Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Bài giảng các dân tộc và chính sách dân tộc ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

TRẦN THỊ THU HÀ






BÀI GIẢNG
CÁC DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC Ở VIỆT NAM













Hà Nội - 2013
2

3


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 5
1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 5
2. Mục đích, nội dung môn học 6
PHẦN I: CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM 7
CHƯƠNG 1: MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ ĐỊA BÀN CƯ TRÚ CỦA CÁC DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM 7
1.1. Vị trí địa lí và diện tích lãnh thổ Việt Nam 7
1.2. Địa hình và núi đồi Việt Nam 7
1.3. Sông ngòi, ao hồ. 10
1.4. Đồng bằng 11
1.5. Nguồn tài nguyên 12
1.6 Khí hậu 14
Câu hỏi ôn tập 14
CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM VỀ DÂN TỘC VÀ CÁC TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH THÀNH
PHẦN DÂN TỘC Ở VIỆT NAM 15
2.1. Khái niệm dân tộc 15
2.2. Các tiêu chí xác định tộc người 17
Câu hỏi ôn tập 19
CHƯƠNG 3: THÀNH PHẦN VÀ SỰ PHÂN BỐ CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM 20
3.1. Các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á 20
3.2. Các dân tộc thuộc ngữ hệ Thái - Kađai 35
3.3. Các dân tộc thuộc ngữ hệ Mã Lai - Pôlinêdiên (Đa Đảo) 43
3.4. Các dân tộc thuộc ngữ hệ Hán - Tạng 46
Câu hỏi ôn tập 53
CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 54
4.1. Những đặc điểm chung 54
4.2. Một số đặc điểm về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của các dân tộc ở việt nam trong thời
đổi mới. 60

Câu hỏi ôn tập 64


4

PHẦN II: CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 65
CHƯƠNG 5: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRONG LỊCH SỬ VÀ
HIỆN NAY 65
5.1. Quan điểm chung về chính sách dân tộc 65
5.2. Khái niệm và đặc điểm của chính sách dân tộc: 67
5.3. Các nguyên tắc cơ bản để hoạch định chính sách dân tộc 72
Câu hỏi ôn tập 74
CHƯƠNG 6: CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT
NAM 75
6.1. Quan điểm chung về chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến 75
6.2. Bài học lịch sử và những kinh nghiệm về chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam 77
6.3. Bài học lịch sử và những kinh nghiệm về chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam. 83
Câu hỏi ôn tập 85
CHƯƠNG 7: CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC QUA CÁC THỜI
KỲ 86
7.1. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền (1930-1945). 86
7.2. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp bảo vệ độc lập dân tộc (1945 - 1954). 88
7.3. Chính sách dân tộc trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà (1954-1975) 93
7.4. Chính sách dân tộc thời kỳ 1976 - 1985: 102
7.5. Chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay): 105
Câu hỏi ôn tập 113
KẾT LUẬN 114

TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
5

LỜI NÓI ĐẦU

1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Có dân tộc đa số chiếm tới hơn 60 triệu người trên
tổng số khoảng 80 triệu dân cả nước, còn lại là 20 triệu người dân tộc thiểu số gồm 53 thành
phần dân tộc. Dù là dân tộc đa số hay thiểu số, từ lâu đời các dân tộc Việt Nam vẫn kết thành
một khối thống nhất với những đặc trưng khác nhau, phong phú, đa dạng trên cơ sở cư dân nông
nghiệp. Lãnh thổ Việt Nam nằm giữa ngã tư đường của bản đồ thế giới, từ Nam lên Bắc, từ Đông
sang Tây. Do đó, từ thời xa xưa Việt Nam đã trở thành nơi giao lưu và hội tụ văn hoá giữa các
châu lục, vùng miền địa lí khác nhau. Điều đó được thể hiện rõ ràng ở sự phân bố các dân tộc
Việt Nam theo 4 ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, không phải cứ cùng ngữ hệ là cùng một trình độ phát triển như nhau. Vì sự phát
triển đó còn tuỳ thuộc vào những điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử của từng dân tộc. Nhưng,
do đặc điểm cư trú xen kẽ giữa các dân tộc từ lâu đời, cho nên bên cạnh những sự khác biệt mang
tính chất đặc trưng của từng dân tộc, nhìn chung các dân tộc Việt Nam vẫn có sự thống nhất về
nhiều mặt, nhất là các dân tộc sống trong vùng văn hoá với nhau. Thậm chí, hiện nay đã có một
số dân tộc cùng chung tiếng nói và các sinh hoạt văn hoá mặc dù họ thuộc các ngữ hệ khác
nhau. Vi dụ nhiều dân tộc nói tiêng Môn Khơme ở Tây Bắc đã sử dụng tiếng Thái và văn hoá
Thái trong sinh hoạt hàng ngày. Giữa người Mường và người Thái, giưa người Thái với người
Việt có sự gần gũi với nhau về nhiều mặt từ lâu đời nhất là ngôn ngữ. Điều đó nói lên đặc điểm
văn hoá các dân tộc ở Việt Nam khá đa dạng và phong phú, nhưng lại phát triển trong sự thống
nhất. Lâu nay, nhiều người nghi ngờ sự thống nhất trong đa dạng này là mâu thuẫn, đa dạng thì
sẽ khó thống nhất. Song, đối với văn hoá các dân tộc Việt Nam đó lại là một thực tế khá sinh
động và lý thú. Thực tế đó chính là nét độc đáo của các dân tộc Việt Nam, ít khi tìm thấy ở một
số láng giềng. Bởi lẽ, các dân tộc Việt Nam tuy có thể được hình thành từ nhiều nguồn gốc
khác nhau, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nhưng lại là một cộng đồng dân tộc thống nhất trên
nhiều lĩnh vực. Trước hết, đó là sự thống nhất về tính cộng đồng. Nói khác đi, các dân tộc Việt

Nam là một cộng đồng thống nhất. Trong đó, nổi trội nhất là giữa các dân tộc ít khi xảy ra sự
mâu thuẫn sâu sắc hay những đối đầu cần giải quyết bằng vũ lực. Nếu có chăng chỉ là sự xung
đột giữa các thế lực chính trị của giai cấp thống trị. Đối với nhân dân các dân tộc ít khi xảy ra
những xung đôt găy gắt như thế.
Cái cội nguồn từ 100 trứng cho dù chỉ là huyền thoại thì vẫn thể hiện rõ sự cố kết thống nhất
giữa các dân tộc Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm lich sử và biết bao thăng trầm lớn nhỏ, kể cả
những cuộc đồng hoá dưới nhiều màu sắc khác nhau đã làm tăng thêm giá trị cố kết cộng đồng.
Giới thiệu về cộng đồng dân tộc Việt Nam chính là giới thiệu về sự đồng lòng nhất trí đó. Trên cơ
sở đó, tuỳ từng thời kỳ lịch sử và thể chế chính trị xã hội khác nhau mà chính sách về dân tộc khác
nhau. Nhưng, nhìn chung từ ngày dựng nước đến nay, sự nhất quán mang tính chiến lược của chính
sách dân tộc cũng chỉ quy về một mối: ĐOÀN KẾT DÂN TỘC. Với đặc điểm của một quốc gia đa
dân tộc như nước ta, đoàn kết dân tộc là sự sống còn không chỉ của cả quốc gia mà còn là sự tồn
vong của từng dân tộc sinh sống trên lãnh thổ đó. Nhận thức sâu sắc thực tế này, cả 54 thành phân
dân tộc Việt Nam đã, đang và sẽ ngày càng làm cho khối đoàn kết dân tộc vững mạnh hơn.
6

