Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.33 KB, 83 trang )










LUẬN VĂN:

Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã ở Việt Nam hiện nay














Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng
hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập


tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xoá bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta
bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ
của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn,
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ
mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: "Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện
chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình".
Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng
được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và chủ yếu
thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XX tình hình vi
phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm trọng dẫn đến tình trạng
khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, làm mất lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và chính quyền.
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hoá một bước Chỉ thị này,
ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/ND-CP về thực hiện dân chủ ở xã.
Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ
trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định
hướng XHCN.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, ngoài những
mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như: Tính dân chủ hoá,
công khai hoá trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến đời
sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến
nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang tính




hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong
việc thực hiện Quy chế dân chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện
phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng
của việc thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã.
Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển khai
nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ở Việt Nam hiện
nay" là việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đáp ứng
yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã là những quy phạm mới được ban
hành từ năm 1998 và đang được triển khai thực hiện do vậy các bài viết, công trình
nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ:
Tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai
thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Đánh giá, tổng kết những thành tựu và những
khó khăn sau hơn 6 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã.
Nhìn chung các bài viết đã lý giải về tính tất yếu phải xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, qua thực tiễn khảo sát việc thực hiện quy chế ở các địa
phương, vùng miền trong cả nước để đưa ra những thành tựu đã đạt được của việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã cũng như rút ra những bất cập, hạn chế, vướng
mắc của Quy chế, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và hoàn thiện pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã
trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
3.1. Mục đích:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân
chủ ở cơ sở và đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở trong điều
kiện hiện nay; luận văn đề xuát phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ:
Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:



- Tìm hiểu, phân tích một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu:
Khái niệm, đặc điểm nền dân chủ, bản chất, vai trò của dân chủ ở cơ sở; khái niệm,
nội dung, vai trò và tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ và thực trạng
thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã hiện nay.
- Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất
nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, bước đầu đề xuất
phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy chế về thực hiện dân chủ
ở cấp xã trong điều kiện mới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng
bao gồm việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, cơ quan hành chính, doanh nghiệp, trường
học… Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện quy
chế thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong đó tập trung phân tích
những vấn đề lý luận chung về dân chủ, về pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, về
thực trạng thi hành pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến nay (Từ khi
Chính phủ ban hành Nghị định 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998). Trên cơ sở đó đề ra
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp
xã trong điều kiện mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền dân chủ
XHCN, về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng
pháp luật nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của chủ

nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử - cụ thể;
kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh, điều tra xã hội
học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm, tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực
hiện dân chủ ở cấp xã.



- Phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng và những
nguyên nhân tồn tại của Quy chế và thực thi Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực
hiện dân chủ ở cấp xã trong điều kiện mới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay
đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở.
- Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy trong các trường pháp lý cũng như nghiện cứu hoàn thiện pháp luật thực hiện
quyền dân chủ ở Việt Nam trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết./.



Chương 1:

Cơ sở lý luận về hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở xã

1.1. Nhận thức chung về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

1.1.1. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ XHCN.
1.1.1.1. Dân chủ và quyền dân chủ:
Đường lối đổi mới và dân chủ hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội do Đảng
cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI (Tháng 12/1986) đã và đang đi vào
cuộc sống. Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới với những thành tựu đạt
được đã cho phép chúng ta khẳng định được tính đúng đắn trong đường lối đổi mới
của Đảng ta.
Tiến tới chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể không xây dựng, phát triển và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ và tự do của nhân dân, đưa
nhân dân tới vị trí của người làm chủ xã hội, phát huy mọi khả năng chủ động sáng
tạo của quần chúng trong mọi hoạt động quản lý kinh tế và xã hội. Nền dân chủ
XHCN không những là một nhân tố hợp thành nội dung của chủ nghĩa xã hội mà còn
biểu hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò của một trong những
động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội. Nền dân chủ XHCN mà chúng ta đang từng
bước xây dựng và hoàn thiện hoàn toàn khác về chất so với nền dân chủ tư sản cũng
như các nền dân chủ từng tồn tại trong lịch sử trước đó vốn gắn liền với chế độ áp bức
và nô dịch quần chúng lao động.
Hướng tới dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội khoa học, công cuộc
đổi mới và dân chủ hoá mở ra khả năng lôi cuốn đông đảo quần chúng dưới sự lãnh
đạo của Đảng tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, khắc phục mọi
biểu hiện tập trung quan liêu để thực hiện dân chủ, kỷ luật và pháp luật. Đồng thời
cuộc đấu tranh đó cũng nhằm phê phán và loại trừ mọi biểu hiện của dân chủ cực
đoan, tự do vô chính phủ, kiên quyết chống lại mọi mưu toan lợi dụng xu thế dân chủ
hoá và nhu cầu dân chủ chính đáng của nhân dân để gây mất ổn định xã hội, phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng, loại bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, tuyên truyền cho
những quan niệm trừu tượng, phi lịch sử, làm lu mờ bản chất giai cấp của dân chủ,




tách rời dân chủ với pháp luật, quyền lợi và nghĩa vụ. Đây là những vấn đề thời sự
trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay mà chúng ta không thể xem nhẹ.
Một trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu về lý luận và có ý nghĩa
thực tiễn cấp bách trong việc mở rộng và phát huy quyền dân chủ của công dân đó
chính là việc nghiên cứu một cách có hệ thống, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.1.1. Dân chủ:
Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ
là do 2 từ hợp thành Demos (dân chúng) và Cratos (quyền lực hay cai trị). Như vậy,
với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân
dân, dân chủ là sự cai trị của nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa:
"Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân
chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế
chínn trị nhất định"
1

Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân là một trong những hình thức tổ
chức chính trị Nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên
tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân,
thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Dân chủ XHCN là một hình thức dân
chủ do nhân dân lao động chủ động thiết lập trong tiến trình đấu tranh cách mạng,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội chính trị tiên phong của nó, là
Đảng cộng sản. Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph. Ăng - ghen đã
cho rằng: "Trước hết giai cấp công nhân phải tự mình tổ chức thành giai cấp thống
trị và giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp của nó là giành lấy quyền lực Nhà
nước". Như vậy dân chủ XHCN có mục đích tự thân, giành lấy dân chủ là để tạo điều
kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội vì mục tiêu đem lại hạnh
phúc, ấm no, tự do, bình đẳng cho mọi người lao động. C.Mác đã dự báo điều đó
rằng: "Thay cho xã hội tư bản cũ với những giai cấp và đối kháng, giai cấp của nó sẽ

xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự

1
Từ điển Bách khoa Việt Nam, 1995, +.I, trang 653.



phát triển tự do của tất cả mọi người"
2
. Sau này, Lênin tiếp tục phát triển tư tưởng ấy
trong điều kiện mới. Theo Lênin thì dân chủ gắn bó hữu cơ, mật thiết với CNXH.
Người viết: "Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện được theo hai
nghĩa sau đâ:1. Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng XHCN
nếu họ không chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho dân
chủ. 2. Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ
không dần được nhân loại đi đến thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế
độ dân chủ"
1

Nghiên cứu lý thuyết về dân chủ có nhiệm vụ làm sáng tỏ bản chất, những đặc
điểm hình thành, những trình độ phát triển cùng những nhân tố ảnh hưởng đến sự
phát triển của dân chủ trong mỗi thời kỳ nhất định và cuối cùng là phải vạch ra những
điều kiện để thực hiện dân chủ trong xã hội gắn liền với những quy định tất yếu,
khách quan của cơ sở kinh tế và chính trị xã hội của xã hội đó. Để làm được điều đó
phải xác định hướng tiếp cận về dân chủ như sau:
Thứ nhất: Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát triển
với tư cách là sản phẩm, là kết quả trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động
chính trị của các giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền
lực thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Chế độ dân chủ của một xã hội thường tìm
thấy phương thức biểu hiện phổ biến của nó ở chế độ nhà nước. Nhà nước như là một

thiết chế chính trị để thực hiện dân chủ tuy không phải bất cứ chế độ nhà nước nào
cũng là chế độ dân chủ. Lịch sử đã từng biết tới các hình thức nhà nước chuyên chế,
quân chủ (dưới các triều đại và chế độ phong kiến) cũng như nhà nước phát xít, các
khuynh hướng độc tài và phát xít hoá nhà nước trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Đó
là những chế độ nhà nước phản dân chủ, xung đột gay gắt với quyền dân chủ của
công dân và xã hội nói chung. Sự trùng hợp giữa dân chủ với nhà nước đòi hỏi tổ
chức và bộ máy Nhà nước được xây dựng nên cùng với công cụ của nó là pháp luật
phải ít nhiều mang tính chất tiến bộ, đáp ứng được những mức độ nào đó của lợi ích
nhân dân và nhu cầu xã hội. Do vậy các cuộc đấu tranh cho dân chủ diễn ra trong
lịch sử bao giờ cũng phản ánh và gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh xã hội. Nó đụng chạm trực tiếp tới những cải cách hoặc phá bỏ chế độ Nhà

2
Mác - Ph. Ăng ghen toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, tập 4,
trang 628.



nước này hay chế độ Nhà nước khác. Quyền thống trị của giai cấp này hay giai cấp
khác. Xét trên bình diện xã hội và quản lý xã hội, giải quyết vấn đề dân chủ có nội
dung căn bản của nó ở chỗ giải quyết vấn đề Nhà nước. Lênin viết:
"…Dân chủ là sự thống trị của đa số. Chừng nào mà ý chí của đa số vẫn còn
mờ tối, chừng nào mà người ta vẫn có thể, dù chỉ là hơi giống như thế thôi, cho ý chí
đó là còn mờ tối, thì chừng đó người ta vẫn còn đưa ra cho nhân dân một Chính phủ
của bọn tư sản phản cách mạng dưới chiêu bài Chính phủ "dân chủ". Nhưng tình
trạng đó không thể kéo dài được. Trong vài tháng đã trôi qua kể từ ngày 27/2 trở đi, ý
chí của đa số công nhân và nông dân, tức là tuyệt đại đa số dân cư trong nước, đã thể
hiện ra rõ rệt. nhưng không phải chỉ dưới một hình thức chung mà thôi. ý chí đó đã
biểu hiện rõ trong các tổ chức có tính chất quần chúng - các Xô - Viết đại biểu công
nhân, binh sĩ và nông dân.

Vậy làm sao người ta lại có thể phản đối việc chuyển toàn bộ chính quyền Nhà
nước về tay các Xô - Viết ấy được? Như thế không có nghĩa khác hơn là từ bỏ dân
chủ"
3

Xét từ góc độ lợi ích trong xã hội đã phân chia thành giai cấp và hình thành
Nhà nước thì không thể có dân chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân chủ chung cho
tất cả mọi người không phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp của dân chủ đã và sẽ
còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và Nhà nước. Dân chủ chủ nô trong
chế độ chiến hữu nô lệ, dân chủ tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dân chủ
XHCN trong CNXH là những hình thức và trình độ khác nhau của sự phát triển dân
chủ trong lịch sử. Dân chủ của ai, quyền lực thuộc về giai cấp hay lực lượng xã hội
nào, giải quyết vấn đề lợi ích và quyền lực trên lập trường giai cấp nào trong những
điều kiện lịch sử - cụ thể của một chế độ xã hội… Tính xác định có trong những câu
hỏi đó cho thấy không thể có câu trả lời trừu tượng, phi lịch sử, thoát ly khỏi những
giới hạn và ràng buộc giai cấp trong vấn đề dân chủ. Điều này chứng tỏ rằng, mọi
nghiên cứu về dân chủ nếu không tựa vững chắc trên cơ sở kinh tế - xã hội và có sự
nhất quán về quan điểm chính trị, tính thống nhất và sự chi phối lẫn nhau giữa lợi ích
kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp xác định thì không thể chỉ ra bản chất
của dân chủ. Lý luận về tính giai cấp của dân chủ, vì lẽ đó là yếu tố quan trọng nhất,
là điểm xuất phát dẫn tới các vấn đề khác có trong lý thuyết và tư tưởng về dân chủ.

