Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Báo cáo tham vấn cộng đồng đóng góp ý kiến cho dự thảo luật đầu tư công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 70 trang )

LỜI CẢM ƠN
Báo cáo tham vấn và khuyến nghị Luật này được hoàn thành bởi nỗ lực chung
của nhiều cá nhân và tổ chức.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các cấp chính quyền và người dân
các xã Quy Hậu và Thanh Hối huyện Tân Lạc, xã Đồng Tâm và Khoan Dụ huyện
Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; phường Bà Triệu và xã Lộc Hòa thành phố Nam Định,
xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định; xã Triệu Nguyên và thị trấn
Kroong –Klang huyện Đakrông, thành phố Đông Hà tỉnh Quảng trị; xã Láng Dài
huyện Đất Đỏ, xã Xuyên Mộc và Phước Bửu huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu; đã tham gia nhiệt tình trong các buổi tham vấn, chia sẻ những câu
chuyện thực tế và đóng góp những ý kiến quan trọng cho Dự thảo Luật Đầu tư
công.
Chúng tôi xin chân thành cám ơn các chuyên gia và các tổ chức đã hỗ trợ tiến
trình tham vấn từ bước thiết kế mục tiêu, nội dung, phương pháp và kế hoạch
triển khai tham vấn và tổng hợp kết quả tham vấn, phân tích và xây dựng các
khuyến nghị Luật. Chúng tôi đặc biệt cám ơn Ủy ban tài chính ngân sách của
Quốc hội đã hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện tham vấn ở các tỉnh.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự cam kết và nỗ lực của các tổ chức tham gia
phối hợp thực hiện tham vấn ở các tỉnh như Hội Nông dân Hòa Bình, Hội phụ nữ
Quảng Trị và tổ chức Hữu nghị Cộng Đồng Nam Định và Sở tài chính tỉnh Vũng
Tàu.
Chúng tôi cũng đặc biệt cảm ơn nhóm chuyên gia tham gia tổng hợp, phân tích
thông tin và viết báo cáo, bao gồm PGS TS Hoàng Thị Thúy Nguyệt (Học viện Tài
chính), Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Anh (Vụ Pháp chế Thanh tra Chính phủ), Thạc Sĩ
Nguyễn Bích Tâm và Thạc sĩ Đỗ Thị Bích Thủy (Trung tâm nâng cao năng lực
cộng đồng- CECEM), Thạc sĩ Nguyễn Thu Hương và Lê Thị Ngọc Liên (tổ chức
Oxfam tại Việt Nam). Những người đã nỗ lực tổng hợp những ý kiến khuyến nghị
của người dân, phân tích các văn bản pháp luật có liên quan và xây dựng những
khuyến nghị cụ thể cho Dự thảo Luật đầu tư công, dự kiến sẽ được đưa ra thảo
luận và phê duyệt tại kỳ họp Quốc hội thứ VII, tháng 5 năm 2014.


Chúng tôi cũng đánh giá cao các ý kiến đóng góp của các chuyên gia TS Đoàn
Hồng Quang (Ngân hàng Thế giới), TS Tô Trung Thành (Trường Đại học Kinh Tế
Quốc Dân) và một số chuyên gia khác, đã giúp hoàn thiện hơn báo cáo này.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2014
LỜI GIỚI THIỆU
Báo cáo Tổng hợp kết quả tham vấn cộng đồng và góp ý cho Dự thảo Luật đầu tư
công được xây dựng từ việc tổng hợp và phân tích thông tin thu thập từ tiến trình
tham vấn cộng đồng về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham
gia của người dân trong quy trình ngân sách, trong đó có thu thập những thông
tin về các công trình đầu tư công sử dụng ngân sách nhà nước.
Báo cáo nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách có thêm các bằng chứng và
căn cứ vững chắc để tiếp tục bổ sung, sửa đổi một số nội dung trong Dự thảo
Luật đầu tư công, liên quan tới:
 Công khai minh bạch các thông tin về các hoạt động đầu tư công
 Trách nhiệm giải trình về các các hoạt động đầu tư công
 Sự tham gia của người dân trong các hoạt động đầu tư công
Báo cáo được xây dựng trên cơ sở kết quả tham vấn người dân và chính quyền
địa phương tại các tỉnh Hòa Bình, Nam Định, Quảng trị và Vũng Tàu và do sáu tổ
chức thực hiện, gồm Trung tâm Hành động Phát triển vì Cộng đồng (ACDC),
Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI), Trung tâm Nâng cao Năng lực Cộng
đồng (CECEM), Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao Năng lực cho Phụ nữ
(CEPEW), Nhóm hợp tác Thúc đẩy Quản trị và Cải cách Hành chính công
(GPAR) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam, với sự hỗ trợ của Ủy ban tài chính ngân
sách của Quốc hội.
Nội dung Báo cáo gồm sáu phần chính: i) Giới thiệu chung; ii) Tổng hợp và phân
tích kết quả tham vấn cộng đồng; iii) Khuyến nghị của cộng đồng và nhóm tham
vấn; iv) Nhận diện vấn đề và nguyên nhân; v) Khuyến nghị Dự thảo Luật đầu tư
công dựa trên kết quả tham vấn cộng đồng; vi) Kết luận.
Hoạt động tham vấn cộng đồng này đã phản ánh chân thực những trải nghiệm và
nguyện vọng sâu sắc của người dân tại các địa phương nơi tiến hành tham vấn

đối với các hoạt động đầu tư công. Vì vậy, những khuyến nghị đưa ra trong Báo
cáo được mong đợi là sẽ giúp các Đại biểu Quốc hội và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật đầu tư công trong quá trình
thảo luận và thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII. Việc phản ánh trung
thực tâm tư, nguyện vọng của người dân sẽ là một trong các điều kiện tiên quyết
để Luật đầu tư công sau khi được thông qua có thể đi vào cuộc sống và có tính
khả thi cao.


M
M


C
C


L
L


C
C


CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG 2
1.1. Bối cảnh 2
1.2. Giới thiệu về đợt tham vấn 2
1.3. Phạm vi và Hạn chế của báo cáo 4

PHẦN II: TÓM TẮT CÁC PHÁT HIỆN TỪ THAM VẤN CỘNG ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẦU TƯ CÔNG 6
2.1. Có sự khác nhau trong việc công khai minh bạch thông tin giữa các chương trình dự
án đầu tư công 100% vốn Ngân sách nhà nước và những công trình “Nhà nước và nhân
dân cùng làm” 6
2.2. Người dân thiếu các thông tin về người hay cơ quan chịu trách nhiệm giải trình về
các công trình đầu tư công tại địa phương 7
2.3. Công trình đầu tư công, đặc biệt các công trình sử dụng 100% ngân sách nhà nước
chưa khuyến khích và có cơ chế phù hợp để có được sự tham gia một cách hiệu quả của
người dân. 8
2.4. Các cơ quan, tổ chức đại diện cho người dân (Ban GSCĐ, MTTQ, HĐND) chưa phát
huy hiệu quả vai trò đại diện cho người dân trong các quyết định đầu tư công và giám sát
thực hiện đầu tư công 9
2.5 Các công trình, chương trình không có sự tham gia của người dân dẫn đến không
hiệu quả và lãng phí, không đáp ứng đúng nhu cầu và hoàn cảnh thực tế tại địa phương,
thậm chí gây thiệt hại cho người dân 11
2.6. Người dân mong muốn được cung cấp thông tin, được lấy ý kiến và tham gia giám
sát các công trình đầu tư công ở địa phương nơi họ sinh sống 13
2.7. Sự tham gia của người dân vào các công trình đầu tư công (lập kế hoạch, xây dựng
dự toán, thiết kế, giám sát thực hiện) góp phần mang lại sự hài lòng của người dân và
đảm bảo hiệu quả đầu tư công 14
PHẦN III: CÁC KHUYẾN NGHỊ TỪ CỘNG ĐỒNG VÀ NHÓM THAM VẤN 17
3.1. Khuyến nghị của cộng đồng 17
3.2. Kết luận và khuyến nghị của nhóm tham vấn 18
PHẦN IV: NHẬN DIỆN VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN NHÂN 20
4.1. Vấn đề 1: Tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công còn hạn chế, chưa
bảo đảm sự tham gia của người dân, dẫn đến còn tình trạng đầu tư lãng phí, chưa đáp
ứng được nhu cầu của người dân. 20
4.2. Vấn đề 2: Trách nhiệm giải trình trong các hoạt động đầu tư công chưa rõ ràng để
làm căn cứ cụ thể hóa trách nhiệm của từng chủ thể có thẩm quyền. 24

