Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.91 KB, 22 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
I.PHẦN MỞ ĐẦU:
1.Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, giáo dục là một vấn đề lớn trong xã hội, đặc biệt là giáo
dục thế hệ trẻ. Nó được toàn xã quan tâm và đang hết sức quan trọng , bức thiết trước
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh.
Với tinh thần đó, Đảng và nhà nước ta cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều
nghị quyết chỉ thị nhắm chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai đổi mới, cải cách chương trình
giảng dạy và phương pháp học tập ở nhiều bộ môn, trong đó có môn toán.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, giúp cho con người có khả
năng tư duy lô gíc, bồi dưỡng và phát triển những thao tác trí tuệ cần thiết để nhận
thức thế giới hiện thực như trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích và tổng hợp, so
sánh và dự đoán, chứng minh (phân tích tổng hợp) và bác bỏ. Nó có vai trò to .ớn
trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải
quyết vấn đề có căn cứ khoa học, toàn diện, chính xác. Nó có nhiều tác dụng trong
việc rèn luyện nề nếp, tác phong, phong cách làm việc khoa học rất cần thiết trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người; góp phần giáo dục ý chí và đức tính tốt như
cần cù, nhẫn nại, vượt khó,…
Với vị trí và tầm quan trọng khả năng giáo dục của môn toán nói chung và môn
toán trường tiểu học nói riêng, người giáo viên cần phải làm gì ? Làm như thế nào để
nâng cao hiệu quả giáo dục môn toán ?
Do tầm quan trọng của môn học, qua kinh nghiệm giảng dạy, đặc biệt là việc
phụ đạo học sinh trung bình, yếu và bồi dưỡng học sinh khá, giỏi môn toán ở lớp bốn,
cùng với việc nghiên cứu tài liệu, tôi đã tìm ra cách giải các dạng toán có lời văn ở bậc
tiểu học, giúp cho người dạy thuận lợi hơn trong việc hướng dẫn các em, giúp cho học
sinh bớt khó khăn hơn trong việc giải các dạng toán này. Vì vậy, tôi chọn đề tài:
“Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn” nhằm góp phần nâng cao chất
lượng môn toán. Tôi hy vọng rằng với những nội dung sắp trình bày dưới đây sẽ góp
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh


Trang 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
một phần kinh nghiệm nhỏ của mình trong quá trình giảng dạy bộ môn toán ở bậc tiểu
học.
2. Mục đích của đề tài:
Đề tài này bước đầu tìm hiểu thực trạng về một số đặc điểm giải toán có lời
văn của học sinh lớp bốn. Trình bày một số biện pháp sư phạm cần thiết để nâng cao
chất lượng giải toán có lời văn của học sinh trong tiết dạy toán góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học môn toán lớp bốn.
3.Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu:
a. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
- Mô tả thực trạng về đặc điểm giải toán có lời văn của học sinh lớp bốn .
- Bước đầu đưa ra một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao giải toán có lời
văn của học sinh lớp bốn ở bậc tiểu học.
b.Phương pháp :
- Phương pháp kinh nghiệm thực tế.
- Phương pháp tham khảo tài liệu.
- Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh môn Toán ở tiểu học
thu bài tốt hơn.
4.Giới hạn nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về thực trạng về giải bài toán có lời văn của học sinh lớp
bốn; Xây dựng thái độ ham thích học toán cho học sinh; Đường lối chung hướng dẫn
học sinh giải một bài toán theo 4 bước; Những quy định về hình thức trình bày của
một bài giải toán; Cách hướng dẫn đặt câu lời giải; Các phương pháp tóm tắt đề toán.
5. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Trong sáng kiến kinh nghiệm này điểm mới trong phương pháp nghiên cứu là
giúp cho người giáo viên có một kinh nghiệm thực tế để giảng dạy cho học sinh bất cứ
trình độ nào (Giỏi, khá, trung bình, yếu) và học sinh lớp bốn bậc tiểu học, giúp cho

học sinh đỡ căng thẳng, mệt mỏi, không khí lớp học nhẹ nhàng và giúp các em tiếp
thu bài tốt hơn.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
III. Giới hạn đề tài:
Đề tài nghiên cứu về thực trạng về giải bài toán có lời văn của học sinh lớp
bốn; Xây dựng thái độ ham thích học toán cho học sinh; Đường lối chung hướng dẫn
học sinh giải một bài toán theo 4 bước; Những quy định về hình thức trình bày của
một bài giải toán; Cách hướng dẫn đặt câu lời giải; Các phương pháp tóm tắt đề toán.
IV. Khách thể và đối tượng nghiên cứu :
1. Khách thể nghiên cứu :
Hoc sinh lớp Bốn
3
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh.
2. Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng về giải bài toán có lời văn của học sinh lớp bốn.
- Biện pháp nâng cao giải toán có lời văn của học sinh ở lớp bốn.
V. Lịch sử nghiên cứu :
Điều 24, Luật Giáo dục ghi rõ: “ Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh

hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên xã hội và con người …”. Toán học với tư
cách là môn khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực giúp con người có
một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cơ bản cần thiết cho đời
sống sinh hoạt và lao động. Đó cũng chính là những công cụ rất cần thiết để học các
môn học khác và để tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh giúp cho hoạt động trong
thực tiễn có hiệu quả.
Vì thế môn Toán ở tiểu học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh một
khối lượng tri thức mà còn giáo dục các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu

đáo, làm việc có kế hoạch, thói quen tự kiểm tra công việc của mình, có óc độc lập
suy nghĩ, óc sáng tạo, phát triển tư duy,…

VIII. Kế hoạch thực hiện :
Thời gian Nội dung Biện pháp
Tháng 9 / 2009 - Nghiên cứu tài liệu - Đọc các tài liệu tham khảo phần phụ
lục, chọn các biện pháp thích hợp.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
- Tìm hiểu thực trạng - Khảo sát chất lượng giải toán có lời
văn, trao đổi với học sinh.
Tháng 10 đến
tháng 1 / 2009
Thực nghiệm theo các
biện pháp đề ra
Dạy thử nghiệm 1 số tiết dạy theo các
biện pháp đề ra.
Tháng1 / 2009 Hoàn chỉnh đề cương Viết nháp đề cương
Tháng 2 / 2010 Hoàn thành sáng kiến Đánh vi tính, trang trí
B- PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lý luận của đề tài:
a. Cơ sở khoa học:
Môn toán ở tiểu học, việc giải bài toán có lời văn có một vị trí quan trọng vì :
Các khái niệm, các quy tắc về toán nói chung đều được giảng giải thông qua ví
dụ bằng số và giải các bài toán; phần lớn nội dung sách giáo khoa là dành cho các bài
toán; kết quả học tập môn Toán của học sinh thường được đánh giá qua kĩ năng giải
các bài toán,…
Giải toán giúp học sinh hình thành, củng cố, vận dụng kiến thức, kĩ năng về

toán. Đồng thời qua giải toán, giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu
soát trong kiến thức, kĩ năng của học sinh để giúp các em phát huy những ưu điểm,
khắc phục thiếu sót.
Thông qua việc giải toán, với những đề tài thích hợp có thể giáo dục lòng yêu
nước, yêu đồng bào, giới thiệu cho các em thấy được nhiều mặt của thực tế đời sống
phong phú, ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch,…
Giải toán có tác dụng giáo dục các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu
đáo, làm việc có kế hoạch, thói quen tự kiểm tra công việc của mình, có óc độc lập
suy nghĩ, óc sáng tạo, phát triển tư duy,…
b. Cơ sở thực tiễn:
Trừ những trường hợp bệnh lí, người ta đã chứng minh rằng các học sinh phát
triển bình thường đều có khả năng tiếp thu chương trình toán và đạt các yêu cầu quy
định. Song trong thực tế, ở một lớp, số học sinh đạt kết quả thấp trong học toán còn
tương đối nhiều, nhất là giải toán có lời văn. Có nhiều nguyên nhân: sự phát triển
nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều, hoạt động tư duy có những nét
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
riêng đối với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước đó không đầy đủ, thiếu vững chắc,
thái độ học tập có nhiếu thiếu sót, sức khỏe chưa tốt, đời sống vật chất gặp nhiều khó
khăn, học tập ở nhà không được chú ý,…Tuy nhiên không nên chỉ thấy các nhược,
khuyết điểm về phía học sinh, mà không thấy nguyên nhân về phía giáo viên: nhịp độ
giảng dạy quá nhanh, phương pháp còn nhiều thiếu sót, chưa phù hợp, …
Những nguyên nhân trên tác động làm cho hứng thú học tập của học sinh kém,
học sinh thiếu tự tin, thiếu cố gắng vươn lên, kết quả học tập của học sinh không ổn
định. Muốn có một tiết dạy đạt hiệu quả như trên đòi hỏi người giáo viên phải có sự
đầu tư, nghiên cứu, tham khảo nội dung kiến thức cũng như các hình thức tổ chức, các
phương pháp thích hợp đối với từng tiết học cụ thể, mà vấn đề đặt ra ở đây là tìm
được biện pháp chung nhất có thể thường xuyên sử dụng giúp cho tiết học luôn sinh

động, nhẹ nhàng mà hiệu quả. Ở đây, tôi muốn đưa ra phương pháp giúp cho các em
nhớ lâu hơn, vừa phát triển tư duy làm cho các em hứng thú, ham tìm tòi, yêu thích
học toán có lời văn hơn, có như vậy thì hiệu quả không chỉ trước mắt ở trong trong tiết
học toán mà về mặt tổng thể sẽ giúp các em học tốt các môn học khác.
2. Thực trạng của vấn đề:
a) Đặc điểm tình hình lớp:
- Tổng số học sinh đầu năm: 34/20.
- Khảo sát chất lượng đầu năm học : 2009 – 2010:
Giỏi Khá Trung bình Yếu
4 10 15 5
b) Thuận lợi:
- Học sinh có đầy đủ tập vở, SGK, đồ dùng học tập.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học tương đối đầy đủ.
Lớp học tương đối thoáng mát.
- Hầu hết cha mẹ học sinh có quan tâm đến việc học tập của các em. Học sinh
tích cực tham gia học tập, chuyên cần chăm chỉ.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
- Ban Giám hiệu quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ sát sao về chuyên môn cũng như
các mặt hoạt động khác.
c) Khó khăn:
- Hoàn cảnh kinh tế một số em còn rất khó khăn có một số có sổ hộ nghèo.
- Một số em chưa được gia đình quan tâm sâu sát, một vài em còn lo ra, lười
học, khả năng tư duy, ghi nhớ, chú ý còn hạn chế.
- Học sinh chưa nắm vững trình tự giải toán có lời văn : đọc không kĩ yêu cầu
đề bài, chưa chú ý đến việc tóm tắt đề bài; chưa có kĩ năng phân tích đề toán, trình bày
bài giải chưa đúng yêu cầu; một số học sinh chưa đặt được lời giải, …
3. Các biện pháp đã thực hiện:

a) Xây dựng thái độ ham thích học toán cho học sinh :
a.1- Tạo ấn tượng đầu tiên:
Để tạo không khí nhẹ nhàng phấn khởi trong tiết học toán, người giáo viên
cần chuẩn bị kỹ càng những gì sẽ nói và làm trong những phút đầu tiên của tiết học.
Một trong bảy nguyên tắc giảng dạy và học tập tích cực là “Ấn tượng đầu tiên và cuối
cùng”; Nguyên tắc này nêu rõ “Học sinh có thể nhớ tốt những gì họ học đầu tiên và
cuối cùng trong cả trình tự học”. Do vậy, tôi rất chú ý phần giới thiệu bài vừa ngắn
gọn vừa gây sự chú ý tò mò cho học sinh, nhằm tạo sự hưng phấn ở học sinh trong
những phút đầu tiên của tiết học. Các em bước vào tiết học với tâm trạng phấn khởi,
nét mặt rạng ngời, ánh mắt long lanh chờ đợi, …
Ví dụ : Dạy bài : “Nhân với số có một chữ số”. Tôi giới thiệu : “Ở các tiết học
trước, các em đã được học phép cộng trừ nhiều số, hôm nay thầy và các em sẽ cùng
tìm hiểu cách thực hiện phép nhân với số có một chữ số, thầy mong rằng với bài học
này các em sẽ có cơ hội tính toán giúp cho cha mẹ khi cần thiết ở nhà”.
a.2- Tạo mối quan hệ thầy trò thật tốt :
Như chúng ta đã biết, ở lứa tuổi tiểu học, học sinh luôn xem giáo viên là thần
tượng của mình, những điều thầy cô làm, những gì thầy cô nói đều đúng và các em sẽ
tìm mọi cách bắt chước theo khả năng của mình (đây cũng là lợi thế lớn của các em
mà người giáo viên phải biết tận dụng). Đồng thời các em cũng rất thích được khen
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
ngợi (cả người lớn) dù rằng chỉ là một lời động viên. Do đó, trong các tiết học (không
chỉ môn toán) tôi luôn chú ý động viên khích lệ là chính, nhất là những đối tượng học
trung bình, yếu và hạn chế tối đa lời phê bình (những khi học sinh lo ra). Chính những
lời động viên khuyến khích kịp thời sẽ giúp các em phấn chấn, tâm trạng thoải mái
hơn, có như thế thì hiệu quả tiếp thu bài của các em tốt hơn và bầu không khí lớp học
sinh động hơn, tiết học thành công hơn.
a.3- Tạo bầu không khí vui tươi thoải mái trong lớp :

Trong suốt quá trình tiết học, nét mặt cử chỉ của tôi luôn tươi vui, biểu hiện sự
quan tâm đến tất cả các em trong lớp. Lời giảng giải không những rõ ràng dễ hiểu
chính xác mà đôi lúc còn cần phải xen những lời so sánh, ví von; thậm chí lúc học
sinh căng thẳng, mệt mỏi tôi cũng xen lời pha trò nhẹ nhàng thích hợp làm cho các em
bật cười, lúc đó không khí lớp học giãn ra, các em cảm thấy thoải mái, gần gũi với tôi
hơn; các em tỏ ra mạnh dạn, tự tin hơn trong phát biểu xây dựng bài cũng như làm
bài; cả lớp tập trung vào bài học tích cực hợp tác với tôi làm cho tiết học đạt hiệu quả
ngoài mong đợi.
b/ Đường lối chung để hướng dẫn học sinh giải một bài toán có lời văn :
Giải toán là hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp, hình thành kĩ năng giải toán
khó hơn nhiều so với kĩ xảo tính, vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái
niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu rồi áp dụng, mà đòi hỏi
nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi kĩ
năng độc lập suy luận và kĩ năng tính toán thông thạo của học sinh.
Để giúp học sinh thực hiện hoạt động trên có kết quả, cần làm cho các em nắm
được 4 bước khi giải toán, như sau :
Bước 1: Nghiên cứu kĩ đề bài :
Trước hết cần đọc cẩn thận đề toán, suy nghĩ về những điều đã cho của đề toán,
đặc biệt chú ý đến câu hỏi của bài toán. Chớ vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề.
Ở bước này tôi thường đưa hai câu hỏi : bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi cái gì ?
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 7
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Bước 2 : Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và cái phải tìm, cố gắng tóm
tắt nội dung bài toán bằng cách dùng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để ghi tóm tắt các
điều kiện; hoặc minh họa các điều kiện này bằng sơ đồ, hình vẽ.
Bước 3: Lập kế hoạch giải toán:
Suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán, cần biết gì, phải thực hiện phép
tính gì ? Suy nghĩ xem từ các số đã cho và điều kiện của bài toán, có thể biết gì, có thể