3
V.I Lênin toàn tập tập 32, trang 515,516, NXB Sự thật Hà Nội.



Thứ hai: Dân chủ không chỉ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm
của sự vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tế
xã hội mà dân chủ còn là thành tựu của nền văn hoá nhân loại, là thước đo về trình độ

giải phóng con người và xã hội mà loài người đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử.
Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển của dân chủ là những nấc thang
khác nhau của tiến bộ xã hội. Phản ánh những kết quả khác nhau theo xu hướng ngày
càng cao hơn và hoàn thiện hơn của tổ chức xã hội, của quản lý Nhà nước và quản lý
xã hội nói chung. Sự phát triển của dân chủ đồng thời là nhân tố kích thích và cũng là
kết quả sự mở rộng và nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Việc quần
chúng nhận được nhiều hay ít những khả năng và điều kiện để tham gia vào các hoạt
động của Nhà nước, các công việc quản lý xã hội, các hoạt động chính trị, điều đó
phụ thuộc vào mức độ phát triển thực tế của dân chủ xã hội. Của pháp luật dân chủ và
tiến bộ xã hội. Với dân chủ, con người chuyển từ thế bị động, lệ thuộc bởi giai cấp
bóc lột, thống trị tới chỗ xác lập vai trò chủ thể, tích cực trong xã hội mà mình trở
thành người chủ. Việc nhân dân lao động giành lấy dân chủ thông qua đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội cũ bằng chế độ xã hội mới tiên tiến
hơn, dân chủ hơn có ý nghĩa tích cực về chính trị và văn hoá.
Để có quan niệm đúng đắn và toàn diện về bản chất của dân chủ XHCN cần
phải khắc phục tính chất phiến diện trước đây thường dẫn tới đồng nhất giản đơn giữa
dân chủ với Nhà nước, với chế độ Nhà nước và từ đó quan niệm rằng sự tiêu vong
của Nhà nước (đến một lúc nào đó trong tiến trình phát triển của lịch sử) cũng đồng
thời là sự tiêu vong của dân chủ. Điều đó đem lại cảm giác rằng, dường như dân chủ
là một vấn đề tạm thời, vấn đề quyền lực của giai cấp thống trị gắn liền với tổ chức và
bộ máy Nhà nước. Cũng do đó, trong quan niệm truyền thống dân chủ chỉ được xem
như một phạm trù lịch sử. Phương pháp tiếp cận hệ thống khắc phục tình trạng ấy
bằng cách xác định một tập hợp các yếu tố nổi bật và quan trọng nhất dưới đây:
1. Dân chủ được xét với tư cách là hình thức tổ chức xã hội, là phương thức
quản lý và điều hành xã hội được xây dựng thành các thiết chế, Quy chế, chế độ được
bảo đảm về mặt pháp lý và được biểu hiện thành trật tự của tổ chức, bộ máy Nhà
nước. Dân chủ trở thành một hình thức tổ chức Nhà nước, thông qua tổ chức và quản
lý để thực hiện quyền lực đối với xã hội. Lẽ đương nhiên, chủ thể trực tiếp của quyền
lực đó trước hết thuộc về một giai cấp hoặc lực lượng xã hội nào nắm quyền điều




khiển, chi phối xã hội. Trong mối tương quan với quyền lực Nhà nước và chế độ nhà
nước, dân chủ ở đây được hiểu là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Với ý nghĩa này và
trong mối quan hệ giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ mới là một
phạm trù lịch sử. Nói cách khác dân chủ chỉ là phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với
nghĩa dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ
nhà nước. Sự tiêu vong của nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực
bằng Nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân chủ mà
thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực
thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn đề của chính bản
thân họ. Nó cũng không làm mất đi các giá trị của dân chủ mà trung tâm của các giá
trị này là tự do, là thành quả đấu tranh xã hội để giành lấy tự do cho con người, con
người trở thành tự do, làm chủ và sáng tạo. Nền dân chủ, chế độ dân chủ từng xuất
hiện từ thời cổ đại và sẽ còn tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự kiến của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi hoàn
toàn, khi ấy Nhà nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu
vong của chế độ dân chủ.
Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", Lênin đã nhấn mạnh rằng: "Trong
những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta luôn luôn phạm một sai lầm
mà Ăng ghen đã căn dặn phải đề phòng ở đây… Sai lầm ấy là: Người ta luôn quên
rằng thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu vong cũng là
chế độ dân chủ tiêu vong… và chế độ dân chủ là một hình thức Nhà nước, một trong
những hình thái của Nhà nước…. chế độ dân chủ càng hoàn bị bao nhiêu thì nó càng
gần đến lúc trở thành thừa bấy nhiêu"
4

2. Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Dân chủ với tư cách quyền lực
của nhân dân được coi như một giá trị đứng ngang hàng với các giá trị cơ bản khác
của con người, như tự do, bình đẳng, tôn trọng phẩm giá con người. Giá trị xã hội

đích thực của dân chủ là ở chỗ giành về cho đại đa số nhân dân lao động những
quyền lực của chính họ thông qua đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
của chính bản thân quần chúng nhân dân. Sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa dân chủ
và CNXH là ở đó. CNXH tìm thấy dân chủ một thuộc tính bản chất, một trong những