4.3. Vấn đề 3: Người dân chưa tham gia một cách thực chất và có hiệu quả vào các hoạt
động đầu tư công; hoạt động của các ban giám sát đầu tư cộng đồng còn hình thức. 27

PHẦN V: KHUYẾN NGHỊ VỀ DỰ THẢO LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG DỰA TRÊN KẾT QUẢ
THAM VẤN CỘNG ĐỒNG 30
5.1 Mục tiêu 1: Mở rộng phạm vi, nội dung và hình thức thực hiện công khai, minh bạch
trong đầu tư công nhằm bảo đảm sự tham gia của người dân. 30
5.2. Mục tiêu 2: Tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác trong các hoạt
động đầu tư công. 37
5.3. Mục tiêu 3: Quy định rõ phương thức và các biện pháp bảo đảm sự tham gia của
người dân vào các hoạt động đầu tư công. 39
PHẦN VI: KẾT LUẬN 46
PHỤ LỤC BÁO CÁO 49
A. Các câu chuyện điển hình về các công trình đầu tư công có người dân tham gia quản
lý nên đạt hiệu quả sử dụng cao 49
B. Các câu chuyện điển hình về đầu tư công không có sự tham gia của người dân dẫn
đến việc đầu tư lãng phí, không hiệu quả, không đáp ứng nhu cầu cộng đồng, thậm chí
ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng. 57


1
C
C
Á
Á
C
C



C
C
H
H




V
V
I
I


T
T


T
T


T
T



ACDC Trung tâm Hành động Phát triển vì Cộng đồng
CDI Trung tâm Phát triển và Hội nhập
CECEM Trung tâm Nâng cao Năng lực Cộng đồng

CEPEW Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục và Nâng cao Năng lực cho Phụ nữ
GPAR Nhóm hợp tác Thúc đẩy Quản trị và Cải cách Hành chính công
GSĐTCĐ Giám sát đầu tư cộng đồng
UBND Ủy ban Nhân dân
HĐND Hội đồng Nhân dân
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
NSNN Ngân sách nhà nước
PCTN Phòng chống tham nhũng
PTKTXH Phát triển kinh tế - xã hội


2
P
P
H
H


N
N


I
I
:
:


G
G

I
I


I
I


T
T
H
H
I
I


U
U


C
C
H
H
U
U
N
N
G
G



1.1. Bối cảnh
Trong thời gian qua, dự thảo Luật đầu tư công được xây dựng, lấy ý kiến của
nhân dân, được Quốc hội khóa XIII cho ý kiến tại kỳ họp thứ sáu và tiếp tục
thảo luận, thông qua tại kỳ họp thứ bảy diễn ra tại Hà Nội từ ngày 20/5 đến
24/6 năm 2014.
Từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2014 một nhóm các tổ chức phát triển Việt Nam
bao gồm ACDC, CECEM, CDI, GPAR, CEFEW và Oxfam tại Việt Nam được
sự hỗ trợ của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội khóa XIII, đã tiến
hành đợt tham vấn người dân nhằm thu thập ý kiến từ người dân và chính
quyền địa phương về thực thi Luật ngân sách nhà nước 2002, tập trung vào
một số nội dung: công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự tham gia của
các bên liên quan và người dân trong qui trình ngân sách, bao gồm việc quản
lý và sử dụng ngân sách của các công trình đầu tư công, nhằm đóng góp ý
kiến cho việc sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước. Trong quá trình tham vấn
này, chúng tôi đã phát hiện, thu thập được nhiều ý kiến và câu chuyện điển
hình từ người dân liên quan đến các công trình đầu tư công.
Với mong muốn góp phần bảo đảm Luật đầu tư công sau khi được thông qua
sẽ thực sự đóng góp vào nâng cao hiệu quả đầu tư công, chống lãng phí thất
thoát, nhóm các tổ chức thực hiện tham vấn và nhóm chuyên gia đã cùng
nhau viết một bản báo cáo để chia sẻ những phát hiện, ý kiến và câu chuyện
nói trên, đồng thời đưa ra các khuyến nghị liên quan đến tăng cường công
khai minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân trong các
hoạt động đầu tư công.
1.2. Giới thiệu về đợt tham vấn
Mục đích của đợt tham vấn
Tham vấn cộng đồng hướng đến việc thực hiện hai mục đích sau:
i. Cung cấp bằng chứng từ các câu chuyện thực tế của người dân và chính
quyền địa phương để hỗ trợ cho các khuyến nghị về:

Sự tham gia của ngƣời dân, trực tiếp hoặc gián tiếp qua các cơ quan
tổ chức đại diện, vào quản lý ngân sách, trong đó bao gồm các công
trình đầu tƣ công
 Cơ chế để người dân tham gia giám sát ngân sách và các công trình
đầu tư công.
 Đảm bảo công khai minh bạch thông qua việc cung cấp thông tin phù
hợp và đưa ra cơ chế để người dân được giải đáp các thắc mắc liên

3
quan đến ngân sách và các công trình đầu tư công trên địa bàn sinh
sống của họ.
ii. Góp phần thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đảm bảo quyền tham gia của
người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, trong xây dựng luật pháp chính
sách nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của họ.
Nội dung tham vấn
 Công khai minh bạch các thông tin về ngân sách nhà nước, bao gồm các
chương trình dự án đầu tư công
 Trách nhiệm giải trình trong quy trình ngân sách nhà nước, bao gồm đối
với các chương trình dự án đầu tư công
 Sự tham gia của người dân trong quy trình ngân sách nhà nước và các
hoạt động đầu tư công
Phạm vi thực hiện tham vấn
Tham vấn cộng đồng được thực hiện tại 4 tỉnh: Hòa Bình, Nam Định, Quảng
Trị, Bà Rịa – Vũng Tàu. Tại mỗi tỉnh, hoạt động tham vấn được tiến hành tại
cấp tỉnh, cấp huyện (2 huyện) và cấp xã (3 – 4 xã thuộc 2 huyện).
Tổng số người được tham vấn trực tiếp là 350 người bao gồm người dân và
các cán bộ UBND, HĐND, MTTQ, các tổ chức đoàn thể, xã hội ở ba cấp tỉnh,
huyện, xã.
Đã có khoảng 40 công trình đầu tư công ở các địa phương tham vấn được
khảo sát, trong đó thông tin thu thập từ 19 công trình được tổng hợp dưới

dạng câu chuyện, được đính kèm trong phần Phụ lục của báo cáo này.
Phƣơng pháp tham vấn
Tham vấn cộng đồng kết hợp hai phương pháp Tham vấn trực tiếp với cộng
đồng và Lấy ý kiến chuyên gia. Tham vấn trực tiếp được sử dụng để nghe và
ghi lại các câu chuyện thực tế và điển hình liên quan đến quản lý và sử dụng
ngân sách, đặc biệt sử dụng ngân sách của các công trình đầu tư công. Ý
kiến chuyên gia được sử dụng khi nghiên cứu một số tài liệu thứ cấp nhằm
thiết kế mục tiêu, nội dung, phương pháp và kế hoạch triển khai tham vấn
cũng như phân tích các câu chuyện và tình huống điển hình để xác định
những điểm chưa hợp lý, bất cập trong các quy định của văn bản pháp luật
liên quan đến quản lý ngân sách và hoạt động đầu tư công - nguyên nhân
dẫn đến những vấn đề được cộng đồng phản ánh, sau đó đối chiếu với những
điều chỉnh trong Dự thảo Luật ngân sách nhà nước sửa đổi và Dự thảo Luật
đầu tư công để đưa ra những kiến nghị cụ thể.
Báo cáo này chỉ tập trung vào những thông tin, phân tích và khuyến nghị liên
quan đến Dự thảo Luật đầu tư công. Một báo khác cũng được xây dựng với
các thông tin, phân tích và khuyến nghị liên quan trực tiếp đến Dự thảo Luật
ngân sách nhà nước sửa đổi.