tính gì, phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không ?
Trên cơ sở đó, tôi hướng dẫn HS suy nghĩ để thiết lập trình tự giải bài toán.
Bước 4 : thực hiện các phép tính theo trình tự đã thiết lập để viết bài giải:
Sau mỗi bước giải cần kiểm tra xem đã tính đúng chưa, viết câu lời giải đã hợp
lí chưa ? Giải xong bài toán phải thử xem đáp số tìm ra có trả lời đúng câu hỏi của bài
toán, có phù hợp với điều kiện của bài toán không ? Sau đây là ví dụ minh họa mà tôi
hướng dẫn học sinh giải bài toán theo 4 bước:
VÍ DỤ 1
Xét bài toán sau : “Trong đợt quyên góp ủng hộ học sinh vùng lũ lụt, Trường
Tiểu học Thành Công quyên góp được 2476 quyển vở, số quyển vở Trường Tiểu học
Thành Công quyên góp gấp 2 lần số quyển vở của Trường Tiểu học Thắng Lợi. Hỏi cả
hai trường quyên góp được bao nhiêu quyển vở ?”
Bước 1: Đọc kĩ đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm, thông qua hai
câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi cái gì ? Ở đây bài toán cho 2 điều:
1) Trường Tiểu học Thành Công quyên góp được 2476 quyển vở.
2) Trường Tiểu học Thành Công quyên góp gấp 2 lần số quyển vở của Trường
Tiểu học Thắng Lợi.
Bài toán hỏi : Cả hai trường quyên góp được bao nhiêu quyển vở ?
Ở đây tôi hướng dẫn HS chú ý đến điều kiện thứ hai : Trường Thành Công
quyên góp gấp 2 lần số quyển vở của Trường Thắng Lợi có nghĩa là : Số quyển vở của
trường Thắng Lợi kém số quyển vở của Trường Thành Công 2 lần. Nếu chỉ đọc lướt
qua chữ “gấp 2” thì học sinh sẽ dễ dàng mắc sai lầm là đem 2476 nhân với 2 để tìm số
quyển vở của Trường Thắng Lợi.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 8
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Bước 2: Tóm tắt đề toán. 2476 quyển vở
Trường Thành Công:
Trường Thắng Lợi:

Học sinh có thể vẽ hình như trên để mô tả nội dung bài toán.
Ở đây, đoạn thẳng thứ nhất chỉ số quyển vở của Trường Tiểu học Thành Công :
2476 quyển vở.
Để mô tả điều kiện thứ hai ta chia đoạn thẳng thứ nhất thành hai phần bằng nhau
và vẽ đoạn thẳng thứ hai chỉ số quyển vở của Trường Tiểu học Thắng Lợi bằng một
phần.
Để mô tả câu hỏi của bài toán, ta vẽ dấu móc ôm lấy cả hai đoạn thẳng “Trường
Thành Công” và “Trường Thắng Lợi” kèm theo “dấu ?” ngụ ý phải tìm xem cả hai
trường quyên góp được bao nhiêu quyển vở ?
Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải. Tôi hướng dẫn HS suy nghĩ như sau:
1) Bài toán hỏi gì ? (cả hai trường quyên góp được bao nhiêu quyển vở ?)
2) Muốn tìm quyển vở của hai trường quyên góp được ta làm như thế nào ?
(Lấy số quyển vở của trường Thành Công cộng với số quyển vở của trường
Thắng Lợi).
3) Số quyển vở của trường Thành Công quyên góp biết chưa ? (Biết rồi)
4) Số quyển vở của trường Thắng Lợi quyên góp biết chưa ? (Chưa biết)
5) Muốn tìm số quyển vở của trường Thắng Lợi quyên góp, ta làm thế nào ?
(Lấy số quyển vở của trường Thành Công chia cho 2)
Thông thường có thể hướng dẫn học sinh diễn tả quá trình suy nghĩ trên bằng
một sơ đồ, ví dụ:
Hai trường
Thành Công + Thắng Lợi
Thành Công : 2
Ở sơ đồ trên có hai dấu “bằng” viết dọc:
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 9
? quyển vở
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
- Dấu “bằng” thứ nhất chỉ rõ cách tính số quyển vở của cả hai trường quyên góp

được.
- Dấu “bằng” thứ hai chỉ rõ cách tính số quyển vở của trường Thắng Lợi quyên
góp được.
Bước 4 : Dựa vào bước 3, ta đi ngược từ (5) lên (1) để thực hiện các phép tính
và viết bài giải: Bài giải
Số quyển vở Trường Tiểu học Thắng Lợi quyên góp được:
2476 : 2 = 1238 (quyển vở)
Số quyển vở cả hai trường quyên góp được:
2476 + 1238 = 3714 (quyển vở)
Đáp số : 3714 quyển vở.
Khi làm xong mỗi phép tính, ta có thể thử lại xem đã chắc chắn đúng chưa?
*Ví dụ:
- Muốn thử 2476 : 2 = 1238, ta tính 1238 x 2 xem có bằng 2476 không.
- Muốn thử 2476 + 1238 = 3714 ta tính 1238 + 2476 xem có bằng 3714; hoặc
tính 3714 – 1238 xem có bằng 3714 không ?
VÍ DỤ 2
Hướng dẫn học sinh giải bài toán sau : ‘Một đội công nhân phải sửa 852m
đường, Ngày đầu đội đó sửa được 240m đường. Ngày sau sửa hơn ngày đầu 22m. Hỏi
đội đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa ?’. Có thể giải theo 4 bước như sau :
Bước 1: Học sinh đọc kĩ đề và xác định cái đã cho và cái phải tìm.
Bước 2 : Tóm tắt đề :