4
V.I. Lênin toàn tập, Tiếng việt, NXB Tiến bộ, Mat - Xcơ - Va, 1976, T33,
trang 101.



động lực phát triển nội tại của mình. Dân chủ trên con đường tiến hoá và phát triển
tìm thấy ở hình thức tổ chức xã hội XHCN những khả năng và điều kiện tốt nhất để
bộc lộ đầy đủ tiềm lực, sức mạnh bản chất, chân giá trị của mình.
1.1.1.1.2. Quyền dân chủ:
Nếu hiểu dân chủ là việc nhân dân giành lấy quyền lực Nhà nước, làm chủ xã
hội và tham gia vào việc quản lý xã hội ấy là khách quan, thì Quyền dân chủ là tất cả
những quyền năng được luật pháp ghi nhận.
Theo chúng tôi Quyền dân chủ là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định
quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội nó bao gồm các quyền về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Như vậy khi nói tới quyền dân chủ hay các giá trị dân chủ được thể chế hoá
trước hết phải xác định nguồn gốc của nó là do pháp luật thừa nhận và quy định phù
hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội trong từng thời kỳ. Sau đó Nhà nước
bảo đảm cho các giá trị đó được thực hiện trên thực tế.
Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà
nước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện quy định các quyền của công dân trong
mối quan hệ với Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… bảo
đảm cho nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước.
Theo chúng tôi quyền dân chủ XHCN hiện nay của nhân dân ta được phân

thành các nhóm sau:
1. Quyền chính trị:
Đây là nhóm quyền quan trọng và trước hết đối với nhân dân ở mỗi quốc gia
nó xác định tư cách hay địa vị của công dân trong xã hội. ở Việt Nam, nhân dân là
chủ thể chân chính và duy nhất của quyền lực xã hội; Nhà nước, pháp luật và các
thiết chế công quyền chỉ là đại diện thừa hành, hay công cụ tiện dụng của nhân dân,
nhằm thực hiện quyền lực ấy một cách có tổ chức và hiệu quả. Quyền chính trị là các
quyền xác định khả năng của công dân vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội nó
bao gồm: Quyền có quốc tịch, là quyền được sống trong một nước độc lập, có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; các quyền bầu cử là quyền được lựa chọn hay
bãi nhiệm những đại biểu đại diện cho mình để thiết lập nên các cơ quan đại diện (cơ
quan quyền lực Nhà nước), hay tự mình ứng cử để tham gia vào các cơ quan quyền
lực Nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật, tham



nhũng, xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích chính đáng của công dân;
các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, lập hội, hội họp, biểu tình.
2. Quyền dân sự:
Quyền dân sự là các quyền tự nhiên, gắn liền với mỗi con người đượck pháp
luật ghi nhận và bảo vệ bao gồm: Các quyền nhân thân (quyền đối với họ, tên, hình
ảnh, quyền đối với quốc tịch, nơi cư trú, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, bí
mật đầu tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đi lại…); các quyền sở hữu, thừa kế và
các quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự…
Quyền dân sự cho phép con người bảo vệ được cá tính là chính mình trong
quan hệ với Nhà nước và người khác. Các quyền dân sự là tiền đề để xây dựng một
chế độ Nhà nước dân chủ.
3. Quyền kinh tế:
Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức. Tổ chức sản
xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Các quyền kinh tế gắn liền với việc bảo đảm cho cá nhân tự do sử dụng các đồ
dùng và các yếu tố cơ bản của hoạt động sản xuất - các điều kiện sản xuất và sức lao
động là một trong các điều kiện quan trọng nhất cho sự tồn tại của xã hội công dân
với tư cách là cơ sở xã hội của chế độ dân chủ và cho sự bảo đảm tự do của cá nhân.
Các quyền kinh tế ngày càng được mở rộng cho cá nhân, đó là việc Nhà nước
tôn trọng và bảo hộ các quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, các cá nhân có quyền tự
do lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong cơ chế bình đẳng, công bằng, công khai
giữa các thành phần kinh tế.
4. Các quyền xã hội, văn hoá và sinh thái:
Các quyền xã hội, văn hoá và sinh thái bao gồm quyền được bảo đảm có các
điều kiện vật chất, tinh thần và môi trường trong sạch cho sự tự do và cuộc sống xứng
đáng của mỗi người.
Việc thực hiện các quyền này của nhân dân không chỉ bằng pháp luật và sự
bảo vệ của Nhà nước, mà còn đòi hỏi phải tạo ra hàng loạt các phúc lợi xã hội khác.



Nhóm các quyền này quy định nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho mỗi người những
điều kiện sinh tồn xứng đáng, những phúc lợi và dịch vụ vật chất tối thiểu để duy trì
cuộc sống của con người, phát triển tinh thần trong một môi trường bao quanh lành
mạnh. Khi đó, các quyền xã hội sẽ bao gồm việc bảo đảm cho mỗi người một mức
sống và bảo đảm xã hội xứng đáng (các quyền Bảo hiểm xã hội, nơi ở, lao động, bảo
vệ sức khoẻ…). Các quyền văn hoá có nhiệm vụ bảo đảm sự phát triển tinh thần của
cá nhân (quyền học tập, tự do sáng tạo, tận hưởng các giá trị văn hoá…); Các quyền
sinh thái là quyền có một môi trường bao quanh tốt lành, có thông tin đáng tin cậy về
thực trạng của nó. Nhà nước cần quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ môi trường sinh

thái.
Trên đây là những quyền dân chủ cơ bản của cá nhân cần được bảo đảm và
thực hiện trong chế độ Nhà nước dân chủ. Mức độ thực hiện chúng trên thực tế là
thước đo tính dân chủ của mỗi nhà nước.
Mở rộng và thực hiện các quyền dân chủ chính là mục đích mà Nhà nước
XHCN đang cố gắng đạt tới nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ:
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu
những tinh hoa văn hoá của nhân loại, kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ
của phương đông, phương tây kết hợp với những truyền thống tốt đẹp của cha ông ta,
Người đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân đối với cách mạng. Người
cho rằng: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân"( T 8 trang 705). "Nước lấy
dân làm gốc" toàn bộ sự nghiệp cách mạng là vì dân, do dân tiến hành. Dân là chủ
thể, là lực lượng của cách mạng, dân phải được chăm lo chu đáo về vật chất và tinh
thần. Người xác định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân… Theo tư tưởng Hồ Chí Minh dân chủ phải được thực
hiện đồng thời trên ba mặt gắn bó hữu cơ với nhau: Nâng cao dân trí, thực hiện dân
quyền và bảo đảm dân sinh. Dưới sự lãnh đạo của Người những tư tưởng đó đã dần đi
vào cuộc sống thông qua việc thực hiện những đường lối, chủ trưởng, chính sách của
Đảng và Chính phủ được thể hiện như sau:
1. Nâng cao dân trí:



Với hoàn cảnh kinh tế xã hội đương thời, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với hơn 95% số dân mù chữ, với những tàn
dư, nếp sống, thói quen lạc hậu, Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp dân chủ hoá ở nước
ta phải được bắt đầu từ việc thực hiện chủ trương diệt giặc dốt. Người nói: " Nay
chúng ta đã giành được độc lập; Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc

trong lúc này là nâng cao dân trí" và "Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền
lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ"( T4 trang
29). Nhờ chủ trương đúng đắn này và với sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân mà
chỉ sau một thời gian ngắn dưới chế độ mới da số nhân dân ta đã có thể tự tay viết lá
phiếu bầu những Đại biểu xứng đáng vào Quốc hội đầu tiên của một nước độc lập.
Chủ trương của Hồ Chí Minh về "diệt giặc dốt", xoá nạn mù chữ là nhất quán
và xuyên suốt trong quá trình thực hành dân chủ, khi bắt đầu cách mạng XHCN ở
miền Bắc Người khẳng định "Dốt thì dại, dại thì hèn. Vì không chịu dại, chịu hèn cho
nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân
dân các nước dân chủ mới". ( Tập 7 trang 237) Trong những năm cuối đời Hồ Chí
Minh vẫn luôn quan tâm đến vấn đề này. Người thường xuyên đến thăm hỏi, khen
ngợi những đơn vị, những địa phương làm tốt công tác xoá mù chữ, nhắc nhở, động
viên, hướng dẫn những nơi làm chưa tốt. Bản thân việc xoá nạn mù chữ không phải là
mục đích cuối cùng. Xoá nạn mù chữ là một bước để tiến tới việc nâng cao dân trí,
nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân. Người nói: "Thanh toán nạn mù chữ là bước
đầu nâng cao trình độ văn hoá. Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp
chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình
độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một
nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" ( T 7 trang 551) vì vậy Hồ
Chí Minh cùng với Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nhân
dân về kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật và cả về giáo dục chính trị, tư tưởng.
Giáo dục kiến thức văn hoá - khoa học kỹ thuật có tác- dụng tạo ra cơ sở cho
việc thực hiện dân chủ. Người lao động có trình độ văn hoá, trình độ khoa học và kỹ
thuật mới làm chủ được sản xuất, làm chủ xí nghiệp, áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật để cải tiến sản xuất, cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, làm cho kinh
tế phát triển. Trên cơ sở đó mới có thể nâng cao đời sống nhân dân, mặt khác, giáo




dục văn hoá còn có tác dụng nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân. Có trình độ
văn hoá còn có tác dụng nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân. Có trình độ văn
hoá ngày càng cao nhân dân mới có thể hiểu được và thực hiện đúng đường lối chính
sách của Đảng, hiểu và tuân thủ pháp luật, các quy tắc sinh hoạt xã hội, thấm nhuần
và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, biết cái gì đúng, cái gì sai, cái gì hợp đạo
lý, không hợp đạo lý. Mục tiêu của giáo dục văn hoá là: "Làm sao cho nhân dân biết
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm" ( T10
trang 508)
Giáo dục chính trị, tư tưởng có tác dụng nâng cao ý thức làm chủ của nhân
dân. Đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì nhân dân ta lúc này còn chưa ý thức được
đầy đủ vai trò, địa vị của người làm chủ, cũng như các quyền lợi và nghĩa vụ của
người công dân. Muốn làm chủ trong quá trình cách mạng. Thì nhân dân phải được
giác ngộ, tập hợp, đoàn kết thành sức mạnh. Để thực hiện quyền làm chủ nhân dân
không những phải có quyền mà điều quan trọng phải có năng lực làm chủ. Người cho
rằng "Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà.
2. Thực hiện dân quyền:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ không phải là cái gì cao siêu cả, mà rất rõ
ràng, cụ thể. Người chỉ rõ: "Có việc gì, thì ai cũng được bàn, khi bàn rồi thì bỏ thăm,
ý kiến nào nhiều người theo hơn là được. ấy là dân chủ. Đã bỏ thăm rồi thì giao cho
hội uỷ viên làm, khi ấy thì tất cả hội viên phải theo mệnh lệnh hội ấy. ấy là tập trung".
Trong quá trình hoạt động cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dặn dò, nhắc nhở
phải trân trọng và bảo đảm quyền của cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân lao
động. Đó là quyền góp ý, thảo luận, phê bình, kiểm tra, giám sát, tham gia quản lý
Nhà nước và xã hội. Với chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền, quản xã
hội bằng pháp luật. Người đã chỉ đạo việc xây dựng hai bản hiến pháp 1946 và 1959,
trực tiếp lý 16 đạo luật, 300 văn bản dưới luật. Tinh thần của các bản Hiến pháp do
Hồ Chí Minh xây dựng là: Bảo đảm được các quyền tự do, dân chủ cho các tầng lớp
nhân dân trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải
thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng. Chính người đã chỉ ra rằng:

"Công dân nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà:
Có quyền làm việc.