4
Các hoạt động tham vấn trực tiếp được thử nghiệm tại một tỉnh (Nam Định),
sau đó được điều chỉnh về mặt phương pháp và nội dung, và triển khai rộng
trên 4 tỉnh. Quá trình được thực hiện bắt đầu từ cấp tỉnh, sau đó triển khai tới
cấp huyện và xã. Cách làm này cho phép nhóm tham vấn tìm hiểu các thông
tin chung trước khi thu thập các thông tin cụ thể của từng địa bàn, đặc biệt để
có được một số thông tin thực tế về các chương trình, công trình, đề án làm
cơ sở để thảo luận với người dân.
Khi tham vấn cộng đồng, đầu tiên người tham gia được yêu cầu liệt kê các
công trình đầu tư công ở địa phương, bao gồm cả các công trình nhà nước
thực hiện toàn bộ và các công trình “nhà nước và nhân dân cùng làm”, người

dân cung cấp các thông tin liên quan đến các công trình đó như xây khi nào,
hiệu quả sử dụng và chất lượng công trình. Dựa trên những thông tin này,
người dân cùng nhau đưa ra những đánh giá về mức độ hiệu quả và sự hài
lòng của cộng đồng đối với các công trình dựa trên các tiêu chí: chất lượng,
hiệu quả đồng vốn và mức độ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Sau khi tham
vấn, người dân nêu các kiến nghị, mong muốn của mình liên quan đến các
công trình nói trên cũng như các công trình dự án đầu tư công nói chung trên
địa bàn họ sinh sống.
Sau khi hiểu rõ về các công trình đầu tư trên địa bàn, nhóm tham vấn cùng
một số người dân đi thăm thực địa và phỏng vấn người dân tại khu vực các
công trình dự án đầu tư công để bổ sung thêm thông tin và làm rõ các câu
chuyện đã được các bên liên quan trong quá trình tham vấn chia sẻ.
Các câu chuyện được người dân chia sẻ trong các cuộc họp dân trực tiếp tại
cộng đồng cũng được làm rõ, bổ sung và kiểm chứng qua các cuộc phỏng vấn
cán bộ cấp xã, phường và cấp huyện, và được thống nhất trong cuộc họp
tổng kết cấp xã trước khi đưa ra chia sẻ trong Hội thảo Tổng kết kết quả tham
vấn cấp tỉnh. Cách làm này đảm bảo thông tin ở mỗi địa bàn được làm rõ và
thống nhất giữa chính quyền địa phương với người dân trước khi đưa lên cấp
cao hơn. Bên cạnh tính thống nhất về thông tin, cách làm này còn nhằm tạo ra
sự đồng thuận giữa người dân và chính quyền, và khẳng định vai trò của
người dân trong tiến trình tham vấn.
1.3. Phạm vi và Hạn chế của báo cáo
Như đã nói ở trên, các thông tin liên quan đến đầu tư công được trình bày
trong báo cáo được thu thập từ một chuỗi các hoạt động tham vấn về công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia trong quy trình ngân
sách; trong đó có thu thập các bằng chứng liên quan đến hiệu quả của các
công trình đầu tư công sử dụng ngân sách nhà nước ở địa phương. Qua hình
thức này, thông tin trực tiếp từ người dân được lắng nghe và thu thập, thay vì
ý kiến của họ được thu thập theo cách điều tra xã hội học thông thường. Như
vậy, phương pháp này chú trọng việc tìm ra những câu chuyện thực tế làm

bằng chứng xác thực. Các câu chuyện đó được chứng kiến tại địa phương và
được sử dụng như bằng chứng và cơ sở để nhận diện và phân tích những bất

5
cập trong pháp luật liên quan quản lý các hoạt động đầu tư công, chứ không
quan tâm đến số lượng ý kiến cũng như tỷ lệ người có ý kiến tương tự. Do
vậy, những phát hiện được đưa ra trong Báo cáo không mang tính thống kê,
mà tập trung vào những bằng chứng cụ thể và điển hình từ thực tế.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là tạo cơ hội thuận lợi cho người dân
dễ dàng tham gia đóng góp xây dựng pháp luật, đặc biệt là những người ít có
cơ hội bày tỏ quan điểm của mình như người nghèo, phụ nữ, đồng bào dân
tộc thiểu số, người nông dân sản xuất nhỏ, dù là những người còn rụt rè, nhút
nhát, chưa quen nói trước đám đông cũng sẽ nói lên được những gì mình suy
nghĩ và mong muốn.
Tuy nhiên, do những giới hạn về thời gian, kinh phí và yêu cầu đối với năng
lực của cán bộ thực hiện tham vấn nên các hoạt động tham vấn cộng đồng chỉ
có thể thực hiện được ở 4 trong số 63 tỉnh thành trên cả nước. Bên cạnh đó
tham vấn về các công trình đầu tư công chỉ là một trong những nội dung trong
quá trình tham vấn. Do đó, các câu chuyện được tập hợp có thể chưa phản
ánh hết mọi vấn đề nảy sinh trong việc thực thi pháp luật liên quan đến hoạt
động đầu tư công. Các kiến nghị đưa ra trong báo cáo này, do vậy, chỉ hạn
chế trong phạm vi những điểm cần điều chỉnh, bổ sung trong Dự thảo Luật
đầu tư công phù hợp với những phát hiện từ tham vấn cộng đồng.

6
P
P
H
H



N
N


I
I
I
I
:
:


T
T
Ó
Ó
M
M


T
T


T
T


C

C
Á
Á
C
C


P
P
H
H
Á
Á
T
T


H
H
I
I


N
N


T
T





T
T
H
H
A
A
M
M


V
V


N
N


C
C


N
N
G
G



Đ
Đ


N
N
G
G


L
L
I
I
Ê
Ê
N
N


Q
Q
U
U
A
A
N
N



Đ
Đ


N
N


Đ
Đ


U
U


T
T
Ư
Ư


C
C
Ô
Ô
N
N
G

G


2.1. Có sự khác nhau trong việc công khai minh bạch thông tin giữa
các chƣơng trình dự án đầu tƣ công 100% vốn Ngân sách nhà nƣớc
và những công trình “Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm”
Những công trình đầu tư 100% từ ngân sách nhà nước, đặc biệt là
những công trình do “cấp trên” (huyện và tỉnh) làm chủ đầu tư thì hầu
như người dân không có thông tin cả về kế hoạch cụ thể, thiết kế công
trình, dự toán và quyết toán chi phí. Thông tin đến người dân về các công
trình này là rất hạn chế, chỉ có những thông tin về tên công trình, thời gian dự
kiến thực hiện, tên cơ quan chủ đầu tư. Khi trao đổi với nhóm tham vấn, ông
Nguyễn Đình Trung, Phó Giám đốc Sở KHĐT tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết:
“Hiện giờ theo quy định thì chủ đầu tư phải công khai thông tin về công trình.
Trên thực tế thì chủ đầu tư thường chỉ có pano thông báo về công trình ở nơi
thực hiện công trình. Nhưng thông tin trên pano rất ít, thường chỉ có tên công
trình, thời gian dự kiến thực hiện, tên cơ quan chủ đầu tư,… chứ không có
thông tin về thiết kế công trình”. Đối với những công trình mà phải di dời, giải
phóng mặt bằng, thì những hộ gia đình thuộc diện phải di dời, giải phóng mặt
bằng chỉ được cung cấp những thông tin có liên quan đến di dời và giải phóng
mặt bằng. “Khi xây dựng con đường (liên xã Bình Ba – Đá Bạc) người dân
không được tham gia lấy ý kiến. Con đường chạy qua ấp Nhân Tâm- Nhân
Tiến – Nhân Đức, người dân tại 3 ấp đều không biết gì về lập kế hoạch, xây
dựng con đường. Chỉ có hộ nào bị giải toả, thì được gọi ra họp thống nhất giá
đền bù đất (Bác Hòa, ấp Nhân Tiến, xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu).
Các công trình: con đường liên xã Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, nước sạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, Hòa Bình,
(xem câu chuyện số 5, 6 - phụ lục báo báo) là những ví dụ điển hình về tình
trạng này.