2. Mục đích, nội dung môn học
Mục đích của môn học này nhằm nêu bật hai vấn đề:
Giới thiệu một cách tổng quan về điều kiện môi trường sinh thái của các dân tộc Việt
Nam. Từ đó tìm ra mối quan hệ hài hoà giữa các dân tộc với môi trường tự nhiên của chính
mình. Trên cơ sở đó nhận ra đặc điểm chính của các dân tộc Việt Nam.
Nêu bật các chính sách dân tộc của các thời kỳ lịch sử từ thời cổ đại cho đến nay. Tuy, giữa
các thời kỳ lịch sử đó, chính sách dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử có thể khác nhau, nhưng thành
tựu chung vẫn nhằm đoàn kết tất cả các dân tộc thành một khối thống nhất.
Môn học gồm 2 tín chỉ, chia làm hai phần chính, bao gồm 7 chương:
Phần I: Các dân tộc ở Việt Nam
Chương 1: Môi trường tự nhiên và địa bàn cư trú của các dân tộc ở Việt Nam
Chương 2: Khái niệm dân tộc và các tiêu chí xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam
Chương 3: Thành phần và sự phân bố các dân tộc Việt Nam
Chương 4: Đặc điểm các cộng đồng dân tộc Việt Nam

Phần II: Chính sách dân tộc
Chương 5: Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong lịch sử và hiện nay
Chương 6: Chính sách dân tộc trong các triều đại phong kiến Việt Nam
Chương 7: Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ
7

PHẦN I: CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN VÀ ĐỊA BÀN CƯ TRÚ CỦA CÁC DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM

1.1. Vị trí địa lí và diện tích lãnh thổ Việt Nam
Nhìn trên bản đồ, Việt Nam là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm tuyến, phía Bắc
giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia. Diện tích toàn lãnh thổ Việt Nam là
329.241m
2
, riêng lãnh hải chiếm 1/2 đến mũi Cà Mau dài 3 .260km. Đường biên giới đất liền
chung với 3 nước Trung Quốc, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Campuchia dài 4510m.
Trên đất liền, tính theo đường chim bay từ cực bắc (cột cờ Lũng Cú, Mèo Vạc Hà Giang) đến
điểm cực nam (múi Né, Cà Mau) dài 1.650m (đấy là còn điểm cực tây nơi rộng nhất là 600m
(Bắc Bộ), 400m (Nam Bộ) và nơi hẹp nhất 50 km (Quảng Bình).
Với vị trí địa lí như vậy, từ xưa Việt Nam đã trở thành ngã tư đường nối Đông - Tây,
Nam - Bắc và là nơi giao lưu văn hóa, kinh tế với các quốc gia trên thế giới, nhất là khu vực
Đông Nam Á .
1.2. Địa hình và núi đồi Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam bao gồm nhiều địa hình khác nhau. Trong đó, 3/4 diện tích đất liền là
vùng đồi núi, chủ yếu là loại núi thấp: Độ cao địa hình dư với 1000m so với mặt nước biển
chiếm tới 80%; núi cao trên 2000m chỉ chiếm khoảng 1%, trong đó ngọn cao nhất là đỉnh
FanXipan (3143m) thuộc dãy Hoàng Liên Sơn.
Đặc điểm núi non ở Việt Nam đều thuộc loại núi già được trẻ lại. Loại núi già còn khá
phổ biến ở vùng Đông Bắc. Có thể chia địa hình và núi rừng Việt Nam ra thành các vùng như

sau, mỗi vùng có đặc điểm riêng của mình.
1.2.1. Vùng Đông Bắc và Bắc Đông Bắc
1

Phần lớn đều thuộc loại núi già, có độ cao trung bình và thấp dần về phía biển Đông. Đây
là vùng núi có các nếp núi uốn dạng hình cánh cung bao quanh khối núi vòm sông Chảy, mở
rộng về phía tây bắc, quay mặt lồi về phía đông, một đầu chụm lại ở dãy Tam Đảo. Đó là bộ
phận núi phía hữu ngạn sông Chảy gồm các cánh cung đá vôi xen lẫn với núi đá phiến trải từ
thung lũng sông Lô, sông Gâm ra tận bờ biển Quảng Ninh. Dân gian thường gọi đó là các cánh
cung sông Gâm, Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông Triều. Địa hình toàn khu vực có hướng
nghiêng tây bắc - đông nam, tạo cho các con sông, con suối tụ lại trước khi chảy về đồng bằng
như sông Lô, sông Gâm đổ dồn vào sông Chảy ở Đoan Hùng (Phú Thọ) về Việt Trì và các sông
Cầu, sông Thương, sông Lục Nam chảy lèn giữa các cánh cung đổ về Phả Lại (Lục đầu giang)
rồi theo sông Thái Bình ra biển.
Phía tây bắc của vùng Đông Bắc, giáp biên giới Trung Quốc có một số đỉnh núi cao trên
2.000m như đỉnh Tây Côn Lĩnh (2.431m), Kiều Liên Ti (2.403m), Pu Ta Ca (2.274m). Khu
vực thuộc địa phận các tỉnh Yên Bái, Tuyên Quang, phú Thọ, Thái Nguyên đều là đồi núi thấp


1
Những số liệu trình bày trong chương này chủ yếu là số liệu trích từ cuốn "Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lí"
của Lê Bá Thảo - NXB Thế giới, Hà Nội, 1998.
8

dần và thoải rộng chạy ra tận bờ biển Quảng Ninh, Hải Phòng, ở đây có độ cao cách mặt biển
chỉ khoảng 1m. Đặc biệt là, từ đó một bộ phận đồi núi chạy ra biển và bị ngập trong nước biển
tạo ra một vùng Hải đảo với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ khác nhau thuộc địa phận tỉnh Quảng
Ninh mà ta quen gọi là Vịnh Hạ Long. Có thể coi đây là nơi kết thúc của các vòng cung vùng
đông bắc Việt Nam
2