Có quyền nghỉ ngơi.
Có quyền học tập.
Có quyền tự do thân thể.
Có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình.
Có quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Có quyền bầu cử, ứng cử…" ( T8 trang 567 )
Và các quyền đó phải đi đôi với nghĩa vụ "Tuân theo hiến pháp, pháp luật, kỷ
luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội - công dân có nghĩa
vụ tôn trọng tài sản công cộng, đóng thuế theo luật pháp, làm nghĩa vụ quân sự, bảo
vệ Tổ quốc"( T 8 trang 586 )
Để bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân, để bảo đảm
công bằng và bình đẳng giữa các công dân, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc xây dựng hệ
thống luật pháp. Hiến pháp và pháp luật có tác dụng giáo dục, thuyết phục là chính
nhưng cũng "Thẳng tay trừng trị kẻ bất lương, bất kỳ người ấy ở đơn vị nào, làm
nghề gì" ( T 5 trang 245 ) tuy nhiên, người cũng không có ảo tưởng rằng khi đã có
luật là đã có thể sống và làm việc theo luật một cách đầy đủ và ngay lập tức, vì tư
tưởng cũ, tập quán cũ đã ăn sâu bén rễ trong nhân dân. Vì vậy, khi công bố một đạo
luật "Chưa phải là mọi việc đã xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới
thực hiện tốt"( T 8 trang 499 ).
Để có thể làm trọn chức năng của dân, do dân, vì dân, ngoài việc xây dựng và
thi hành Hiến pháp và luật, Nhà nước cần phải tạo ra các điều kiện vật chất và tinh
thần giúp nhân dân thực hiện các quyền dân chủ, hướng dẫn nhân dân phát huy các
quyền làm chủ của mình. Người nói: "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và
sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tính cực và sức sáng tạo của nhân
dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà

nước"( T 8 trang 563 ). Không những thiết lập và điều hành Nhà nước, Hồ Chí Minh
còn luôn quan tâm đến hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp, đặc biệt quan tâm
đến những khuyết tật có thể có của bộ máy Nhà nước, đó là bệnh quan liêu, xa rời
nhân dân và sự thoái hoá, biến chất về phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Người
cho rằng, đối với một Nhà nước dân chủ có 3 điều phải chống là "Nạn tham ô, nạn
lãng phí, bênh quan liêu" và "Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong



lòng"( T6 trang 205, 207 ). Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra cách chữa bệnh quan
liêu: "Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều:
- Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết.
- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
- Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ.
- Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan ngênh
nhân dân phê bình mình.
- Sẵn sàng học hỏi nhân dân.
- Tự mình phải làm gương cần, kiện liên chính để nhân dân noi theo"(
T6 trang 113)

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân gắn với công bằng
xã hội, được thực hiện trong thực tế, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với
nhiều cấp độ khác nhau, được thể chế hoá bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.
Dân chủ là một mặt của quá trình hoàn thiện thể chế quản lý xã hội. Đó là Nhà nước
pháp quyền dựa trên một nền dân chủ phát triển. Dân chủ bao gồm cả 2 mặt: Quyền
lợi và nghĩa vụ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải cónghĩa vụ làm tròn bổn
phận công dân.
3. Bảo đảm dân sinh:
Hồ Chí Minh thường dùng câu châm ngôn "Có thực mới vực được đạo" để chỉ
rõ mối quan hệ của các quá trình vật chất và tinh thần. Ngay những ngày đầu của

chính quyền cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp, Người thường nêu khẩu
hiệu "Chống giặc đói" lên hàng đầu. Suốt cuộc đời Người thường mong muốn và
phấn đấu thực hiện để mọi người Việt Nam được no ấm, đời sống của nhân dân ngày
một được nâng cao. Không thể nói đến dân chủ và thực hành dân chủ khi dân không
có cơm ăn, áo mặc. Không thể có dân chủ trong đói nghèo, lạc hậu và không thể phát
triển dân chủ nếu đời sống của nhân dân không được nâng cao. Hồ Chí Minh cho
rằng, điều quan trọng bậc nhất của các kế hoạch kinh tế là nhằm cải thiện dần đời
sống của nhân dân và "Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết
nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên CNXH
1
(T7, trang 623), Mặt
khác, người nhắc nhở: Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng
cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự"
2
(T7, trang 4). Hồ Chí Minh
đã triển khai tư tưởng này trong thực tế, người luôn quan tâm đến việc làm sao để



tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, cải tiến quản lý, hợp lý hoá sản xuất; chăm lo
giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, việc làm cho nhân dân và thực hiện cải
cách xã hội khác nhằm làm cho đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, góp phần
thực hiện dân chủ thực sự. Luận điểm này còn có giá trị phương pháp luận, nó khẳng
định rằng mọi biện pháp, bước đi, con đường xây dựng đất nước, mọi đường lối, chủ
trương, cải cách, cải tạo, cải tiến, đổi mới là đúng đắn và có kết quả nếu thoả mãn
được 2 yêu cầu: Đời sống và dân chủ cho nhân dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng, dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng HCM cho thấy, nguồn gốc của mọi thắng lợi là sức mạnh
của nhân dân. Thực tiễn ngày càng khẳng định quan điểm khoa học, cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của

cách mạng. Dân chủ là bản chất của chế độ, của Nhà nước ta.
Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong ý tưởng, qua lời nói mà
được ghi nhận trong Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Đặc biệt trong những
năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về
kinh tế, chính trị, xã hội, nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhờ
đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước
và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Các phương thức thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở:
Pháp luật ghi nhận các quyền dân chủ của công dân trên các lĩnh hvực của đời
sống xã hội, song dù ghi nhận đầy đủ đến đâu cũng trở nên không có ý nghĩa nếu
không có các phương thức thực hiện nó trong cuộc sống. Phương thức thực hiện
quyền dân chủ là cách thức, phương pháp để đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống,
làm cho nó trở thành hiện thực trực tiếp và phổ biến trong đời sống cộng đồng và của
quản lý xã hội. Vai trò quyết định đối với việc thực hành dân chủ thuộc về nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua hai hình thức là dân chủ đại diện
(dân chủ gián tiếp) và dân chủ trực tiếp.
1.1.2.1. Dân chủ đại diện:
Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền
lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ thể quyền lực (tức
nhân dân) vẫn giữ cho mình quyền và chức năng tác động, giám sát, kiểm tra hoạt
động của các cơ quan đại diện. Dân chủ đại diện là một hình thức thực hiện dân chủ



quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong quy trình thực hiện quyền lực của nhân dân và đã
được thực tiễn hoạt động Nhà nước trong các quốc gia dân chủ ghi nhận. Hình thức
đầu tiên của chế độ dân chủ đại diện là chế độ đại nghị tư sản, ra đời trong lòng chế
độ quân chủ phong kiến chuyên chế, trở thành công cụ của giai cấp tư sản trong quá
trình đang lên. ở Việt Nam, dân chủ đại diện với các quan điểm của chế độ "dân uỷ"
đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946) và tiếp tục

khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định:
"Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra
vầ chịu trách nhiệm trước nhân dân". Như vậy, hình thức chủ yếu của dân chủ đại
diện ở nước ta là thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra nhân
dân còn làm chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp của
nhân dân được lập nên theo nguyên tắc tự nguyện.
Tuy nhiên, dân chủ đại diện dù có ý nghĩa quan trọng đến mấy vẫn không thể
khắc phục được những hạn chế của chế độ Nhà nước với tính cách là chủ thể quyền
lực được uỷ quyền nhưng lại trực tiếp thực hiện quyền năng của người uỷ quyền là
nhân dân. Do vậy, trong một phạm vi, mức độ đáng kể nhân dân vẫn bị tách khỏi
quyền lựcNhà nước và không phải lúc nào những uỷ quyền của nhân dân cũng được
thực thi đúng. Vẫn có nguy cơ về căn bệnh tha hoá quyền lực, quan liêu hoá bộ máy
Nhà nước, sự cồng kềnh, kém hiệu quả của các thiết chế quyền lực, sự xuất hiện một
bộ phận cán bộ đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy Nhà nước sẽ khó khắc phục nổi nến
thiếu các nổ lực của các lực lượng quần chúng nhân dân. Để khắc phục tình trạng đó
cần phải có sự tham gia tích cực và chủ động của nhân dân với tư cách là chủ thể duy
nhất và tối cao của quyền lực Nhà nước - Đó chính là chế độ dân chủ trực tiếp.
1.1.2.2. Dân chủ trực tiếp:
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền lực về
những vấn đề cơ bản, chính yếu của một tập thể, một cộng đồng. Cơ quan quản lý có
trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảođảm đưa nó vào thực thi trong cuộc sống.
Dân chủ trực tiếp có vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với toàn bộ
đời sống dân chủ của đất nước được thể hiện trên những điểm chính sau đây:
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí
tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn



đề lớn từ quốc kế dân sinh đến những việc của đời sống cộng đồng, dân cư. Thông

qua hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân có điều kiện tham gia ý kiến, có điều kiện
để tập dượt, trưởng thành, trở thành người chủ đích thực. Một nhà nước biết lắng
nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao đời sống của dân thì nhân dân không
chỉ nói lên điều mình mong muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng nhà nước
cần phải hành động như thế nào, bằng phương pháp và công cụ nào để giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội. Thực tiễn của những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ rằng,
những sáng kiến đầy tâm huyết của nhân dân đã tạo nên nguồn trí tuệ quý giá không
gì thay thế cho những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, tạo ra những bước phát triển vững chắc của đất nước trên con đường phát triển
và hội nhập.
Dân chủ trực tiếp tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm tra, giám sát đối với hình thức
dân chủ đại diện, với bộ máy Nhà nước, giảm bớt sự tuỳ tiện, lộng quyền, phát huy
được tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong một tập thể, một cộng đồng.
Khắc phục thói quen trí tuệ, ỷ lại, trông chờ người khác. Phát huy truyền thống tương
thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì mục
tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất, những thông tin phản
hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính
sách của mình một cách nhanh nhất, kịp thời sửa chữa, bổ sung, khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí, xa với thực tế, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Dưới góc độ pháp lý, dân chủ trực tiếp được thể hiện ở ba nhóm quyền năng
cơ bản của nhân dân là: Các quyền năng thể hiện, xác lập ý chí trực tiếp của nhân dân
đối với các vấn đề quốc gia, dân tộc (đưa ra các sáng kiến, thỉnh nguyện, trưng cầu ý
dân…); các quyền năng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong
khuôn khổ phạm vi được uỷ quyền theo luật định (quyền lập ra bộ máy nhà nước;
quyền giám sát các hoạt động của bộ máy Nhầ nước; quyền bãi miễn các đại biểu do
nhân dân bầu vào cơ quan đại diện và quyền lực Nhà nước…); Các quyền năng của
nhân dân trực tiếp giải quyết các công việc của cộng đồng mà không cần có sự can
thiệp trực tiếp của công quyền.




Tăng cường và hoàn thiện các chế độ thực hiện dân chủ của nhân dân là việc
làm lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước để bảo đảm mỗi bước phát triển
của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật có tính chất mở
đường định hướng cho sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhưng việc phát huy
và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ dân
trí, truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân chủ đi đôi với kỷ
cương, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ.
1.2. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã - khái niệm, phạm vi điều chỉnh, vai trò:
1.2.1. Khái niệm, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã:
Quyền dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật và các
văn bản dưới luật khác. Để thực hiện quyền dân chủ của công dân đòi hỏi các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội, các nhân viên Nhà nước, các cán bộ, công chức và mọi
công dân phải triệt để tuân thủ pháp luật. Nói cách khác thực hiện quyền dân chủ là
tất cả các quyền dân chủ do pháp luật quy định được tôn trọng và thực hiện trên thực
tế.Thực hiện dân chủ ở xã là việc chính quyền (HĐND và UBND) phải thực hiện một
số hành vi nhất định để công dân thực hiện được các quyền dân chủ của mình.
Quy chế thực hịên dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính quyền cơ sở với công
dân trong việc phải thông tin kịp thời và công khai những việc để dân biết; những
việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ
quan Nhà nước quyết định; những việc dân giám sát kiểm tra và việc xây dựng cộng
đồng dân cư thôn.
1.2.2. Phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã:
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật (nói chung) là giới hạn điều chỉnh của hệ
thống pháp luật nhưng không phải là giới hạn chung cho tất cả các chế định pháp luật
và các ngành luật. Mỗi chế định pháp luật, mỗi ngành luật đều có phạm vi điều chỉnh
riêng, đó là những quan hệ xã hội cùng loại thuộc một lĩnh vực của đời sống xã hội

cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Ví dụ: Luật dân sự có đối tượng điều chỉnh là
các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi
tài sản; luật hành chính có đối tượng điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của các cơ quan hành chính Nhà
nước…



Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là một chế định pháp luật do vậy nó cũng có
đối tượng điều chỉnh tiêng. Đối tượng điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
cũng được xác định trên cơ sở lý luận về đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói
chung, nghĩa là Quy chế thực hiện dân chủ ở xã chỉ điều chỉnh trong giới hạn xác
định hoạt động của chính quyền cấp xã, phường, thị trấn liên quan đến quyền dân chủ
của công dân.
Hiện nay Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ban hành kèm theo nghị định
79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ có phạm vi điều chỉnh gồm:
Thứ nhất: Những việc cần thông báo để nhân dân biết:
Đây là những nội dung rất quan trọng đối với nhân dân nó liên quan đến các
quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội.
Chính quyền cấp xã có trách nhiệm phối hợp với uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các thành viên của MTTQ Việt Nam cùng cấp và trưởng thôn để thông báo cho
nhân dân biết những nội dung này bằng nhiều hình thức.
Thứ hai: Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
Đây là những nội dung liên quan đến quyền lợi trực tiếp của nhân dân, nhân
dân có quyền quyết định trực tiếp những công việc này, phù hợp với pháp luật. Chính
quyền cấp xã có trách nhiệm xây dựng phương án, chương trình, kế hoạch để nhân
dân xem xét, bàn bạc và quyết định. UBND cấp xã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp chỉ đạo trưởng thôn và trưởng ban công tác mặt trận tổ chức thực
hiện những vấn đề do nhân dân tự quyết định đã được UBND xã công nhận.

Thứ ba: Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết
định.
Đây là những công việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã
hoặc của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng có liên quan đến việc phát triển kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội ở địa phương. Nhân dân được bàn bạc, tham gia ý kiến.
Chính quyền cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân dân công khai để dựa vào đó mà ban
hành quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Thứ tư: Những việc nhân dân giám sát kiểm tra.
Đây là những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành của chính
quyền cấp xã, nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra đối với các hoạt động ấy bằng



nhiều hình thức khác nhau. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm giải quyết và trả lời
những nội dung mà nhân dân quan tâm theo thẩm quyền.
Thứ năm: Xây dựng cộng đồng dân cư thôn:
Nhằm thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy các hình
thức hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và là nơi tổ chức cho nhân dân thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm
vụ cấp trên giao. Tổ chức thôn được thành lập. Trưởng thôn là người đại diện cho
nhân dân trong thôn do nhân dân bầu và được Chủ tịch UBND xã công nhận. Thôn
xây dựng hương ước, quy ước về công việc nội bộ cộng đồng dân cư, kế thừa và phát
huy thuần phong, mỹ tục của cộng đồng, phù hợp với quy định của pháp luật hiện
hành nhằm bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an
toàn giao thông, vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh.
Xác định phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã có ý nghĩa
hết sức quan trọng, một mặt giúp cho chính quyền thấy được những nội dung công
việc cụ thể phải thực hiện mặt khác để người dân thực hiện quyền dân chủ trong
khuôn khổ của pháp luật tránh việc lợi dung dân chủ để gây mất đoàn kết nội bộ, phá
rối trật tự công cộng hoặc có những hành vi chống phá chính quyền nhân dân.

1.2.3. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
1.2.3.1. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam:
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp
luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy định thành các chế định pháp luật,
các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định (Giáo trình lý luận chung
về nhà nước - pháp luật - HVCTQGHCM - NXB LL chính trị Hà Nội -2004 -
trang173). Quy chế thực hiện dân chủ ở xã được ban hành kèm theo Nghị định số
29/1998/ND-CP ngày 11/5/1998 là một chế định pháp luật hợp thành của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã góp phần hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời kỳ mới. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN là những quan
hệ xã hội quan trọng phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Đồng thời Quy chế thực
hiện dân chủ đã thể chế hoá các chủ trương lớn của Đảng là: Quyền làm chủ của



nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa
quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiều hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm
trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được.Phương châm "Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật pháp, chậm đi
vào cuộc sống… phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hútnhân dân tham
gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng
suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng" (Chỉ thị 30/CT-TW ngày
18/2/1998).
Trong phạm vi điều chỉnh của mình, Quy chế thực hiện dân chủ ở xã góp phần
nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác như: "Luật tổ chức HĐND -
UBND, luật giải quyết khiếu nại, tố cáo; luật bầu cử: Quốc hội, Luật bầu cử HĐND
các cấp". Có thể xem Quy chế thực hiện dân chủ ở xã như một văn bản "tố tụng" về

dân chủ nó đã thúc đẩy các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách thực hiện nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ pháp lý để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân theo
quy định của pháp luật.
Như vậy Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam "nó" không chỉ là công cụ thể chế hoá một số chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước mà còn
đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác.
1.2.3.2. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã trong đời sống xã hội:
Với các quan điểm chỉ đạo trong quá trình xây dựng Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã là:
"Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể
của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", coi
trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác.
Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động
của Quốc hội, chính phủ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp vừa thực
hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực
tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình. Phát huy
dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều kiện
mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả" (Chỉ thị 30 - CT/TW ngày 10/2/1998 của
BCHTW).

×