Người dân không chỉ không có thông tin về từng công trình đầu tư công
cụ thể mà họ còn không nắm rõ được các thông tin về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương mình nói chung và do vậy không có
thông tin về các kế hoạch đầu tư công hoặc không biết về chủ trương
đầu tư, đặc biệt của cấp huyện và tỉnh. Tại các xã thuộc địa bàn tham vấn,
việc công khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự toán quyết toán ngân
sách xã, dự toán quyết toán các công trình đầu tư do xã làm chủ đầu tư đã
được thực hiện, tuy nhiên đa số người dân vẫn không rõ về những thông tin
này. Mặc dù có nghe nói hoặc có thấy, người dân không nhớ được hoặc
không hiểu được những thông tin này. Bên cạnh đó, người dân không có các

7
thông tin về chủ chương, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công của cấp
tỉnh và huyện.
“Ở đây là dân thì làm sao biết được. Nghe thì cũng có lúc nghe nói nhưng
không nhớ được. (Nguyễn Tấn Đạt, gấp Gò Sầm, xã Láng Dài, huyện Đất
Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
Tại tỉnh Hòa Bình, người dân cũng cho biết rằng họ được biết, nhưng biết
một số thông tin về các chương trình cho xã làm chủ đầu tư và chỉ biết
“phần phê duyệt, còn các phần khác không biết gì” hay “có đọc nhưng
cũng không hiểu được vì không có ai giải thích”(Bác Kỷ, người dân xã
Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình)
Cách cung cấp thông tin là một trong những lý do chính khiến người dân
không biết hoặc biết không đầy đủ về chủ trương đầu tư công cũng như không
biết về từng công trình cụ thể. Vị trí để các tờ thông tin về kế hoạch hoặc công
trình không dễ thấy, thuật ngữ sử dụng quá kỹ thuật và không thân thiện v.v.
là những lý do khiến thông tin dù có được công khai nhưng lại không giúp
người dân hiểu được.
Trong khi đó những công trình “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, có
đóng góp của người dân về sức lao động, tiền mặt hay hiến đất thì người

dân có thông tin đầy đủ về dự toán, thiết kế, và quyết toán công trình.
Người dân biết rõ công trình làm khi nào, tiến độ ra sao, cách thức đóng góp
và giám sát v.v.(Xem chi tiết tại các câu chuyện từ số 1 đến số 4 - phụ lục báo
cáo).
2.2. Ngƣời dân thiếu các thông tin về ngƣời hay cơ quan chịu trách
nhiệm giải trình về các công trình đầu tƣ công tại địa phƣơng
Kết quả tham vấn cho thấy, không địa phương nào cung cấp cho người
dân các thông tin về địa chỉ mà người dân có thể đến để tìm hiểu thêm
thông tin, cũng như đưa ra các ý kiến phản hồi liên quan đến các công
trình, dự án đầu tư công. Nhiều người dân khi có thắc mắc thì cũng không
biết hỏi ai, đặc biệt khi những thắc mắc đó liên quan đến các công trình do cấp
trên (huyện, tỉnh) làm chủ đầu tư. Không chỉ người dân, mà cả chính quyền
địa phương và MTTQ tại cơ sở (thôn, xã) không có đầy đủ thông tin về các
công trình do cấp trên làm chủ đầu tư. Do vậy, chính quyền địa phương hay
MTTQ cũng không thể cung cấp thông tin hay giải đáp các thắc mắc cho
người dân. Thậm chí người dân và có cả cán bộ của MTTQ cũng chưa hiểu
được vai trò đại diện cho tiếng nói và quyền lợi của người dân của MTTQ là
như thế nào. Điều này khiến người dân không được đáp ứng nhu cầu giải đáp
thông tin, ngoài ra cũng hạn chế vai trò của các cơ quan đại diện trong việc hỗ
trợ người dân tham gia vào giám sát các công trình đầu tư công sử dụng vốn
nhà nước.

8
“Chúng tôi đâu có biết hỏi ai đâu, ra UBND xã thì ủy ban cũng không có biết,
vì đó là của trên đưa xuống” (Ông Ty, xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu nói về việc tìm hiểu thông tin liên quan đến con đường liên
xã Bình Ba – Đá Bạc)
“Lúc người dân có ý kiến, họ chạy đến gặp trưởng thôn, có cả mình là MTTQ
đứng đó nhưng họ không hỏi mình mà chỉ hỏi trưởng thôn thôi. Mà cho đến
giờ mình mới hiểu rõ là MTTQ có vai trò đại diện cho người dân như thế nào”

(Chị Nguyễn Thị Châm, cán bộ MTTQ xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh
Hòa Bình)
“Nếu người dân có hỏi gì thì cứ chạy đến trưởng thôn, nếu trưởng thôn không
biết thì phải đưa lên trên” (Bà Tâm, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa
Bình)
Khi khảo sát thực tế các công trình đầu tư công tại các tỉnh tham vấn, thực tế
này diễn ra ở tất cả các công trình đầu tư công được khảo sát, như công trình
Trung tâm học tập cộng đồng xã Khoan Dụ, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình;
Đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, Tân Lạc, Hòa Bình; công trình cầu khe nước
Lặn tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu Nguyên, huyện Dakrông, tỉnh Quảng Trị; con
đường Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nhà
sinh hoạt cộng đồng tại xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công
trình nhà sinh hoạt cộng đồng thị trấn Klông, huyện Đakrông tỉnh Quảng trị
(xem chi tiết các câu chuyện số trong phần B phụ lục báo cáo).
Việc không có thông tin về người hay cơ quan có trách nhiệm giải trình dẫn
đến việc không phát huy được hiệu quả giám sát của người dân với các công
trình đầu tư công. Người dân không có được thông tin phản hồi kịp thời và
hiệu quả khi một công trình nào đó đang thi công và có vấn đề về tính phù
hợp, chất lượng và hiệu quả.
2.3. Công trình đầu tƣ công, đặc biệt các công trình sử dụng 100%
ngân sách nhà nƣớc chƣa khuyến khích và có cơ chế phù hợp để có
đƣợc sự tham gia một cách hiệu quả của ngƣời dân.
Kết quả tham vấn cộng đồng cho thấy người dân tại các địa bàn tham vấn đều
chưa được tham gia thực chất và hiệu quả vào các hoạt động đầu tư công.
Tất cả các công trình có vốn đầu tư 100% từ ngân sách nhà nước được
khảo sát đều không có sự tham gia của người dân trong quá trình lựa
chọn ưu tiên đầu tư/ra quyết định đầu tư công, thiết kế và giám sát thực
hiện công trình. Các công trình đó bao gồm các loại công trình xây dựng đập
hồ, cầu cống, đường xá, công trình nước sạch, công trình xây dựng nhà/trung
tâm sinh hoạt cộng đồng, và công trình xây dựng thuộc Chương trình nông

thôn mới. Cụ thể: công trình Đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, Huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa Bình; công trình xây dựng trung tâm học tập cộng đồng xã Khoan Dụ,
huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; công trình xây dựng nhà văn hóa thôn Đồng

9
Riệc, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; công trình con đường liên
xã Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; công trình
nước sạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công trình Nhà sinh
hoạt cộng đồng xã Thanh Hối, huỵên Tân Lạc; các công trình thuộc Chương
trình xây dựng nông thôn mới, xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu; công trình Đập Đồng Nội tại xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh
Hòa Bình; công trình nhà sinh hoạt cộng đồng thị trấn Klông Kla, huyện
Đakrông, tỉnh Quảng Trị; và công trình nhà văn hóa thuộc mô hình Nông thôn
mới tại xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (xem chi tiết các
câu chuyện trong phần B phụ lục báo cáo).
Hiện nay người dân mới chỉ có thể tham gia đóng góp ý kiến và giám sát
các công trình mà người dân có tham gia đóng góp - “nhà nước và nhân
dân cùng làm”. Người dân ở các địa bàn tham vấn cho biết họ chỉ tham gia
đóng góp ý kiến, tham gia thực hiện và giám sát đối với các công trình đầu tư
công ở địa phương mà có sự đóng góp tiền, sức lao động và đất đai của
mình.
Chỉ có con đường nhà nước và nhân dân cùng làm thì mới thực hiện
họp dân, bàn về các khoản đóng góp, sau đó công khai dự toán,
quyết toán” (Bác Sơn, khu phố Phước Hòa, thị trấn Phước Bửu,
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu).
(xem chi tiết các câu chuyện trong phần A – và câu chuyện về xây đập Hồ
Tràm trong phần B phụ lục báo cáo).
Các công trình đầu tư công chưa có được sự tham gia hiệu quả của người dân
có thể vì cán bộ địa phương và chủ công trình chưa thấy sự tham gia của
người dân là quan trọng. Chính vì không thấy việc đó là quan trọng nên họ

không tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự tham gia và cũng không khuyến khích
sự tham gia.
2.4. Các cơ quan, tổ chức đại diện cho ngƣời dân (Ban GSCĐ, MTTQ,
HĐND) chƣa phát huy hiệu quả vai trò đại diện cho ngƣời dân trong
các quyết định đầu tƣ công và giám sát thực hiện đầu tƣ công
Ban giám sát đầu tư cộng đồng và MTTQ chưa được tạo điều kiện để
phát huy vai trò đại diện cho cộng đồng tham gia và giám sát các công
trình đầu tư công. Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng được Thủ tướng ban
hành theo quyết định số 80/2005/QĐ-TTg quy định quyền và trách nhiệm giám
sát các công trình đầu tư của cộng đồng thông qua Ban GSĐTCĐ là đại diện
cho người dân. Tuy nhiên, việc thực hiện quyết định này còn nhiều bất cập.
Thứ nhất, Ban GSĐTCĐ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm
vụ của mình, do họ không được cung cấp hồ sơ công trình hoặc cung cấp
không kịp thời để có thể theo dõi tiến độ và chất lượng công trình. Năng lực
giám sát của các thành viên trong Ban cũng còn hạn chế. Ngoài ra, vai trò của