.
Có một điều cần chú ý ở địa hình khu vực Đông Bắc Bộ và vai trò cấu trúc địa chất của
vùng này. Nếu như ở Tây bắc chịu một chế độ địa máng kéo dài từ Nguyên sinh đại đến cuối
Trung sinh đại với các biểu hiện khác nhau theo từng thời kỳ, thì vùng Đông Bắc lại mang
nhiều dấu hiệu chuyển tiếp của một nền hoạt động mà bộ phận phía tây có lịch sử phát triển cổ
hơn phần phía đông. Cấu trúc địa chất của từng bộ phận miền núi rộng lớn này khá phức tạp và
các vận động tân kiến tạo càng làm cho rắc rối thêm.
Nhìn chung, từ sông Lô - Gâm ra phía biển ra phía biển, quang cảnh đã thay đổi hẳn Đấy
là một vùng đồi núi cao trung bình và núi thấp, được phân cách từng đoạn bởi các vòng cung
đá vôi lưng lồi ra biển. Mỗi vòng cung như vậy lại đổ thẳng sườn xuống một thung lũng sông.
Đó là các vòng cung và thung lũng sông sau đây:
- Vòng cung trung lưu sông Gâm với thung lũng sông Cầu, sông Năng.
- Vòng cung Ngân Sơn với thung lũng sông Na Rì, sông Bắc Giang.
- Vòng cung Yên Lạc và thung lũng sông tương ứng.
- Vòng cung Bắc Sơn với thung lũng sông Kinh Thầy, Diễn Vọng.
Riêng thung lũng sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn) lại chảy theo hướng mà rìa khối núi đá
thuộc cao nguyên Vân - Quý chườm lên biên giới Việt - Trung làm cho dải đất này không còn
đi theo hướng chung ra biển mà lại chảy ngược lên phía Bắc. Đây là nơi sinh tụ của các dân tộc
Tày, Nùng, HMông, Dao, Pà Thẻn, Cờ Lao, Pu Péo, La Chí, Lô Lô
1.2.2. Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ (tính từ hữu ngạn sông Thao đến núi động
Ngài - Bạch Mã, Thừa Thiên Huế)
Tự nhiên vùng này có những nét khác biệt khá rõ so với địa hình miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ. Đây là vùng núi hiểm trở nhất địa hình Việt Nam. Núi non trùng điệp, hùng vĩ, có nhiều
núi cao, vực sâu, sườn dốc, lắm thác, nhiều ghềnh. Địa hình toàn khu vực không phải là một khối
núi duy nhất mà có nhiều dãy núi chạy theo hớng Tây Bắc - Đông Nam, so le nhau. Trong đó có
dãy Hoàng Liên Sơn chạy dài trên 200km" gồm nhiều đỉnh cao trên 2.500m, tiêu biểu là đỉnh
Fanxipan (3.143m). ở vùng sông Mã và biên giới Việt - Lào cũng có đỉnh cao tới 3.000m. Xen
giữa các dãy núi có nhiều cao nguyên đá vôi rất đồ sộ. Điển hình là dải cao nguyên đá vôi Ma lu
thang - Mộc Châu vượt sang phía tả ngạn sông Thao cho đến thung lũng sông Chảy. Dải cao
nguyên đá vôi chạy dọc theo sông Đà từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Thanh Hoá dài khoảng

400km, rộng từ 10 đến 25km, cao từ 600m đến 1000m. Các đỉnh núi cao thường phân bố ở phía
biên giới tây bắc thấp dần ra biển. Riêng mạch Trường Sơn (phía nam vùng núi bắc Nghệ An -
Thanh Hoá) chạy từ nam cao nguyên Xiêng Khoảng (Lào) cho đến cực nam Trung Bộ. Trong
thực tế, chỉ có sườn phía Đông của dãy Trường Sơn này là thuộc lãnh thổ Việt Nam thường gọi


2
Lê Bá Thảo: Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lí, Nxb Thế giới, Hà Nội 1998, tr. 8, tr.353.
9

là Trường Sơn Bắc, bắt đầu từ hữu ngạn sông Chu (Thanh Hoá) cho tới khu vực đèo Hải Vân,
gồm nhiều dãy núi chạy song song. Có thể coi dãy Trường Sơn như một cánh cung lớn, mặt lồi
quay ra hướng biển đông và có hai sườn không cân đối, sờn phía Đông dốc xuống biển, còn sườn
phía tây dốc thoai thoải dần tới thung lũng sông Mê Kông (biên giới Lào - Thái Lan). Các mạch
núi vùng này thường chạy đâm ngang ra sát biển, cho nên đồng bằng và thềm lục địa ở đây khá
hẹp, bị cắt xén vụn. Cũng vì thế bờ biển khu vực này khúc khuỷu, gập ghềnh, núi cao trên 2000m
đứng sát các hố biển sâu cũng đến 2000m. Khu vực này ít có các vùng đồi núi thấp và trung du
rõ nét như ở vùng Đông Bắc Bộ. Địa hình nhìn chung tạo ra thế hiểm trở, khó thông thương với
các vùng lân cận, nhưng lại thuận lợi hơn khi giao lưu giữa miền núi và miền xuôi do hướng núi
và sông suối tạo ra.
Khu vực bắc Trường Sơn (Đông Trờưng Sơn) là một hệ thống núi và cao nguyên có cấu
trúc phức tạp. Trong đó có các đỉnh núi cao được tạo nên bởi đá granit như đỉnh Pu lai leng
(2.711m), Rào Cỏ (2.235m) và dãy núi đá vôi Kẻ Bàng - Khe Ngang - Quảng Bình) là một
trong những khối núi hiểm trở nhất Việt Nam, nó còn kéo dài sang tận khu vực tỉnh Khăm
Muộn (Lào). Các dãy núi ở Trường Sơn Bắc có vài nhánh núi nằm ngang đâm thẳng ra biển
tạo thành các hoành sơn chia cách các đồng bằng ven biển ra thành nhiều ô và cản trở giao
thông Bắc - Nam.
1.2.3. Miền Nam Trung Bộ (Trường Sơn Nam)
Bắt đầu từ núi Động Ngài và Bạch Mã (thuộc khu vực đèo Hải Vân) xuống đến địa đầu
miền đất cao đông Nam Bộ. Đây là một vùng sơn nguyên đồ sộ (còn gọi là địa khối cổ

Inđônêxia) và địa máng rộng lớn ở rìa phía Nam. Trong đó, nổi lên là các cao nguyên đất đỏ
bazan có dạng xếp tầng, chênh lệch nhau tới 500m. Đây là một vùng núi và cao nguyên xen kẽ
nhau rất phức tạp ở phía bắc Kon Tum và Tây Quảng Ngãi núi non đồ sộ với đỉnh granit Ngọc
áng (còn được gọi là Ngọc Linh) cao nhất miền Nam (trên 2000m như Ngọc Niay, Ngọc Pan,
Ngọc Krinh). Ở đây còn có một loạt các cao nguyên xếp tầng ở cực nam như cao nguyên Lâm
Viên, Bảo Lộc, Di Linh, Đắc Nông, Plâycu, Buôn Mê Thuộc, Đà Lạt Chen vào giữa các dãy
núi và cao nguyên đó là những vùng đất tương đối bằng phẳng, bề mặt lượn sóng cao trung
bình từ 500 - 800m cách mặt biển. Đó là vùng đất đỏ bazan với tâm điểm là vùng Buôn Mê
Thuột.
Nhìn chung, núi non vùng Nam Trường Sơn là một miền núi và cao nguyên, đồi cùng các
thung lũng xen kẽ nhau rất phức tạp, tuy nhìn bề ngoài có vẻ đơn giản. Đến đây có thể coi là
vùng kết thúc các dãy núi cao ở Việt Nam. Qua những mô tả trên, chúng ta nhận ra rằng địa
hình và núi đồi Việt Nam khá phức tạp và đa dạng. Có vùng đồi núi cao trập trùng như vùng
Tây Bắc với ngọn Fanxipan cao hơn 3000m hay Bắc Trường Sơn có đỉnh Pu lai leng cao hơn
2000m cũng có vùng núi thấp thoai thoải đổ ra biển như vùng Đông Bắc và cũng có nơi núi đồi
bị cắt xén, tạo thành những vụng sâu như vùng biển miền Trung. Xen vào đó là những cao
nguyên có độ cao đến 1000m như Mộc Châu (Sơn La), Bắc Kon Tum và Tây Quảng Ngãi có
ngọn Ngọc Áng cao trên 2000m, xếp thành nhiều tầng như các cao nguyên Lâm Viên, Bảo
Lộc, Di Linh, Đắc Nông, Buôn Mê Thuộc Phần lớn đó là địa bàn sinh tụ của các dân tộc
thiểu số ở nước ta.
10

