. Tônxtôi
đã vẽ chân dung của nhà thông thái Hy Lạp cổ đại bằng một câu chuyện kể
ngắn gọn song đầy sức gợi. Hình ảnh Êdôp trở nên gần gũi với trẻ em. Tương
truyền, có người nói, Êdốp vốn là một nô lệ nghèo của tên nhà giàu Xanphơ.
Người ta còn nói rằng sở dĩ Êdốp phải dùng lời bóng gió để kể chuyện và
giảng giải là bởi vì ông sợ tên chủ của mình và không dám nói thẳng ra. Song,



18

qua câu chuyện của Tônxtôi, độc giả thấy một Êdôp dũng cảm, thông thái,
nhân hậu, dám nói sự thật và ông đâu có sợ Xanphơ như lời đồn đại. Bài học
từ tác phẩm của Tônxtôi khiến cho không chỉ trẻ em mà người lớn cũng phải
suy ngẫm. Như vậy, có thể thấy, dù viết về loại nhân vật nào, Tônxtôi đều
nhằm nói với trẻ em, hướng tới trẻ em, đối tượng giáo dục của ông ở trường
học “Iaxnaia Pôliana”.
Ở Việt Nam, độc giả nhỏ tuổi biết đến Tônxtôi qua tập truyện ngụ ngôn
Kiến và chim bồ câu do một số dịch giả dịch và giới thiệu, trong đó phải kể
đến Thúy Toàn (dịch từ tiếng Nga) và Hoàng Oanh (dịch từ tiếng Anh). Tập
truyện bao gồm những truyện kể có hình thức ngắn gọn, nội dung đơn giản,
kết cấu rõ ràng mạch lạc. Các câu chuyện ít tình tiết, thường chỉ xoay quanh
hai hoặc ba nhân vật (trong 102 truyện: có 70 truyện có hai nhân vật, 18
truyện có ba nhân vật; 11 truyện có một nhân vật, 3 truyện có bốn nhân vật)
nhưng tính cách , phẩm chất của các nhân vật được bộc lộ rõ nét. Các nhân
vật trong tập truyện rất quen thuộc, gần gũi với trẻ em: con cáo, con ngựa, con
kiến, khỉ, chuột, hay những cô bé, thằng bé chăn cừu, bác mugic, bà già,
người đánh cá, cái bình đất, cái âu gang, cây sậy, cây ôliu, Mỗi truyện
thường đề cập đến một tình huống, một hoàn cảnh, ví dụ như: con chim cút bị
sa lưới của người đi săn, nó van nài người đi săn hãy thả nó và hứa sẽ nhử

những con cun cút khác vào lưới (Chim cút và người đi săn); hay người cha
yêu cầu các con hãy bẻ chiếc chổi (Người cha và các con trai); quạ tự bôi
trắng lông mình cho giống bồ câu rồi bay vào chuồng của bồ câu (Quạ và bồ
câu); sư tử bị bác thợ săn bắt và được con chuột cắn đứt dây thừng cứu thoát
vì trước đó sư tử đã thả chuột khi nó bị bắt (Sư tử và chuột), Các tình huống
này được tổ chức giống như một màn kịch nhỏ với những xung đột kịch tính
qua đó có thể rút ra những bài học nhân sinh sâu sắc: lối sống ích kỷ, vì chỉ
biết nghĩ đến bản thân mà sẵn sàng làm hại chính những người thân yêu nhất
của mình (Chim cút và người đi săn), bài học về tình đoàn kết, yêu thương,



19

đùm bọc lẫn nhau trong gia đình là sức mạnh vượt mọi khó khăn (Người cha
và các con trai), bài học về thói tham lam, ngu dốt, chỉ vì ham muốn vật chất
tầm thường mà bán rẻ giống nòi, bán rẻ tình cảm gia đình (Quạ và bồ câu),
bài học về sự đền ơn đáp nghĩa (Sư tử và chuột),
Tiểu kết
Trong cuộc đời cầm bút của mình, L.Tônxtôi rất quan tâm tới đối tượng
độc giả nhỏ tuổi. Ông đã dành cho các em hàng chục truyện ngắn, hàng trăm
truyện ngụ ngôn xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ. Những câu chuyện ngụ ngôn của
ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, đặc biệt là những độc giả
nhỏ tuổi, không chỉ trẻ em ở Iaxnaia Pôliana. Các truyện có kết cấu giản dị,
ngắn gọn, lấy đề tài từ sáng tác của Êdôp và trong văn học dân gian. Nhiều
truyện được Tônxtôi lấy cảm hứng từ đời sống hiện thực. Thế giới nhân vật
truyện ngụ ngôn Tônxtôi phong phú, đa dạng, gần gũi với trẻ em, hướng tới
trẻ em. Thông qua thế giới ấy, nhà văn muốn gửi tới bạn đọc những suy ngẫm
nhân sinh; những bài học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về tình người, cách đối
nhân xử thế; những xung đột xã hội; Những vấn đề mà nhà văn đặt ra trong

mỗi câu chuyện cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.

×