10
Ban này không được làm rõ trong các hợp đồng với nhà thầu, cũng như với
các bên liên quan khác kể cả người dân, dẫn đến tình trạnh “hữu danh vô
thực” – các thành viên của Ban hầu như không có tiếng nói với chủ đầu tư
cũng như nhà thầu. Còn với người dân thì họ cũng không tìm đến với Ban khi
có nhu cầu cần được giải đáp thắc mắc hoặc cần phản hồi ý kiến vì chưa biết,
chưa hiểu hoặc chưa thấy được vai trò thực chất và hiệu quả của Ban giám
sát đầu tư cộng đồng. Tương tự như vậy, MTTQ cũng không có thông tin về
thiết kế và dự toán các công trình đầu tư công và điều này gây khó khăn cản
trở cho MTTQ khi muốn tham gia và tổ chức cho người dân tham gia giám sát
các công trình đầu tư công.
“MTTQ và các đoàn thể có tham gia giám sát chương trình xây dựng nông
thôn mới… Không có thiết kế và dự toán công trình chúng tôi không giám
sát được” – (MTTQ và các đoàn thể chính trị -xã hội huyện Nghĩa Hưng,

tỉnh Nam Định)
“BGSĐTCĐ chỉ giám sát phần vốn dân góp… Phụ nữ khó đọc thiết kế, khó
nắm chắc” – (MTTQ và các đoàn thể xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng,
tỉnh Nam Định)
“Mình chưa bao giờ nghe ban giám sát đầu tư cộng đồng.” - (Bà Lý, Ấp
Gò Sầm, xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ)
Kênh tiếp xúc cử tri chưa đủ để hội đồng nhân dân có thể nắm bắt được
hết nhu cầu, các mối quan tâm và các vấn đề cần ưu tiên giải quyết tại địa
phương, làm cơ sở cho xây dựng chủ chương và kế hoạch đầu tư công.
Tại các địa phương tham vấn, chính quyền địa phương đều cho rằng việc lập
kế hoạch PTKTXH và dự toán ngân sách hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu
người dân, được nắm bắt thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu
HĐND. Các cuộc tiếp xúc cử tri này cũng được coi là kênh để người dân phản
hồi những vấn đề bức xúc của địa phương. Trên thực tế, kênh tiếp xúc cử tri
không đảm bảo để HĐND có thể nắm bắt được hết nhu cầu, các mối quan tâm
và các vấn đề cần ưu tiên giải quyết tại địa phương. Mỗi năm HĐND chỉ có
nhiều nhất là 4 lần tiếp xúc cử tri, nội dung thường đề cập đến nhiều vấn đề
cùng một lúc, trong khi thời gian cho mỗi cuộc tiếp xúc cử tri không dài để có
thể lắng nghe hết ý kiến của người dân một cách đầy đủ và kịp thời. Bên cạnh
đó, số lượng người tham gia các cuộc tiếp xúc cử tri này cũng không nhiều nên
khó có thể đảm bảo tính đại diện và đầy đủ của các ý kiến.
“Mỗi cuộc tiếp xúc cử tri nhiều nhất là khoảng 50 người tham gia”
(một người dân tại phường Bà Triệu, thành phố Nam Định)
Ở các địa phương khác như tỉnh Hòa Bình, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
cán bộ UBND xã cho biết mỗi cuộc tiếp xúc cử tri chỉ có khoảng
10% người dân tới tham dự.

11
Bên cạnh đó, đại biểu HĐND khó đưa ra các ý kiến độc lập do tình trạng không
chuyên trách, nhiều đại biểu HĐND đồng thời cũng là cán bộ công chức các cơ

quan hành pháp. Ví dụ, Chủ tịch HĐND đồng thời cũng có thể là Phó CT
UBND xã hoặc Bí thư/Phó Bí thư Đảng ủy. Do vậy, việc đưa ra các ý kiến độc
lập trong vai trò phản biện là khá thách thức, do bản thân đại biểu HĐND khó
phân định vai trò của mình ở mỗi vị trí.
2.5 Các công trình, chƣơng trình không có sự tham gia của ngƣời dân
dẫn đến không hiệu quả và lãng phí, không đáp ứng đúng nhu cầu và
hoàn cảnh thực tế tại địa phƣơng, thậm chí gây thiệt hại cho ngƣời
dân
Kết quả tham vấn cho thấy việc khi người dân không được hỏi ý kiến trong
quá trình khảo sát thiết kế công trình, lập dự toán và không được tham
gia giám sát thực sự trong quá trình thực hiện đã dẫn đến tình trạng
lãng phí nguồn lực do các công trình không đảm bảo chất lượng, không
phù hợp hoàn cảnh thực tế hoặc không đáp ứng nhu cầu sử dụng của
người dân. Kết quả khảo sát các công trình cụ thể, điển hình là 10 công
trình đầu tư công tại 4 tỉnh tham vấn minh chứng nhận định này.
(1) Công trình đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
được xây dựng với mục đích đảm bảo tưới tiêu cho cánh đồng của xã,
với số vốn đầu tư khoảng 40 tỉ đồng từ ngân sách nhà nước. Công trình
được hoàn thành và đi vào sử dụng năm 2012, nhưng khi xây xong thì
van xả nước bị hỏng, không trữ nước được và tới vụ mùa bà con cần
nước thì đập không có nước. Bà con phản ảnh rất nhiều nhưng không có
kết quả, thậm chí nhận được câu trả lời “đã làm theo thiết kế rồi”. Cuối
cùng người dân đành phải góp sức góp công để đắp bờ mương để đảm
bảo tưới tiêu cho mùa vụ.
(2) Con đường Bình Ba - Đá Bạc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
được đầu tư từ ngân sách nhà nước và do tỉnh làm chủ đầu tư. Bên chủ
đầu tư khi thiết kế và thi công công trình không lấy ý kiến người dân dọc
tuyến đường nên một số cống đặt sai vị trí, dẫn đến việc ngập lụt và làm
chết vườn tiêu của một số hộ gia đình – người dân mất kế sinh nhai. Bên
cạnh đó nền đường cao hơn nền nhà dân xây dựng hai bên đường, gây

cản trở khó khăn cho việc đi lại cho người dân và ngập lụt nhà dân hai
bên đường mối khi mưa xuống. Người dân và chính quyền địa phương
cơ sở đều không hài lòng về con đường này, họ kiến nghị chủ đầu tư cần
tham khảo ý kiến các hộ dân và chính quyền cơ sở khi thiết kế và thi
công công trình này.
(3) Công trình nước sạch tại xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, Hòa Bình được
nhà nước hỗ trợ xây dựng năm 2010. Đối tượng hưởng lợi công trình này
là người dân 4 thôn Khang 1, Khang 2, Cộng 1 và Cộng 2. Kinh phí xây
dựng công trình khoảng 998 triệu đồng. Tuy nhiên, khi thực hiện công

12
trình, bà con chỉ biết là nhà nước làm đường nước, chứ không được biết
ai là chủ đầu tư, công trình hết bao nhiêu tiền, đơn vị thi công là ai và
cũng không được đóng góp ý kiến hay tham gia giám sát. Đến nay, công
trình đã hoàn thành nhưng vẫn để đó, chất lượng xuống cấp nghiêm
trọng, người dân không sử dụng được.
(4) Công trình xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng tại xã Thanh Hối, huyện
Tân Lạc được xây dựng năm 2008 do huyện làm chủ đầu tư. Mục đích
của việc xây dựng Nhà sinh hoạt cộng đồng này nhằm để bà con có nơi
tổ chức các chương trình sinh hoạt văn hóa văn nghệ. Cả quá trình xây
dựng (từ việc thiết kế tới việc chọn lựa nguyên vật liệu và thi công) toàn
bộ do Huyện thực hiện, chính quyền xã và người dân không được tham
gia vào bất kỳ khâu nào. Xây cất xong từ năm 2008 nhưng 3 năm trở lại
đây, công trình xuống cấp nghiêm trọng, thậm chí hiện giờ không ai dám
trèo lên nhà sàn này vì nó có nguy cơ sập bất cứ lúc nào.
(5) Công trình đập Đồng Nội xã Đồng Tâm, Lạc Thủy, Hòa Bình được xây
dựng năm 2010. Người dân không được hỏi ý kiến khi khảo sát nên thiết
kế công trình không phù hợp. Sau khi xây xong xảy ra tình trạng nước
tràn vào vườn nhà dân gây ngập úng, nguyên nhân là do chiều cao của
mặt tràn cao hơn so với quy định, đặc biệt lại cao hơn nhà dân.