1.3. Sông ngòi, ao hồ.
Có thể nói Việt Nam là một lãnh thổ bao gồm một mạng lưới sông ngòi, ao hồ dày đặc.
Với 70% diện tích là đồi núi, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.900mm, đạt tới 643 tỷ
m
3
nước và khoảng 50% lượng nước đó đã tạo ra các dòng chảy sông suối đọng lại thành các
ao hồ. Bên cạnh đó, khối lượng nước từ các vùng lân cận của các con sông Hồng, sông Đà bắt
nguồn từ Trung Quốc, sông Mê Kông từ Campuchia, Lào cũng đổ vào các dòng chảy ở Việt

Nam khoảng 132 tỷ m
3
nước một năm, làm cho sông ngòi Việt Nam có nhiều nước quanh năm.
Hiện nay, Việt Nam có 2. 860 con sông có chiều dài từ l0km trở lên. Dọc theo bờ biển cứ
khoảng 20km lại có một cửa sông. Tuy sông lớn chỉ chiếm khoảng 8% và thường thuộc về
phần hạ lưu, nhưng nguồn nước khá dồi dào. Phần lớn là sông nhỏ, ngắn và có độ dốc khá cao.
Hướng chảy của hầu hết các con sông, suối chủ yếu là hướng tây bắc - đông nam. Nhưng, cũng
có một số sông chảy theo hướng vòng cung, uốn dòng theo các cánh cung của núi như sông
Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Riêng sông Kỳ Cùng lại chảy ngược theo hướng Nam -
Bắc.
Ngoài sông Hồng và hệ thống sông Cửu Long là loại sông lớn có lưu vực từ 10.000km
2

và tổng lượng nước từ 70 đến 80 tỷ m
3
, còn có một số hệ thống sông khác tương đối lớn. Đó là
hệ thống các sông Thái Bình, Kỳ Cùng - Bằng Giang, sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn, sông
Ba (hay Đà Rằng), sông Đà và sông Đồng Nai. Riêng hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long
đã chiếm đến 40% diện tích các lưu vực và 15,5% tổng lượng nước có được trong nội địa.
Hàng năm, hệ thống sông Hồng đổ ra biển khoảng 122 tỷ m
3
nước, sông Cửu Long khoảng
1.400 tỷ m
3
.
Do ở Việt Nam có mùa lũ và mùa cạn, cho nên lượng nước chảy trong năm phân phối
không đều (riêng mùa lũ lượng nước chiếm tới 70 - 80% tổng lượng nước cả năm). Ngoài việc
cung cấp đủ nước tới cho các cánh đồng, sông ngòi Việt Nam còn có lượng phù sa khá lớn, trong
đó sông Hồng có lượng phù sa lớn nhất (trung bình khoảng 1000m
3

). Hàng năm lượng cát bùn
sông Hồng tải ra biển khoảng 200 triệu tấn. Vào mùa lũ, lượng phù sa sông Hồng đạt tới
10000g/m
3
nước.
Những con sông thuộc loại trung bình có khoảng 116 sông và diện tích lưu vực từ 500km2
đến dưới 10000 km
2
. Tính ra, có tới 17 hệ thống sông thuộc loại này. Trong đó, lớn nhất là sông
Gianh và sông Trà Khúc, nhỏ nhất là sông Cái (Phan Thiết) và sông Ba Kỳ . Lượng nước dao
động từ 1 đến 8 tỷ m3 nước. Tuy các con sông lớn và sông trung bình trên đây đóng một vai trò
quan trọng trong việc cung cấp nước cho những đồng bằng châu thổ, nhưng nhờ 2.170 con sông,
suối nhỏ khác với diện tích lưu vực dưới 1000 km
2
(chiếm 95,55% sông suối cả nước) mới thực
sự có giá trị. Hệ thống sông suối này đã làm cho toàn bộ lãnh thổ, kể cả miền núi và trung du đ-
ược hưởng tác dụng tốt lành của các dòng chảy.
Nhìn chung, mật độ sông suối cho thấy phần lớn lãnh thổ đạt từ 0,5 đến 1 km/km2: Mật
độ đó được phân bố khá đồng đều ở cả miền núi lẫn đồng bằng. Trong đó, cao nhất là khu vực
Đông Nam châu thổ sông Hồng và sông
Thái Bình cũng như đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, còn thấy ở Móng Cái (Quảng
Ninh), vòm sông Chảy (Lào Cai, Yên Bái) và khu vực đèo Ngang, đèo Hải Vân đều có nhiều
sông suối. Những khu vực có mật độ sông suối thấp nhất (dưới 0,5 km/km
2
) là cao nguyên
11

Đồng Văn, Mộc Châu, Kẻ Bàng, Bắc và Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, Thuận Hải và Đông
Nam Bộ. Đây là những vùng ít mưa, nước bốc hơi lớn và có nền nham thạch là đá vôi, cát hoặc
đất bazan. Có thể nói, mạng lưới sông ngòi Việt Nam khá dày đặc, ngoài việc cung cấp nguồn

nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt, nó còn là mạng lưới giao thông quan trọng ở các
vùng, miền trên đất nước ta. Đặc biệt là, mạng lưới sông ngòi, nhất là các sông lớn đã, đang trở
thành nguồn năng lượng (than trắng) dể phát triển hệ thống thuỷ điện trong cả nước.
Đồng thời với hệ thống thủy điện còn là các công trình thuỷ lợi cũng được chú trọng và
phát triển mạnh. Có hệ thống công trình thuỷ lợi địa phương, có hệ thống thuỷ lợi với quy mô
vùng (Bắc Hưng Hải), phá Tam Giang hay quy mô cỡ quốc gia như đập thủy điện Thác Bà
(sông Chảy, Yên Bái), đập thuỷ điện Hoà Bình (sông Đà, Hoà Bình), rồi đây sẽ là đập thuỷ
điện Na Hang (sông Gâm, Tuyên Quang) hay đập thuỷ điện Tạ Bú (Sơn La); trong Nam có
thuỷ điện Yaly, sông Hinh, sông Se-rê-pốc Các công trình thuỷ điện đó đã tạo nên khá nhiều
hồ chứa nước nhân tạo phục vụ cho sinh hoạt và sử dụng của các vùng .Ngoài ra, hệ thống ao
hồ tự nhiên cũng rải rác khắp nơi. Trong đó, tiêu biểu là các hồ, đầm lớn như hồ Ba Bể (Bắc
Kạn), hồ U - va (Điện Biên), hồ Thiêng (còn gọi là hồ thuồng luồng) ở Plâycu hay đầm Ông
Tong, đầm Ô Loan Đây cũng là những nơi chứa nước dự trữ cho mùa khô hạn ở những nơi
này, đồng thời cũng là nơi cung cấp thuỷ sản khá lớn cho các địa phương.
1.4. Đồng bằng
Việt Nam có hai đồng bằng lớn là đồng bằng Bắc bộ (châu thổ sông Hồng) và đồng bằng
Nam Bộ (châu thổ sông Cửu Long). Ngoài ra, tại các lưu vực sông suối, các thung lũng, bồn
địa trước núi cũng có nhiều đồng bằng nhỏ (có thể gọi là các cánh đồng) rải rác ở khắp nơi. Ví
dụ, ở vùng Tây Bắc có 4 cánh đồng lớn: nhất Thanh (Điện Biên), nhì Lò (Nghĩa Lộ - Yên
Bái), tam Than (Than Uyên - Lai Châu) và tứ Tấc (cánh đồng Quang Huy, Phù Yên - Sơn La).
ở tỉnh Hoà Bình cũng có các cánh đồng (nhất Bi - Tân Lạc, nhì Vang - Lạc Sơn, tam Thàng -
Kỳ Sơn và tứ Động - Kim Bôi). Ở các huyện miền xuôi Thanh Hoá, Nghệ An cũng có những
cánh đồng màu mỡ. Tuy vùng Tây Nguyên phần lớn cao nguyên, nhưng xen vào đó cũng có
một số cánh đồng đáng kể. Đây là các đồng bằng được tạo nên bởi hai con sông Đồng Nai và
Vàm Cỏ, vùng đồng bằng rìa của đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt là vùng duyên hải từ
Quảng Ninh đến tận Phan Thiết cũng có những đồng bằng ven biển. Hầu hết các cánh đồng
này đều dài, nhưng hẹp chiều ngang và bị cắt xén nhiều. Trong đó, điển hình là các cánh đồng
ven biển từ Thanh Hoá đến Phan Thiết được tạo nên do lưu vực các con sông, con suối chảy từ
dãy Trường Sơn xuống biển. Đặc tính của các cánh đồng này phản ánh đầy đủ tính chất của
một châu thổ thuỷ triều nên thường nhiễm mặn. Tuy nhỏ hẹp, nhưng các cánh đồng này cũng