Ngày đầu :
Ngày sau :
Còn : ? m
Bước 3: Hướng dẫn suy nghĩ tìm cách giải:
Hệ thống câu hỏi :
- Bài toán hỏi gì ? (Còn phải sửa bao nhiêu mét đường ?)
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 10

852m
22m
240m
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
- Muốn biết còn phải sửa bao nhiêu mét đường em làm thế nào ? (Lấy cả quãng
đường trừ đi số mét đường đã sửa).
- Độ dài cả quãng đường biết chưa ? (Biết rồi).
- Số mét đường đã sửa biết chưa ? (chưa biết). Muốn tìm số mét đường đã sửa
em làm sao ? (Lấy số mét đường đường sửa ngày đầu cộng với số mét đường sửa
ngày sau).
- Số mét đường sửa ngày đầu biết chưa ? (Biết rồi).
- Số mét đường sửa ngày sau biết chưa ? ( Chưa biết). Muốn tìm số mét đường
sửa ngày sau em làm sao ? (Lấy số mét đường sửa ngày đầu cộng với 22m).
Tôi hướng dẫn học sinh lập sơ đồ phân tích theo một trong hai cách sau :
Cách 1: Cách 2:
Còn lại
Cả quảng đường – đã sửa
Ngày đầu + Ngày sau
Ngày đầu + 22
Bước 4: Bài giải
Số mét đường ngày sau sửa được:
240 + 22 = 262 (m)
Số mét đường đã sửa là:
240 + 262 = 502 (m)
Số mét đường còn phải sửa là:
852 – 502 = 350 (m)
Đáp số : 350 m.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 11

Còn lại
Cả quãng
đường
Ngày
đầu
Ngày
sau
Đã sửa
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Khi hướng dẫn học sinh lập sơ đồ phân tích theo cách thứ hai thì tôi đổi vài từ
trong khi đàm thoại. Chẳng hạn: “Muốn tính xem cần phải sửa bao nhiêu mét đường
thì em dựa vào đâu ? (Độ dài cả quãng đường và độ dài đã sửa). Độ dài cả quãng
đường biết chưa ? (Biết rồi). Độ dài đã sửa biết chưa ? (Chưa). Muốn tính độ dài đã
sửa em dựa vào đâu ? (….)v.v…
- Trong sơ đồ phân tích nếu gặp bài toán điển hình : Tìm hai số khi biết tổng và
hiệu của hai số đó, tìm hai số khi biết tổng hoặc hiệu và tỉ số của hai số đó (đã có “quy
tắc” giải thì tôi hướng dẫn học sinh trình bày như sau:
- Chẳng hạn, xét bài toán: “Một nền nhà hình chữ nhật có chu vi 24m. Chiều dài
hơn chiều rộng 2m. Biết rằng mỗi viên gạch bông hình vuông có cạnh dài 20 cm. Hãy
tính số gạch bông cần dùng để lát nền nhà đó ?
Sơ đồ phân tích :
Số gạch
Diện tích nền nhà : Diện tích 1 viên gạch
Dài x rộng Cạnh x cạnh
Hiệu
Tổng

Chu vi : 2
Hoặc : Số gạch

S (nền) : S (1viên)
D R Cạnh x cạnh
D - R
D + R

P
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 12
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Khi hướng dẫn học sinh suy nghĩ để tìm ra cách giải bài toán theo 4 bước nêu
trên, tôi thường chuyển từ hình thức đàm thoại thông thường ( thầy hỏi, trò trả lời).
sang hình thức đàm thoai “Bút đàm”, trong đó, giáo viên nêu câu hỏi dưới dạng một
lệnh làm việc, còn học sinh trả lời giáo viên bằng cách dùng bút (phấn) ghi trên giấy
(bảng con). Với cách dạy này chắc chắn tất cả học sinh đều phải suy nghĩ, làm việc,
hiệu quả sẽ cao hơn.
Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh suy nghĩ cách giải bài toán “Một cửa hàng tuần
đầu bán được 319m vải, tuần sau bán được nhiều hơn tuần đầu 76m. Hỏi trong hai
tuần đó, trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải, biết rằng cửa
hàng mở cửa tất cả các ngày trong tuần ?”. Tôi thực hiện hình thức đàm thoai “Bút
đàm”như sau :
- Bài toán hỏi gì ? (Hỏi trong hai tuần đó, trung bình mỗi ngày cửa hàng bán
được bao nhiêu mét vải?)
- Hãy viết cách tính trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được số mét vải! (học
sinh ghi): Tbình mỗi ngày
(Ngày đầu + ngày thứ hai) : số ngày bán
- Ngày đầu bán bao nhiêu mét vải biết chưa ? (Biết rồi)
- Ngày thứ hai bán bao nhiêu mét vải biết chưa ? (Chưa biết)
- Hãy viết cách tính số mét vải ngày thứ hai ! (Học sinh ghi tiếp)
Ngày thứ hai