(6) Công trình nhà sinh hoạt cộng đồng Khóm 1, thị trấn Klông Kla, huyện
Đakrông, Quảng Trị do Ban Quản lý dự án giảm nghèo của huyện làm
chủ đầu tư. Người dân Khóm 1 cho rằng chất lượng công trình không
đảm bảo, mới sử dụng năm 2010 mà nay đã xuống cấp nhanh chóng do
chất lượng kém. Ông Cương, đại diện người dân nói rằng: “Với số tiền
140 triệu khi đó nếu giao cho dân làm thì sẽ làm được cái nhà tốt hơn nhà
hiện tại rất nhiều”
(7) Công trình Cầu khe nước Lặn tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu Nguyên, huyện
Dakrong, tỉnh Quảng Trị được xây dựng năm 2009, với ngân sách là 25
triệu đồng. Mục đích của công trình là để giao thông đi lại thuận tiện, nhất
là vào mùa mưa. Nhưng do người dân không được tham gia vào khảo
sát, dự toán và giám sát thi công nên hậu quả là công trình tuy đã hoàn
thành nhưng chẳng những đã không giúp người dân đi lại thuận tiện như
mong đợi, mà còn gây cản trở ngược lại. Công trình hiện trở thành nơi đổ
và chứa rác của bà con. Người dân đã nhiều lần kiến nghị phá bỏ cầu
này nhưng vẫn chưa nhận được phản hồi từ chính quyền.
(8) Công trình Trung tâm học tập cộng đồng xã Khoan Dụ, Lạc Thủy, Hòa
Bình được xây dựng năm 2005 với vốn đầu tư 4 tỷ đồng. Trước khi xây
dựng công trình này, cán bộ xã đã trình bày rất nhiều lần về điều kiện
thực tế ở địa phương là vùng ngập lụt và đề nghị cần khảo sát kỹ, cụ thể
phải đảm bảo chiều cao công trình, giảm tối đa ảnh hưởng của lũ lụt. Tuy
nhiên, các cơ quan cấp trên vẫn giữ nguyên thiết kế theo mẫu của tỉnh và
xã nhận được một câu trả lời “Có nhận thì nhận, không nhận thì chúng tôi

13
mang đi xã khác”. Kết quả là sau khi hoàn thành, vào các mùa lũ công
trình này thường bị ngập nước, đỉnh điểm là năm 2007, mực nước ngập
lên đến ngang cửa chính. Việc xây dựng Trung tâm học tập cộng đồng
không tiếp thu ý kiến chính quyền cơ sở và tham vấn ý kiến người dân đã
tạo ra bức xúc của chính quyền cơ sở và người dân địa phương.

Bên cạnh những công trình được minh chứng ở trên, còn có các công trình
khác được khảo sát cho thấy người dân không được hỏi ý kiến trong quá
trình khảo sát thiết kế, lập dự toán và không được tham gia giám sát thực sự
trong quá trình thực hiện đã dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực do không
đáp ứng được nhu cầu ưu tiên của người dân, hoặc không đảm bảo chất
lượng, không phù hợp hoàn cảnh thực tế, như việc phân bổ nguồn lực cho
các công trình xây dựng thuộc Chương trình nông thôn mới tại xã Bưng
Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, và việc đầu tư công trình ở
xã Minh Nghĩa, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. (xem chi tiết tại câu
chuyện số 8 và các câu chuyện khác ở phần B – Phụ lục báo cáo).
Quá trình tham vấn cũng ghi nhận những phản ứng không hài lòng và thậm
chí mất lòng tin của ngƣời dân và các cấp chính quyền điạ phƣơng khi các
quyết định đầu tư công và việc sử dụng tiền (ngân sách) dành cho các công trình
đầu tư công không hiệu quả và lãng phí. Đơn cử, chị Dự, một trong những người
hưởng lợi từ công trình nước sạch xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
chia sẻ “thấy bảo công trình này là công trình của nhà nước tới làm cho, thấy vui
lắm. Nghĩ chắc chắn là công trình của nhà nước thì kiểu gì cũng rất tốt, rất yên
tâm. Ai chứ nhà nước mà đã giám sát thì chắc chắn rồi. Ai dè đâu công trình của
nhà nước mà giờ dân chả được hưởng gì…”, hoặc bác Lâm tại Đồng Tâm, huyện
Lạc Thủy chia sẻ “Trước đây tôi rất tâm huyết với chủ trương của nhà nước,
nhưng quá trình thực hiện đã làm mất lòng tin của tôi và của người dân. Tôi chỉ
mong có quyền xây dựng, giám sát, kiểm tra và có quyền được biết tất cả thông
tin”. Ông Nguyễn Ái Ba, một người dân Khóm 1 thị trấn Klông Kla nói: “Luật có chỉ
ở trên giấy tờ, thực tế người dân không tham gia, không biết”; hay một đại diện
người dân xã Hòa Lộc, TP Nam Định đã chia sẻ “Các công trình cứ làm xong mà
không sử dụng được hoặc nhanh xuống cấp thì người dân cũng thấy xót vì tiền bị
lãng phí. Nếu cứ như thế mãi thì người dân mất lòng tin vào Đảng, vào chính
quyền”.
2.6. Ngƣời dân mong muốn đƣợc cung cấp thông tin, đƣợc lấy ý kiến
và tham gia giám sát các công trình đầu tƣ công ở địa phƣơng nơi họ

sinh sống
Kết quả tham vấn cho thấy, người dân có ý kiến và mong muốn được cung
cấp thông tin và được tham gia vào quá trình lập kế hoạch và giám sát các
công trình đầu tư công ở địa phương nơi mình sinh sống.

14
“Tôi rất muốn tham gia giám sát công trình xây đập (Hồ Tràm) này để đảm
bảo chất lượng của công trình”. (Anh Ninh, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa Bình).
Ông Hà Văn Nam trưởng phòng TCKH huyện cho biết: “con đường Đá Bạc
– Bình Ba được xây dựng xong thì sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho bà con
nhân dân dọc theo tuyến đường đi qua. Nhưng đúng là BQL dự án nên
tham khảo ý kiến của xã và chính người dân địa phương khi thiết kế và thi
công con đường thì sẽ tránh được những điều đáng tiếc như vậy và công
trình do nhà nước đầu tư sẽ hiệu quả cao hơn”
Bác Lâm người dân tại xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình cho
biết “Trước đây tôi rất tâm huyết với chủ trương của nhà nước, nhưng quá
trình thực hiện đã làm mất lòng tin của tôi và của người dân. Tôi chỉ mong
có quyền xây dựng, giám sát, kiểm tra và có quyền được biết tất cả thông
tin”.
Các câu chuyện được liệt kê tại phần B Phụ lục báo cáo cũng là những minh
chứng cụ thể về mong muốn này của người dân, cụ thể: Câu chuyện về công
trình Đập Hồ Tràm ở xã Thanh Hối, Huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công trình
cầu khe nước Lặn tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu Nguyên, huyện Dakrong, tỉnh
Quảng Trị; con đường Đá Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu; công trình nước sạch tại xã Quy Hậu, Tân Lạc, Hòa Bình; Nhà sinh
hoạt cộng đồng tại xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc; công trình Đập Đồng nội tại
xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình, công trình nhà sinh hoạt cộng
đồng trấn Klông, huyện Đakrông tỉnh Quảng trị.
2.7. Sự tham gia của ngƣời dân vào các công trình đầu tƣ công (lập kế

hoạch, xây dựng dự toán, thiết kế, giám sát thực hiện) góp phần
mang lại sự hài lòng của ngƣời dân và đảm bảo hiệu quả đầu tƣ công
Kết quả tham vấn cho thấy rõ các công trình được khảo sát có sự tham gia
của người dân trong lập kế hoạch, xây dựng dự toán, thiết kế và giám
sát thực hiện thì các công trình đều mang lại sự hài lòng và hiệu quả cao
vì đáp ứng được nhu cầu của người dân và chi phí hiệu quả. Điển hình là
công trình đèn đường tại thôn Xuân Lâm và Na Nẫm, xã Triệu Nguyên, huyện
Dakrông, tỉnh Quảng Trị; công trình xây dựng nhà văn hóa thôn Đồng Riệc, xã
Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình; công trình điểm sinh hoạt cộng
đồng của khu phố Phước Hòa, thị trấn Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
công trình đường nhánh Đón Lang tại thôn Cộng 2, xã Quy Hậu, tỉnh Hòa
Bình; công trình đường bê tông Kim Đồng tại Khu phố 6, phường 2, Thành
phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; xây dựng hệ thống mương tưới tiêu tại Thôn
Bào, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình; công trình làm đường tại tổ
4, phường Tràng Thi, thành phố Nam Định (xem chi tiết các câu chuyện điển
trong phần A phụ lục báo cáo).