cung cấp đủ lương thực cho địa phương. Tuy nhiên, chỉ có đồng bằng châu thổ sông Hồng và
châu thổ sông Cửu Long mới thực sự là hai vựa lúa của cả nước.
1.4.1. Đồng bằng sông Hồng
Đồng bằng sông Hồng có 1.100.000 ha trồng lúa một vụ, có 500.000 ha trồng được hai
vụ trong tổng số 1.600.000 ha diện tích trồng lúa trong một năm. Nhưng, do nhiều lý do, nhất
là việc mở rộng thành phố và khu dân cư, nên đến năm 1994, cả đồng bằng Bắc Bộ chỉ còn lại
hơn 900.000 ha đất nông nghiệp, trong đó chỉ còn khoảng 650.000 ha trồng lúa (có 75% diện
tích trồng được 2 vụ) .
12

Cho tới nay, diện tích toàn châu thổ sông Hồng có khoảng 150.000 <m2 được bồi tụ bởi
phù sa nhiều con sông, chủ yếu là sông Hồng và sông Thái Bình. Đây cũng là địa bàn tụ cư
sớm nhất của người Kinh. Trong thực tế, chỉ có 8 tỉnh được tính vào điện tích của đồng bằng
sông Hồng. Đó là Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây, Thái Bình, Nam Hà và
Ninh Bình.
1.4.2. Đồng bằng sông Cửu Long
Do hệ bồi đắp của 9 nhánh sông nhỏ thuộc hệ thống sông Mê Kông tạo nên với diện tích
khoảng 40.000m
2
(gấp 3 lần cánh đồng Bắc Bộ). Địa hình vùng châu thổ này thấp, thường
nhiễm mặn khoảng 1/3 diện tích và hàng năm phát triển ra biển (vùng Cà Mau) khoảng từ 60m
đến 80m. Trong đó, vùng Đồng Tháp Mười của tứ giác Long Xuyên mới thực sự là châu thổ
Sông Cửu Long và là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam.
1.5. Nguồn tài nguyên
1.5.1. Tài nguyên rừng
Rừng Việt Nam là loại rừng rậm, nhiều tầng tiêu biểu cho rừng nhiệt đới. Ngoài ra, ở vào
những vĩ độ khác nhau nên một số nơi còn có kiểu rừng cận nhiệt đới trên núi cao, rừng ngập
mặn của các loại cây sú, vẹt, trang, đước ở ven biển và Tây Nam Bộ . Ở các khu rừng nhiệt đới
và cận nhiệt đới thường có nhiều loại gỗ quý như đinh lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, nghiến, trắc, pơ
mu, lát hoa với khoảng 12.000 loại thực vật bậc cao. Riêng cây dược liệu có 1.500 loài. Ngoài

ra, còn có các loại lâm sản khác như nấm hương, nấm linh chi, mộc nhĩ, mật ong. . . Về động vật
rừng có tới 1.000 loài chim, 300 loài thú thường gặp như hươu, nai, sơn dương, các loại khỉ,
gấu còn có các loại thú quý hiếm như hổ, tê giác, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ Hiện
nay, rừng Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, nhiều động vật quý hiếm đang bị khai thác, săn bắn
lén, nên gỗ và chim cùng một số loài thú hiếm ngày càng cạn kiệt, nhiều loại thú có nguy cơ bị
tuyệt chủng.
1 5.2. Tài nguyên thuỷ, hải sản
Việt Nam có đủ các loại nước ngọt, lợ và mặn, nơi sinh sống ưa thích của nhiều loại
thuỷ, hải sản quý hiếm. riêng biển đã có 6.845 loại động vật, trong đó cá có 2.038 loài, 300 loài
cua, ốc, 75 loài tôm, 7 loại mực, 653 loài rong biển Nhiều loại cá ngon, giá trị dinh dưỡng
cao nh cá thu, cá chim, cá mực hay nhiều loại nhuyễn thể quý như hải sâm, sò, sò huyết ngao,
trai ngọc Tài nguyên biển với nguồn nước biển vô tận còn là kho muối ăn không bao giờ cạn.
Đặc biệt, biển còn là nguồn năng lượng và phương tiện giao thông vô giá. Đấy là còn chưa kể
dưới đáy biển còn thường có các mỏ dầu với trữ lượng lớn, các vùng, vịnh ven biển còn là
những hải cảng lớn có giá trị kinh tế, chính trị , quân sự. . . của đất nước . Có thể nói, biển
chính là nguồn tài nguyên vô tận của đất nước. Biển Việt Nam đã được khẳng định vùng lãnh
hải rộng 12 hải lý , và vùng đặc quyền kinh tế gồm 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích
biển Việt Nam rộng gấp nhiều lần diện tích đất liền trong biển Đông, một vùng biển lớn, kín
thuộc biển Thái Bình Dương . Đặc điểm của biển Việt Nam là loại biển nóng quanh năm, độ
mặn trung bình 34%. Phần lớn chế độ thuỷ triều khá phức tạp, có hai dòng hải lưu hướng Đông
Bắc - Tây Nam phát triển mạnh trong mùa đông, một dòng hải lưu hướng Tây Nam - Đông Bắc
phát triển mạnh vào mùaa hạ. Cả hai dòng hải lưu đó hợp thành một vòng thống nhất và tạo điều
kiện cho sự hội tụ của nhiều loại hải sản, thuận lợi cho việc đánh bát cá quanh năm.
13

Biển Việt Nam còn là khu danh lam thắng cảnh tự nhiên vô giá bởi khoảng 4.000 hòn
đảo, trong đó riêng vịnh Bắc Bộ đã có tới 3.000 đảo lớn nhỏ tạo nên vịnh Hạ Long - di sản tự
nhiên của thế giới. Gần bờ biển Trung Bộ có hàng trăm đảo lớn nhỏ như Hòn Mê, Hòn Mát,
Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn 'Tre, Phú Quý và xa hờn là các quần đảo Hoàng Sa,
Trường sa. Cách Vũng Tàu khoảng 100 hải lý có tới 16 đảo lớn nhỏ thuộc địa phận huyện Côn

Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ngoài khơi biển Kiên Giang có đảo Phu quốc, một đảo có diện
tích lớn nhất các đảo ở Việt Nam và nổi tiếng với nước mắm đặc sản cũng như hạt tiêu.
1.5.3. Tài nguyên đất đai, khoáng sản
Do quá trình phong hoá mạnh, sự hình thành đất chủ yếu ở Việt Nam là quá trình feralit.
Đất feralit có thể chia thành hai nhóm: nhóm feralit đồi và đồi trước núi là đất feralit đỏ vàng,
chiếm một diện tích rất lớn, loại đất này có độ phì khá, ít chua nên thích hợp với cây trồng các
loại, kể cả làm ruộng bậc thang cấy lúa nước. Nhưng, nếu bị xói mòn bào mạnh thì loại đất này
sẽ ngày càng bị xấu đi đến mức trơ sỏi đá.
Trên thềm phù sa cổ ven các châu thổ đồng bằng có loại đất feralit nâu hoặc xám, độ phì
kém, dễ bị bạc màu và bị đá ong hoá, đó là loại đất phổ biến ở vùng trung du Bắc Bộ hoặc ở ở
Đông Nam Bộ - Nơi mà tổ tiên người Việt cổ đã định cư sớm từ thời kỳ văn hoá Hoà Bình hay
sớm hơn. Nhóm feralit ở vùng núi thấp gồm đất feralit mùn vàng đỏ, có nhiều mùn hơn do tốc độ
khoáng hoá các chất hữu cơ bị chậm lại vì quanh năm lạnh ẩm. Loại đất này là loại mùn thô nên
có độ chua (PH) cao. ở các vùng cao nguyên hay sơn nguyên miền Bắc thường gặp loại đất
feralit màu nâu đỏ trên núi phì nhiêu hơn nhiều, nhưng phân bố ở diện hẹp. Dù là loài đất nào thì
tính năng của chúng vẫn có thể thích ứng với nhiều loại cây trồng khác nhau ở Việt Nam . Trong
lòng đất Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa dạng, nhiều loại có dự trữ lớn. Một
trong những loại khoáng sản tiêu biểu ở Việt Nam là than đá (dự báo khoảng trên 6 tỷ tấn), dầu
khí (khoảng 3-4 tỷ thùng), khí đốt (khoảng 50-70 tỷ m3), urani (khoảng 200 - 300 nghìn tấn),
kim loại đen, kim loại màu và khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrit. . .) cũng có trữ lượng khá
lớn. Ngoài ra, như phần trên đã nói, Việt Nam là quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích mặt
nước lớn và phân bố đều ở các vùng với mạng lưới sông suối dày đặc. Đây là tiền đề cho sự phát
triển giao thông, thuỷ điện, cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, phục vụ đời sống Bên
cạnh đó hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng khá phong phú, phân bố đều
trong cả nước, phục vụ cho việc bồi dưỡng, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.
Tiềm năng du lịch cũng có thể được xem là một nguồn tài nguyên vô tận của đất nước.
Đó là tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch nhân văn khá dồi dào. Việt Nam là vùng khí hậu nhiệt
đới, cho nên thiên nhiên 4 mùa xanh tươi, địa hình có đủ các loại cần thiết như đồi núi, rừng,
sông suối, thác nước, biển, có (đồng bằng, cao nguyên, duyên hải và vùng trung du. Đặc biệt là,
trong các dãy núi đá vôi đã tạo ra các hang động nổi tiếng như Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng

Bình), động Hương tích (Hà Tây), Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn) Hang Bua (Quỳ Châu -
Nghệ An) , Thẳm Lé (Nghĩa Lộ - Yên Bái) Ngoài ra, còn các loại hồ tự nhiên, hồ nhân tạo,
đầm, phá, thác nước, quần đảo, vịnh biển rất thích hợp với du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, cùng
với lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, hiện nay Việt Nam có tới 2.500 di tích lịch sử' -
văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng như Đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu, Hoa Lư, Kiếp Bạc. . .
Đặc biệt là quần thể di tích cố đô Huế, Phố cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO
công nhận Di sản Văn hoá thế giới. Cho đến nay, du khách đã từng biết đến nhiều danh lam
14

thắng cảnh phân bố khá đều từ Bắc chí Nam. Đó là Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh
Phúc), Ba Vì, Hương Tích (Hà Nội), Tam Thanh (Lạng Sơn), thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba
Bể (Bắc Kạn), Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa
Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà),
Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh), Đầm Sen (Thành
phố Hồ Chí Minh) Cùng với các danh lam thắng cảnh đó còn có nhiều núi non hữu tình, thơ
mộng với khí hậu gần ôn đới, trong lành tạo ra những nơi nghỉ dưỡng lý tưởng.
Những tiềm năng đó đã trở thành nguồn tài nguyên phục vụ co công cuộc xây dựng đất
nưc một cách hiệu quả.
1.6 Khí hậu
Vị trí địa lí Việt Nam thiên về chí tuyến hơn là xích đạo nên có khí hậu nhiệt đới có nền
nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22
0
c đến 27
0
c. Hàng năm có khoảng 100 ngày nắng,
lượng mưa trung bình từ 1 .500 đến 2000 mm, độ ẩm không khí khoảng 80%. Số giờ nắng
khoảng 1.500 - 2.000 giờ với mức xạ nhiệt trung bình năm là 100 kcal/cm
3
. Nhìn chung, Việt
Nam tuy có 4 mùa, nhưng rõ rệt nhất là 2 mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, m-

ưa. ít (khô). Tuy nhiên, do địa hình Việt Nam kéo dài từ 8
0
02' đến 23
0
23' vĩ Bắc nên khí hậu
giữa các vùng cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí có sự khác biệt, đó là khí hậu miền
Bắc (từ đèo Hải Vân ra Bắc) có 4 mùa rõ rệt và khí hậu phía Nam (từ đèo Hải Vân trở vào) chỉ
có 2 mùa mưa và mùa khô .
Do ảnh hưởng của gió mùa và sự phức tạp của địa hình, khí hậu Việt Nam luôn thay đổi
trong năm và giữa các vùng, miền. Tuy nhiên, nét nổi trội của khí hậu cả nước là loại khí hậu
nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm. Với tính chất khí hậu như thế đã tác động khá mạnh tới đời sống
kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường sinh thái của các dân tộc Việt Nam, tạo cho thiên nhiên
và cư dân Việt Nam có những nét độc đáo riêng của mình.
Tóm lại, điều kiện tự nhiên của Việt Nam bao gồm phần đất liền, các hải đảo vùng biển và
vùng trời, nằm trọn vẹn trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, có nhiều tiềm năng thiên nhiên. Việt
Nam nằm ở rìa phía đông của bán đảo Đông Dương, tựa lưng vững chắc vào lục địa Châu Á mênh
HMông về phía Tây Bắc và nhìn ra biển Đông ở phía Tây Nam.
Với đặc điểm tự nhiên như thế cùng với vị trí địa lí đặc biệt của mình, Việt Nam có nhiều
điều kiện thuận lợi để hội nhập vào sự phát triển chung của thế giới.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày địa hình của các vùng lãnh thổ Việt Nam.
2. Đặc điểm khí hậu Việt Nam là gì?
3. Việt Nam có những con sông lớn nào, ở đâu?
4 . Các vựa lúa lớn của Việt Nam?
15

CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM VỀ DÂN TỘC VÀ CÁC TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH THÀNH
PHẦN DÂN TỘC Ở VIỆT NAM