Ngày đầu + 76
- Số ngày bán biết chưa ? (chưa biết)
- Hãy viết cách tính số ngày bán ! (Học sinh ghi tiếp)
Số ngày bán
Số ngày 1 tuần x số tuần
để có sơ đồ :
Tbình mỗi ngày
(Ngày đầu + ngày thứ hai) : số ngày bán
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 13
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Ngày đầu + 76 Số ngày 1 tuần x số tuần
Thực hiện như thế, học sinh nào không chịu suy nghĩ (lập sơ đồ) là tôi biết
ngay để nhắc nhở, học sinh nào cố gắng suy nghĩ (lập sơ đồ) nhưng lúng túng, tôi có
thể phát hiện được để giúp đỡ nhằm rèn cho tất cả học sinh tích cực làm việc, có kĩ
năng suy nghĩ độc lập giải bài toán theo 4 bước đạt hiệu quả cao.
c) Những quy định về hình thức trình bày một bài giải toán :
Tôi hướng dẫn cho học sinh phải ghi cho mỗi phép tính một câu lời giải:
Ví dụ : Số bông hoa của Hằng cắt là:
8 + 6 = 14 (bông hoa)
Số bông hoa của cả hai bạn cắt là:
13 + 8 = 21 (bông hoa)
Tôi không cho học sinh trình bày bài giải bằng các phép tính gộp theo kiểu :
Số bông hoa của cả hai bạn cắt là:
(8 + 6 ) + 7 = 21 (bông hoa)
Vì việc sử dụng tính gộp tràn lan sẽ làm hạn chế khả năng diễn đạt của học
sinh. Thường thì tôi chỉ cho học sinh dùng phép tính gộp khi đã có sẵn các quy tắc
tính toán hoặc khi mà việc trình bày bài giải bằng các phép tính “đơn” khó đặt lời giải.
Ví dụ 1 : Khi phải tìm chu vi hình chữ nhật, vì đã có sẵn quy tắc nên có thể giải

bằng phép tính gộp theo kiểu : “Chu vi lớp học là :
(8 + 6) x 2 = 28 (m)”
Ví dụ 2 : Khi giải bài toán “ Một chiếc cầu gồm 4 nhịp ngắn dài bằng nhau và
một nhịp ở chính giữa dài hơn mỗi nhịp ngắn 18m. biết rằng cả chiếc cầu dài 258m.
hãy tính chiều dài của nhịp ở chính giữa.”; có thể dùng tính gộp để trình bày bước
tính độ dài của mỗi nhịp ngắn (Để tránh lập luận phiền phức trong các câu lời giải,
nếu dùng phép tính đơn) như sau:
Độ dài của mỗi nhịp ngắn là :
(258 – 18) : (4 +1) = 50 (m)
Khi viết phép tính giải, tôi hướng dẫn học sinh không cần phải ghi các phép tính
trung gian mà chỉ cần ghi kết quả. Ví dụ chỉ cần viết :
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 14
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn

12
17
3
2
4
3
=+
(quãng đường)
Không cần viết :
12
17
12
8
12

9
3
2
4
3
=+=+
(quãng đường)
d) Hướng dẫn đặt câu lời giải
Các câu lời giải nhằm giải thích ý nghĩa cho kết quả của phép tính giải tương ứng
Lúc học sinh “bắt đầu phải viết câu lời giải cho mỗi phép tính” tôi chú ý luyện tập cho
học sinh tính cẩn thận.
Trước tiên tôi tập cho học sinh đặt lời giải cho các bài toán đơn. Tôi lưu ý học
sinh là “nên dựa vào câu hỏi của bài toán mà đặt lời giải”. Chẳng hạn với bài toán đơn
“Lớp Bốn A có 34 học sinh, lớp BốnB nhiều hơn lớp Bốn A 5 học sinh. Hỏi lớp Bốn
B có bao nhiêu học sinh ?” Tôi hướng dẫn học sinh sửa lại câu hỏi của bài toán một
chút bằng cách bỏ chữ “bao nhiêu” thay bằng chữ “số” là được câu lời giải : Số học
sinh lớp Bốn B có là:”
Khi học sinh đặt lời giải cho các bài toán đơn đã thành thạo, tôi hướng hướng dẫn
học sinh tập đặt câu lời giải với những bài toán hợp đơn giản. Tôi hướng dẫn như sau:
Thoạt đầu, tôi cho học sinh viết bài giải theo lối chỉ có các phép tính, mà chưa có
câu lời giải, nhưng bên trên mỗi phép tính có để trống một dòng. Chẳng hạn, với bài
toán: “Lan có 7 cái kẹo, Minh có nhiều hơn Lan 5 cái kẹo. Hỏi cả hai bạn có bao
nhiêu cái kẹo ?”, thì lúc đầu nên trình bày theo kiểu:
Bài giải
………………………………………
7 + 5 = 12 (cái kẹo)
………………………………………
7 + 12 = 19 ( cái kẹo)
Đáp số ; 19 cái kẹo.
Sau đó, tôi chỉ vào chỗ “12 (cái kẹo)” và hỏi: “12 cái kẹo này là gì?” (là số kẹo

của Minh). Tôi nói và viết: “Vậy ta ghi vào đây (tay chỉ vào dòng trống thứ nhất): Số
kẹo của Minh là:”
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 15
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Tiếp theo tôi chỉ vào chỗ “19 (cái kẹo)” và hỏi: “số 19 này chỉ cái gì? (chỉ số kẹo
của hai bạn). Vậy ta viết vào đây (tôi viết vào dòng trống thứ hai): “Số kẹo của hai
bạn là:”
Đối với một số bài toán, tôi hướng dẫn học sinh dựa vào sơ đồ phân tích đề toán
để vừa viết các câu lời giải vừa ghi các phép tính giải. Chẳng hạn với bài toán : “Một
cửa hàng bán vải trong ba ngày. Ngày đầu bán được 98m, ngày thứ hai bán được hơn
ngày đầu 5m nhưng kém ngày thứ ba 5m. Hỏi trung bình mỗi ngày cửa hàng đó bán
được bao nhiêu mét vải ?”, sau khi lập được sơ đồ phân tích đề toán:
Trung bình mỗi ngày
Suy ( Ngày đầu + Ngày thứ hai + Ngày thứ ba) : 3 Giải
nghĩ
Ngày đầu + 5 Ngày thứ hai + 5