15
Với những công trình này, khi có chủ trương xây dựng, chính quyến cơ sở
(xã, thôn) họp dân, thông báo về chủ trương, kế hoạch đầu tư, lấy ý kiến
người dân về thiết kế và dự toán ngân sách của công trình và kêu gọi, đề xuất
các khoản đóng góp của người dân (ngày công lao động, tiền mặt hay hiến
đất). Người dân thấy được sự cần thiết của các công trình đối với cá nhân và
cộng đồng của mình, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia
xây dựng công trình. Họ phần khởi và tích cực tham gia đóng góp ý kiến và
nguồn lực vào việc xây dựng kế hoạch, thực hiện và giám sát các công trình.
“Chúng tôi cảm thấy rất phấn khởi, hài lòng về chất lượng công trình vì có
sự tham gia của người dân và mong muốn các công trình trên địa bàn đều
có sự tham gia của người dân”(Một người dân tại thôn Xuân Lâm, xã Triệu
Nguyên, huyện Dakrông, tỉnh Quảng Trị ).

“Vì tài chính công khai, minh bạch, và sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân
nên mới có thể làm được công trình này” (Chị Tâm, người dân thôn Đồng
Riệc, xã Đồng Tâm, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình)
“Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày hôm ấy, trời mưa to lắm, nhưng là ngày đầu tiên
ban vận động bắt đầu đi gặp các hộ dân để huy động tiền đóng góp.
Chúng tôi đi một mạch đến đêm mới về nhưng chúng tôi huy động được
ngay lập tức của bà con hơn 30 triệu. Dân tôi đúng là có tấm lòng vàng. Có
việc gì khó dân làm xong ngay”. (ông Lê Thanh Sơn – thành viên ban
giám sát cộng đồng khu phố Phước Hòa, thị trấn Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu)
Qua tham vấn và khảo sát cũng thấy rõ một yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công của các công trình này - chính là sự quyết tâm của cán bộ chính
quyền địa phương trong việc tổ chức cho người dân tham gia và giám sát các
công trình này.
“Khi có người dân tham gia công trình đảm bảo chất lượng hơn, họ có
trách nhiệm duy tu, bảo dưỡng công trình, thi công mà người dân thì giảm
được chi phí mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, có sự đồng thuận của người
dân thì việc gì cũng có thể làm được. Cái gì xuất phát từ nhu cầu của
người dân, lắng nghe người dân, có được sự đồng thuận của dân thì sẽ đạt
hiệu quả cao”. (ông Đặng Mai Sơn, phó bí thư tỉnh đoàn tỉnh Hòa Bình)
Các minh chứng này cho thấy người dân hoàn toàn có thể tham gia thực chất
và hiệu quả vào quản lý các công trình đầu tư công tại địa phương. Bên cạnh
đó cũng cho thấy rõ ràng khi chính quyền địa phương có quyết tâm thì họ
hoàn toàn có thể tổ chức cho người dân tham gia và giám sát các công trình
đầu tư công tại địa phương một cách thực chất và hiệu quả.
Thậm chí cộng đồng hoàn toàn có thể tham gia đấu thấu và quản lý xây
dựng công trình đầu tư công tại địa phương với 100% vốn đầu tư từ

16
ngân sách nhà nước. Cộng đồng xây dựng kế hoạch và tham gia đấu thầu

cho công trình mương tưới tiêu tại thôn Bảo, xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc
tỉnh Hòa Bình. Họ bầu các thành viên ban giám sát đầu tư cộng đồng để quản
lý và giám sát công trình, lập dự toán, tổ chức họp dân bàn bạc và thống nhất
kế hoạch xây dựng, thuê thợ và chia sẻ công khai minh bạch các thông tin về
tài chính với người dân của địa phương. Kết quả là, công trình được hoàn
thành chất lượng tốt, đảm bảo nhu cầu sản xuất và tiêu ứng cho nông nghiệp
và chi phí hiệu quả. Trong khi đó cũng ở thôn này, trước đó huyện làm chủ
đầu tư và thuê thợ về xây dựng hệ thống mương tưới tiêu cho thôn, nhưng
sau khi nghiệm thu con mương thì gần như không sử dụng được, chỉ ít lâu
sau khi hoàn thành nhiều chỗ đã bị vỡ, nứt, sụt và bục cả mảng lớn, nước
không thoát ra được. Đặc biệt, mương cao hơn đồng ruộng, không tưới được
cho đồng và cũng khó tiêu úng trong mùa mưa (xem chi tiết câu chuyện số 1
về xây dựng hệ thống mương tưới tiêu tại Thôn Bào, xã Thanh Hối, huyện
Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình).
Cộng đồng cũng hoàn toàn có thể tham gia vào việc lập kế hoạch phát
triên kinh tế xã hội và quản lý ngân sách nhà nước của xã/phường và
các công trình đầu tư công ở địa phương. Phường Tràng Thi, thành phố
Nam Định áp dụng mô hình mới để người dân tham gia vào việc lập kế hoạch
và quản lý ngân sách nhà nước, đại diện tổ dân phố được tham gia cuộc họp
lựa chọn ưu tiên những việc, những công trình sẽ làm trong năm tới, việc
nâng cấp con đường tại tổ 4 đã được đưa vào danh sách ưu tiên đầu tư của
phường. Sau khi được phổ biến về nguồn ngân sách hỗ trợ từ phường và quỹ
Sáng kiến cộng đồng, cán bộ tổ dân phố đã họp xin ý kiến người dân và cùng
nhau quyết tâm sửa con đường để cải thiện điều kiện đi lại và cảnh quan khu
dân cư. Người dân được xin ý kiến về thiết kế con đường, ngân sách và
phương án đóng góp và họ bầu ra một tổ tự quản để tổ chức thực hiện, giám
sát công trình và quản lý việc thu chi của công trình. Biên bản họp ghi chép nội
dung thảo luận và các điểm thống nhất trong các cuộc họp dân đều được gửi
tới toàn bộ hộ dân trong tổ để xem xét kỹ lưỡng và ký xác nhận đồng ý. (Xem
chi tiết câu chuyện số 2 về công trình làm đường tại tổ 4, phường Tràng Thi,

thành phố Nam Định tại phụ lục báo cáo)
Qua các cách làm công khai minh bạch và có sự tham gia của người dân,
người dân nhận thức được rõ lợi ích và nghĩa vụ của mình. Người dân hài
lòng với chất lượng và hiệu quả của công trình. Quy chế dân chủ cơ sở “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được áp dụng hiệu quả, sự hiểu biết
giữa chính quyền điạ phương và người dân được tăng cường, và người dân
tin tưởng hơn vào chính quyền địa phương.


17
P
P
H
H


N
N


I
I
I
I
I
I
:
:



C
C
Á
Á
C
C


K
K
H
H
U
U
Y
Y


N
N


N
N
G
G
H
H





T
T




C
C


N
N
G
G


Đ
Đ


N
N
G
G


V
V

À
À


N
N
H
H
Ó
Ó
M
M


T
T
H
H
A
A
M
M


V
V


N
N



3.1. Khuyến nghị của cộng đồng
Về công khai minh bạch thông tin và cơ chế phản hồi thông tin
 Công khai thiết kế, dự toán và mức đầu tư của các công trình xây dựng cơ
sở hạ tầng và công trình công cộng xây dựng trên địa bàn địa phương, và
công khai sử dụng ngân sách và vốn vay từ các ngân hàng phát triển tới
người dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng để thực hiện giám sát hiệu
quả hơn
 Nâng cao nhận thức của người dân về các công trình đầu tư công và ngân
sách cho công trình thông qua tuyên truyền
 Tăng cường cơ chế phản hồi thông tin giữa người dân, chính quyền địa
phương và chủ đầu tư, đơn vị thi công các công trình đầu tư công tại địa
phương
 Bổ sung quy định nêu rõ chủ đầu tư phải công bố công khai những thông
tin sau đối với mọi công trình: Tên công trình, thời gian thực hiện, tổng dự
toán, đơn vị chủ đầu tư, đơn vị thực hiện, đơn vị giám sát, và tên cũng như
số điện thoại liên hệ của người chịu trách nhiệm giải đáp thông tin cũng
như tiếp nhận ý kiến phản hồi của người dân
Về sự tham gia của người dân
 Tất cả các công trình công cộng trên địa bàn địa phương cần phải phải
xuất phát từ nhu cầu của người dân. Cần lấy ý kiến người dân về khoản
chi đầu tư để đảm bảo chi đúng nhu cầu của người dân.
 Cần tham khảo ý kiến của chính quyền cơ sở (thôn và xã) và chính người
dân địa phương khi lập kế hoạch, thiết kế và thi công các công trình, đặc
biệt là đường xá
 Đảm bảo cơ chế giám sát của người dân thông qua ban giám sát đầu tư
cộng đồng: nâng cao năng lực cho ban giám sát, có cơ chế giám sát hiệu
quả; khẳng định vai trò của ban giám sát đầu tư cộng đồng trong tất cả các
công trình và chương trình tại địa phương