2.1. Khái niệm dân tộc
2.1.1.Quan điểm trên thế giới
Stalin trong tác phẩm: "Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc " viết: "Dân tộc là một khối
người cộng đồng ổn định, thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đông về tiếng nói, về
lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và về hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn hoá "
3
.
Khi xem xét định nghĩa của Stalin cần chú ý thêm hai điều kiện tiền đề. Thứ nhất, dân
tộc là một phạm trù lịch sử của thời đại tư bản chủ nghĩa, trước tư bản chủ nghĩa không có
khái niệm này. Thứ hai, muốn được coi là một dân tộc phải hội đủ 4 yếu tố. ngôn ngữ, lãnh thổ,
kinh tế và văn hoá (chung). Nếu thiếu một trong 4 yếu tố đó sẽ không đủ điều kiện trở thành
một dân tộc. Trên cơ sở quan điểm này, sẽ có nhiều quốc gia chưa có dân tộc với ý nghĩa là
dân tộc quốc gia. Nói khác đi là nhiều quốc gia chưa trải qua thời kỳ tư bản sẽ chưa có khái
niệm dân tộc.
Cho nên, lâu nay về khái niệm này trên thế giới có hai ý kiến. Loại thứ nhất dựa vào định
nghĩa cửa Stalin trên đây, loại thứ hai khi xem xét phải vượt ra khỏi sự ràng buộc của định
nghĩa trên (nhất là phải trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa). Loại thứ hai thường dựa
vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước mà đề ra những kiến giải riêng phù hợp
với thực tế của mình. Việt Nam thuộc loại thứ hai này. Điều đó đã nảy sinh nhiều cuộc tranh
luận về sự hình thành dân tộc Việt Nam.
Theo ý kiến các nhà Sử học Việt Nam thì sở dĩ Việt Nam dùng khái niệm dân tộc (54
thành phần dân tộc) là xuất phát từ truyền thống đoàn kết, thống nhất ý chí chống giặc ngoại
xâm và chống thiên tai mà các dân tộc Việt Nam sớm có sự thống nhất để trở thành một dân
tộc. Hơn nữa, từng tộc người cụ thể cũng đã tự ý thức được điều đó.
Từ năm 1966, cố tổng Bí thư Lê Duẩn đã nêu lên quan điểm khá đặc biệt đầy tính sáng
tạo phù hợp với tình hình Việt Nam. Ông khẳng định như sau: "ở Việt Nam, dân tộc Việt Nam
hình thành từ ngày lập nước, chứ không phải khi chủ nghĩa tư bản nước ngoài xâm nhập vào
Việt Nam)
4
. Ông cũng đã từng nhấn mạnh thêm một cách rõ ràng, cụ thể: "Dân tộc Việt Nam ta

có lịch sử mấy ngàn năm, có ngôn ngữ riêng, phong tục tập quán riêng, cốt cách làm ăn riêng,
phong thái sinh hoạt riêng và có nền văn hoá lâu đời của mình. Tất cả những cái dó tạo nên
truyền thống, tình cảm riêng của dân tộc ta"
Trong tạp chí Dân tộc học, số 2 - 1981, Giáo sư Hà Văn Tấn cũng đã từng khẳng định
thêm: "Dân tộc Việt Nam đã hình thành trong thời kỳ Hùng Vương".,


3
Stalin: Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, Nxb Sự thật - Hà Nội, 1962, tr. 15 Trích theo cuốn "Mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay". Do GS.TS. Phan Hữu Dật (chủ biên),
Nxb Chính trị Quốc gia - Hà Nội, 2001, tr.11.
4
Lê Duẩn: Xây dựng tư tưởng làm chủ tập thể trên lập trường giai cấp vô sản. Trong: Thanh niên với cách mạng
xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1966, tr. 167.
16

Như vậy, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đều cho rằng khái niệm dân tộc không phải là
khái niệm mới có từ khi cùng với sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản như quan điểm của Stalin
mà có từ ngày đầu dựng nước. Vì cộng đồng các dân tộc Việt Nam sớm có sự thống nhất về
ngôn ngữ, văn hoá, tâm lý, phong tục tập quán do đặc điểm tự nhiên, xã hội và lịch sử của
mình. Trong tiếng Việt và quan niệm của nhân dân Việt Nam đều cho rằng khi nói "các dân
tộc Việt Nam " đã bao hàm cả dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số. Đặc biệt là từng dân tộc
(tộc người) trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều tự ý thức được rằng mình cũng là "một
dân tộc " trong đại gia đình dân tộc đó. Như vậy, một cộng đồng dân tộc quốc gia, thậm chí chỉ
là một cộng đồng dân tộc thường bao gồm nhiều nhóm địa phương. Các nhóm địa phương đó
tập hợp lại thành một tộc người nhất định. Ví dụ, ở Việt Nam có nhiều nhóm Nùng, tập hợp lại
thành dân tộc Nùng, người Dao có tới 8 nhóm tạo thành dân tộc Dao hay người Thái cũng bao
gồm nhiều nhóm , ngành tạo thành dân tộc Thái. Các nhóm này tuy mang tính địa phương,
nhưng vẫn có sự thống nhất về ngôn ngữ, ý thức tự giác tộc người. Thậm chí giữa các nhóm đó
không hề có ý phân biệt nhóm này, nhóm khác, ví dụ Thái Đen, Thái Trắng đều tự nhận là ng-

ười Thái Chỉ khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu cố tìm ra những nét khác biệt (thường gọi
là đặc trưng nhóm) để chia họ thành các nhóm khác nhau. Trong thực tế, những điểm khác
nhau đó tự thân các dân tộc này rất ít khi quan tâm và hiểu biết về chúng.
Theo tôi, khi xem xét về khái niệm dân tộc không nên máy móc theo một khuôn mẫu nào
đó, cho dù khuôn mẫu hay các thuật ngữ đó đã trở thành nếp nghĩ quen thuộc, thậm chí được
nhiều người thừa nhận. Bởi vậy, từ thuở dựng nước các dân tộc (nay thường gọi là các tộc ng-
ười "Ethnic ") đã coi mình là "dân tộc" thì cứ theo đó mà gọi. Trong thực tế, với cái nghĩa : "dân
tộc " này cũng đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí mà lý thuyết đưa ra. Ví dụ, tất cả các nhóm Thái
đều nói tiếng Thái (tuy phương ngữ khác nhau chút ít), các nhóm Dao đều nói tiếng Dao hay dù
là HMông Trắng, HMông Xanh, HMông Đen…đều vẫn có chung tiếng HMông. Dù các phương
ngữ có khác nhau tí chút thì người Thái vẫn thích ăn các món ăn như nhau, người Dao vẫn có tập
quán ăn giống nhau Đặc biệt là, dù ở đâu, thậm chí quốc gia nào, chế độ chính trị nào họ vẫn đều
tự nhận mình là người Thái như trường hợp dân tộc Thái chẳng hạn hay người HMông, người
Dao cũng vậy.
Nếu căn cứ vào các tiêu chí xác định tộc người thì họ vẫn có đủ các tiêu chí cùng chung
tiếng nói, chung cơ sở kinh tế, chung các sinh hoạt văn hoá, giống nhau về phong tục tập quán,
thậm chí khá giống nhau về tâm lý. Ví dụ: cho dù ở đâu, người HMông vẫn cứ là người
HMông, "cái lý " người HMông ở đâu cũng giống nhau, khá ổn định.
Cho nên, khi xem xét các khái niệm nên tôn trọng cái cụ thể, cái đang có thật trong nhân
dân chứ không nên lệ thuộc vào các lý thuyết, nhiều khi rất đúng với nơi này, dân tộc này, nh-
ưng lại không đúng, thậm chí xa lạ với dân tộc khác nơi khác. Các lý thuyết đều được sinh ra
từ một môi trường, một cơ sở thực tế cụ thể, đem vận dụng lý thuyết đó cho mọi nơi, mọi chỗ
là sai phương pháp luận và không có cơ sở khoa học. Vì khoa học là cụ thể. Cũng như thế, khi
đem áp dụng khuôn mẫu này (cả lý thuyết lẫn thực tiễn) của nơi này vào nơi khác cũng đều
mang tính Chủ quan của người vận dụng: Vì thế? có thể đúng với nơi này mà không đúng,
thậm chí còn sai với nơi khác.Vì vậy đem khái niệm "dân tộc " hay "tộc người " của phương
Tây, của tiếng Tây vào thực tiễn Việt Nam là không khoa học và cũng không thực tiễn. Đúng
hơn, ở đây là đem áp đặt các khái niệm đó vào một nơi xa lạ với các khái niệm đó là một việc
17