Tôi hướng dẫn học sinh đi ngược lại để giải bài toán:
- Nhìn vào chỗ “ngày đầu + 5” ta thay số vào để tính :
98 + 5 = 103 (m)
- Nhìn vào phía trên dấu “bằng” thấy có chữ “Ngày thứ hai”, ta viết câu
lời giải cho phép tính trên : “Ngày thứ hai cửa hàng bán được là:”
- Nhìn tiếp sang chỗ : “Ngày thứ hai + 5”, ta thay số vào để tính :
103 + 5 = 108 (m)
- Nhìn vào phía trên dấu “bằng” thấy có chữ “Ngày thứ ba”, ta viết câu
lời giải cho phép tính trên: “Ngày thứ ba cửa hàng bán được là:”
- Nhìn lên phía trên hai dấu “bằng” thấy có chữ :
“ (Ngày đầu + Ngày thứ hai + Ngày thứ ba) : 3 ”, ta thay số vào để tính :

(98 + 103 + 108) : 3 = 102 (m)
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 16
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
- Nhìn lên phía trên dấu “bằng” thấy có chữ :“Trung bình mỗi ngày”, ta
viết câu lời giải cho phép tính trên: “ Trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được là:”
- Cuối cùng ta được bài giải đầy đủ gồm các câu lời giải, các phép tính và
đáp số.
e) Các phương pháp tóm tắt đề toán :
Dùng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn để tóm tắt đề toán là cách
rất tốt để diễn tả một cách trực quan các điều kiện của bài toán. Nó giúp ta tước bỏ
những cái không bản chất (tức những yếu tố phi toán) mà tập trung chú ý vào cái bản
chất (cấu trúc) toán học của đề toán. Nhờ đó mà học sinh có thể nhìn bao quát được
toàn bộ bài toán để tìm ra sự liên hệ giữa các đại lượng trong đó. Điều này sẽ giúp làm
cho nội dung bài toán bộc lộ rõ rệt hơn trước mắt học sinh, gợi ý cho các em con
đường đi đến cách giải.
Sau đây là một số cách tóm tắt đề toán mà tôi thường hướng dẫn học sinh:
e.1) Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng :
Đây là cách hay dùng nhất hiện nay,. Trong đó ta dùng các đoạn thẳng để biểu
thị các số đã cho, số phải tìm và quan hệ toán học trong đề toán.
Ví dụ :Tuổi chị và tuổi em cộng lại được 36 tuổi. Em kém chị 8 tuổi. Hỏi chị
bao nhiêu tuổi, em bào nhiêu tuổi ?
Có thể tóm tắt bài toán này như sau :
Chị :
Em :
e.2) Tóm tắt đề toán bằng hình vẽ tượng trưng :
Phương pháp tóm tắt bằng sơ đồ “đoạn thẳng” nói trên có ưu điểm là :
- Dễ vẽ hình.
- Dễ chia cắt thành các phần nhỏ.

- Dễ ghi các số liệu tương ứng vào sơ đồ.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 17
36 tuổi
? tuổi
? tuổi
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Tuy nhiên tính trực quan chưa thật cao. Bởi vì các đoạn thẳng cứ na ná giống
nhau, khó phân biệt đoạn thẳng biểu thị đối tượng này với đoạn thẳng biểu thị đối
tượng khác.
Do đó có thể thay thế các đoạn thẳng bằng các hình vẽ như : v. v…
để dễ phân biệt đối tượng này với đối tượng kia. Ta gọi chúng là các hình tượng trưng.
Ta quy ước: “Nếu bên trong các hình không có ghi số thì các hình giống nhau biểu thị
cùng một đại lượng (có cùng giá trị)”.
Ví dụ : Bài toán : Vừa gà vừa chó
Bó lại cho tròn
Ba mươi sáu con
Một trăm chân chẵn
Hỏi có bao nhiêu con gà, bao nhiêu con chó ?
Có thể tóm tắt như sau :
Biểu thị  là số gà thì số chân gà là  
Biểu thị  là số chó thì số chân chó là    
Ta có sơ đồ tóm tắt bài toán :
 