Về chế tài thực hiện
 Quy định chế tài đối với việc chủ đầu tư không cung cấp, không cung cấp
đầy đủ hồ sơ công trình cho Ban Giám sát đầu tư cộng đồng.

18
3.2. Kết luận và khuyến nghị của nhóm tham vấn
Sự tham gia giám sát của cộng đồng thực sự mang lại hiệu quả cho các
công trình đầu tư và niềm tin trong nhân dân
 Các minh chứng cụ thể trên đã khẳng định khi có sự tham gia của người
dân thì những công trình đầu tư sẽ đáp ứng được đúng nhu cầu của người
dân từ đó sẽ tránh được lãng phí. Sự tham gia của người dân cũng làm
tăng tính sở hữu của họ với công trình và từ đó tăng trách nhiệm khi sử
dụng công trình. Sự tham gia của người dân cũng giúp củng cố sự hiểu
biết và niềm tin giữa người dân và chính quyền địa phương.
Đặt yêu cầu “minh bạch, giải trình và sự tham gia” thành một điều kiện
bắt buộc trong đầu tư công
 Thực tế từ các công trình “nhà nước và nhân dân cùng làm” có thể thấy
các Bộ, ngành và địa phương hoàn toàn có thể thực hiện minh bạch và giải
trình cũng như tạo điều kiện để người dân tham gia đóng góp ý kiến, trao
đổi, thảo luận nếu họ thấy cần và bắt buộc phải làm như vậy.
 Những băn khoăn/nghi ngờ về khả năng tham gia của người dân sẽ được
giải quyết khi sự tham gia của người dân là một yếu tố bắt buộc (hay nói
một cách khác là nếu đó là một điều kiện tiên quyết để một công trình nào
đó được thực hiện).
 Cán bộ địa phương cần được hiểu rõ sự khác biệt giữa công khai với minh
bạch và ý nghĩa của trách nhiệm giải trình. Khi ý thức được công khai chưa
phải đã là minh bạch và nếu được yêu cầu phải đạt được sự minh bạch thì
các bên thực thi nhiệm vụ đầu tư công sẽ tìm được giải pháp để thực hiện
việc minh bạch
Sử dụng hiệu quả các kênh thông tin hiện có để đảm bảo sự công khai

minh bạch
 Hiện giờ tại địa phương đã có rất nhiều các kênh thông tin khác nhau bao
gồm kênh thông tin trực tiếp (họp tiếp xúc cử tri, họp thôn/xóm) và kênh
gián tiếp (bảng tin, loa phóng thanh, trang web). Các kênh này cần được
sử dụng hiệu quả hơn để thông tin về các công trình đầu tư công trên địa
bàn đến với người dân. Các thông tin cần được trình bày rõ ràng, chi tiết
để người dân dễ hiểu.
 Bên cạnh việc cung cấp thông tin, cũng cần có một chỉ dẫn rõ ràng về vai
trò trách nhiệm giải trình của các bên liên quan đến các công trình đầu tư
công. Cụ thể chỉ dẫn này phải đảm bảo người dân biết được với mỗi vấn
đề thì gặp ai, ở đâu, khi nào.

19
Phát huy vai trò của các tổ chức đại diện cho tiếng nói của người dân
trong tham gia và giám sát các công trình đầu tư công
 Về mặt lý thuyết, người dân có thể tham gia và giám sát các công trình đầu
tư công thông qua các tổ chức đại diện của mình, tuy nhiên cần có các quy
định cụ thể về các nguyên tắc và qui trình đảm bảo sự tham gia.
 Cần xem xét và điều chỉnh bổ sung Thông tư liên tịch 04/2006/TTLT-
BKHĐT-UBTƯMTTQVN-BTC hướng dẫn quyết định 80/2005/QĐ-TTg quy
định việc thành lập Ban GSĐTCĐ, vì trên thực tế trong quá trình triển khai
thực hiện thông tư vẫn chưa đảm bảo người dân chịu ảnh hưởng trực tiếp
tham gia và giám sát các công trình đầu tư công và chưa tạo điều kiện để
phát huy được vai trò thực chất của Ban GSĐTCĐ.
 Các cơ quan đại diện, cụ thể là MTTQ, các tổ chức thành viên của MTTQ
và Ban GSĐTCĐ cần hiểu được vai trò đại diện của mình là làm gì và làm
như thế nào. Các cơ quan đại diện cần tích cực hỗ trợ và tổ chức cho
người dân tham gia và giám sát các hoạt động đầu tư công.
 Cần huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quá
trình tổ chức, hỗ trợ và hướng dẫn người dân tham gia và giám sát các

hoạt động đầu tư công.

20
P
P
H
H


N
N


I
I
V
V
:
:


N
N
H
H


N
N



D
D
I
I


N
N


V
V


N
N


Đ
Đ




V
V
À
À



N
N
G
G
U
U
Y
Y
Ê
Ê
N
N


N
N
H
H
Â
Â
N
N


Trên cơ sở các kết quả tham vấn cộng đồng để góp ý cho dự thảo Luật NSNN
sửa đổi tại các tỉnh Hòa Bình, Nam Định, Quảng Trị và Bà Rịa Vũng Tàu, nhóm
chuyên gia và nhóm thực hiện tham vấn đã cùng tiến hành phân tích và nhận diện
các vấn đề, phân tích nguyên nhân liên quan đến chủ đề tham vấn về tăng cường
công khai, minh bạch và sự tham gia của người dân trong các hoạt động đầu tư

công. Nội dung phân tích tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành có liên
quan và các quy định tương ứng trong dự thảo Luật đầu tư công.
4.1. Vấn đề 1: Tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tƣ công
còn hạn chế, chƣa bảo đảm sự tham gia của ngƣời dân, dẫn đến còn
tình trạng đầu tƣ lãng phí, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời
dân.
Các biểu hiện của vấn đề này:
 Những công trình đầu tư 100% vốn từ ngân sách nhà nước, đặc biệt là do
cấp trên như cấp huyện, cấp tỉnh làm chủ đầu tư trên địa bàn, thì hầu hết
người dân không có hoặc không có đủ thông tin cần thiết và việc triển khai
thực hiện công trình không phù hợp với nhu cầu địa phương (vụ việc công
trình nước sạch ở xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, Hòa Bình, con đường Đá
Bạc – Bình Ba, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các công
trình khác – xem thêm các câu chuyện trong phần B phụ lục báo báo).
 Thông tin về các chương trình, dự án đầu tư công thường không đầy đủ,
khó hiểu, khó nhớ và khó tham gia để biết đâu là đúng hoặc sai, cũng như
để nhận diện được vi phạm xảy ra (ý kiến tham vấn tại hầu hết tất cả các
tỉnh Quảng Trị, Hòa Bình, Nam Định, Bà Rịa - Vũng Tàu).
 Người dân thường không nắm rõ được các thông tin về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương mình và không có thông tin về các kế
hoạch đầu tư công hoặc không biết về chủ trương đầu tư (điển hình vụ
việc xây dựng đường liên xã Bình Ba – Đá Bạc tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, công trình đập Hồ Tràm xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc,
Hòa Bình, – xem thêm các câu chuyện trong phần B phụ lục báo báo).
Nhận diện các nguyên nhân:
 Thứ nhất, việc thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công mặc dù
đã được quy định tương đối toàn diện, song còn nằm trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau, hiệu lực pháp luật chưa cao, dẫn đến quá
trình áp dụng còn hạn chế.
Thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư công chủ yếu được quy định trong

×