   
36 con 36 con
e.3) Tóm tắt đề toán bằng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn :
Không phải bài toán nào cũng có thể tóm tắt một cách tiện lợi bằng đoạn thẳng
và hình tượng trưng như tôi trình bày ở trên. Còn có một hình thức tóm tắt tôi rất hay

dùng để hướng dẫn HS là dùng ngôn ngữ kí hiệu vắn tắt, ngắn gọn. Thực chất đây là
cách viết tắt các ý chính chủ yếu của đề toán; phối hợp dùng các dấu móc
để kết hợp các điều kiện ; dùng mũi tên , dấu “ : ” , hoặc dấu gạch ngang , để
chỉ sự tương ứng của các số liệu; dùng dấu sổ thẳng để phân chia cái đã cho và cái
phải tìm.
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 18
100 chân
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Ví dụ 1: Bài toán “Một huyện ở miền núi có 8 xã vùng thấp và 9 xã vùng cao.
Mỗi xã vùng thấp được cấp 850 quyển truyện, mỗi xã vùng cao được cấp 980 quyển
truyện. Hỏi huyện đó được cấp bao nhiêu quyển truyện ? ”, có thể tóm tắt như sau :
1 xã : 850 quyển truyện
8 xã : ? quyển truyện
1 xã : 980 quyển truyện
9 xã : ? quyển truyện
Ví dụ 2 : Bài toán “Để trồng cây gây rừng, xã A cử 225 người đi, xã B cử ít
hơn xã A 48 người, xã C cử số người bằng tổng của hai xã A và B. Hỏi trung bình mỗi
xã cử bao nhiêu người đi trồng cây ?”, có thể tóm tắt như sau :
Xã A : 225 người
Xã B : kém A 48 người
Cho
Xã C
Hỏi Trung bình 1 xã : ? người
* Khi tóm tắt đề toán tôi chú ý :
- Tóm tắt thật ngắn gọn, miễn sao học sinh có thể nhìn tóm tắt mà nhắc lại đúng
đề toán là được.
- Tùy theo trình độ học sinh thấp hay cao mà dùng cách tóm tắt mang nhiều hay
ít tính trực quan.

- Luôn quan tâm đến việc dựa vào tóm tắt đề toán để hướng dẫn học sinh suy
nghĩ tìm cách giải.
4. Kết quả :
Với những biện pháp thực hiện đề ra tôi đã trình bày ở trên, kĩ năng giải toán có
lời văn của học sinh lớp tôi ngày càng được nâng cao: học sinh biết vận dụng kĩ năng
giải bài toán có lời văn theo 4 bước để giải bất cứ các dạng toán có lời văn, kể cả các
loại toán điển hình có trong chương trình lớp bốn, biết tóm tắt đề toán bằng nhiều hình
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 19
Vùng thấp
Vùng cao
? quyển vở
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
thức, trình bài bài giải rõ ràng, đặt câu lời giải rõ ràng, chính xác, chất lương môn toán
được nâng cao.
Kết quả thi chất lượng giữa kì I, học kì I như sau:
THỜI GIAN Giỏi Khá Trung bình Yếu
GIỮA KÌ I 18 14 1 0
CUỐI KÌ I 20 13 1 0
5. Bài học kinh nghiệm:
Qua nhiều năm giảng dạy lớp Bốn và có dịp nghiên cứu phương pháp dạy học
môn Toán ở Tiểu học, bản thân rút ra được một vài nhận định như sau:
+ Môn Toán bản thân nó là môn học khó lại vừa khô khan đối với HS, nhất là
nội dung giải toán có lời văn. Nếu không gây được sự hứng thú trong tiết học Toán thì
chất lượng của tiết học sẽ rất thấp.
+ Để tiết toán đạt hiệu quả cao và tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động đòi
hỏi người GV phải có sự đầu tư thiết kế bài học ở mức độ cao nhất, phải biết cách tổ
chức và có nghệ thuật sư phạm để lôi cuốn HS tham gia tích cực chủ động trong từng
hoạt động cụ thể, nhất là nội dung giải toán có lời văn.

+ Người GV phải là người thật yêu nghề mến trẻ, nắm bắt được đặc điểm tâm
sinh lý, hoàn cảnh của từng đối tượng HS. Người GV phải có sự nghiên cứu kỹ nội
dung, ý đồ, yêu cầu của từng bài cụ thể để có phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học phù hợp.
+ Người GV phải không ngừng học tập, trau dồi trình độ nghiệp vụ tay nghề,
cải tiến phương pháp theo hướng đổi mới phù hợp với tình hình thực tế địa phương,
trường lớp.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại để gây được sự hứng thú, niềm say mê học tập giải toán có lời văn của
HS, đồng thời tiết dạy thật sự thoải mái, nhẹ nhàng và hiệu quả đòi hỏi người GV phải
luôn suy nghĩ, tìm tòi học hỏi, không ngừng cải tiến phương pháp đề ra các biện pháp
dạy học phù hợp với từng nội dung tiết học; từ đó nâng dần chất lượng giải toán có lời
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 20
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
văn và môn toán cho HS ở lớp 4 nói riêng và ở tiểu học nói chung. Hy vọng với kinh
nghiệm nho nhỏ nêu trên của mình sẽ góp phần cho việc làm phong phú thêm cho quý
đồng nghiệp tham khảo. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp.
Chân thành cảm ơn.
Mỹ Tho, Ngày 22 tháng 2 năm 2010

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Sách giáo khoa Toán, 4
 Sách giáo viên Toán 4
 Các tư liệu tham khảo trên các tập san giáo dục
 Các tài liệu của cá lớp học bồi dưỡng chuyên môn cho giáo v iên
 Công tác dạy học ngày nay – Bộ công cụ của người giáo viên
 Bảy nguyên tắc giảng dạy và học tập tích cực (Dự án WOB)

 Toán và phương pháp dạy toán ở tiểu học – Tài liệu đào tạo giáo viên tiểu học
 Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Toán và
Tiếng Việt ở Tiểu học của Bộ
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 21
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn lớp Bốn
Trường Tiểu học Thái Sanh Hạnh
Trang 22

×