làm khiên cưỡng, mang tính chủ quan. Hơn nữa, điều đó còn tự hạ thấp các giá trị vốn có hàng
ngàn năm của cư dân bản địa xuống thấp hơn giá trị các nơi sinh ra các khái niệm đó.
2.1.2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc
Theo từ điển tiếng Việt, dân tộc là một "cộng đồng người hình thành trong lịch sử có
chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hóa và
tính cách". Cuốn từ điển tiếng Việt còn giải thích thêm cụ thể hơn về khái niệm dân tộc. Dân
tộc là "Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống
kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử và sau bộ lạc"
5
. Đoạn tiếp theo, cuốn Từ điển trên
còn giải thích thêm: Dân tộc là "cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống
văn hóa và truyền thống đấu tranh chung".
Như vậy, theo Từ điển tiếng Việt, dân tộc trước hết là một cộng đồng người, cộng đồng
đó được hình thành trong lịch sử, có chung một lãnh thổ và có sự thống nhất về kinh tế, văn
hóa Nhưng, trong thực tế có một số dân tộc lại sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ
dân tộc Thái, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Anh hay nhiều dân tộc Châu Âu khác lại sinh sống ở
nhiều nước khác nhau. Thậm chí, giữa các nước đó còn khác nhau về chế độ chính trị, tôn giáo,
văn hóa và trình độ phát triển kinh tế, hoàn cảnh lịch sử khác nhau Cho nên, có thể thấy định
nghĩa trên chỉ đúng trong một phạm vi một quốc gia mà cụ thể hơn là trong phạm vi một tộc
người (Ethenic). Nói đúng hơn các khái niệm trên chỉ phù hợp với một số quốc gia nhất định
theo quan điểm riêng của họ, ví dụ như Việt Nam có 54 dân tộc (thực ra là 54 tộc người).
2.2. Các tiêu chí xác định tộc người
2.2.1.Các tiêu chí ở các nước trên thế giới
Từ năm 1979, các tiêu chí xác định tộc người (dân tộc) ở nước ta đã được thực hiện. Giới
dân tộc học Việt Nam thường dựa vào 4 tiêu chí truyền thống: ngôn ngữ, lãnh thổ, cơ sở kinh
tế, đặc tưrng văn hoá và ý thức tự giác tộc người . Thực ra, các tiêu chí này đều căn cứ theo ý
kiến của Stalin từ năm 1913 gắn với lý luận về dân tộc và đường lối chính trị, chính sách dân
tộc của các quốc gia. Tuỳ từng nước mà các tiêu chí này được vận dụng thích hợp.
Ở Trung Quốc, vấn đề này xuất phát từ ý kiến chỉ đạo của Mao Trạch Đông: "Về chính

trị, không nên phân nhóm nào là dân tộc, nhóm nảo là bộ tộc hoặc bộ lạc. Vì thế, Việc XÁC
định thành phần các dân tộc không hoàn toàn theo định nghĩa của Stalin, nhưng lại lấy định
nghĩa của Stalin làm lý luận chỉ đạo, kết hợp với tình hình cụ thể của Trung Quốc. Cho nên,
ngoài 4 tiêu chí chung theo định nghĩa của Stalin, ở Trung Quốc còn thêm tiêu chí thứ 5 là
"cùng chung tố chất tâm lý ".
Đối với Việt Nam, tuỳ một số người vẫn chỉ ảnh hưởng khái niệm dân tộc của Stalin,
nhưng đã phủ định điều kiện tiền đề của Stalin là phải kinh qua sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản mới xuất hiện dân tộc. Nếu căn cứ vào điều kiện tiên quyết này thì nhiều nước trên thế giới
sẽ không có dân tộc, ngay cả Trung Quốc và Việt Nam cũng nằm trong tình trạng như vậy.
Thực ra, ở nhiều quốc gia không cần đợi đến sự ra đời cửa chủ nghĩa tư bản mà khái niệm dân
tộc cũng đã hình thành. Ở Việt Nam nhiều học giả đã cho rằng, dân tộc Việt Nam đã hình


5
Từ điển tiếng Việt - sđd tr.239
18

thành trong lòng chế độ phong kiến. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã từng khẳng định "dân
tộc Việt Nam hình thành từ khi lập nước. Những nhận xét đó đều bắt nguồn từ thực tiễn Việt
Nam. Nếu giả sử không có dân tộc Việt Nam thì làm sao Việt Nam có đủ sức mạnh cả vật chất
lẫn tinh thần để có thể chống lại được các đế chế phương Bắc thời phong kiến và các đế quốc
phương Tây ở các thời kỳ cận, hiện đại. Hơn nữa, cho đến nay sức mạnh thống nhất dân tộc đó
vẫn tiếp tục đưa Việt Nam phát triển không ngừng.
2.2.2.Các tiêu chí ở Việt Nam
Gần đây, giới Dân tộc học Việt Nam đã xem xét lại cụ thể hơn các tiêu chí xác định tộc
người. Nếu trước đây các tiêu chí được sắp đặt theo trật tự của định nghĩa mà Stalin đa ra thì
nay trật tự đó đã thay đổi để phù hợp với thực tế. Hơn nữa, trước đây có 4 tiêu chí thì nay chỉ
còn 3 tiêu chí. Các tiêu chí đó được sắp xếp như sau :
- Ý thức tự giác tộc người .
- Ngôn ngữ tộc người.

- Văn hoá tộc người (cụ thể là đặc trưng văn hoá tộc người)
Trong xu thế hội nhập của thế giới hiện nay, các vấn đề mà tiêu chí xác định tộc người đ-
ưa ra trước đây đã thay đổi khá nhiều. Trước đây, ngôn ngữ được xác định là tiêu chí hàng đầu
thì nay hiện tượng một dân tộc có thể nói nhiều thứ tiếng hoặc một thứ tiếng có thể được nhiều
dân tộc sử dụng là hiện tượng phổ biến. Nếu căn cứ vào tiếng nói để xác định dân tộc đó thuộc
dân tộc nào thì không còn chính xác nữa, vì hiện tượng phức tạp trên đây. Cùng trong xu thế
hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, thì các yếu tố văn hoá đã chịu sự tác động, ảnh hưởng khá
mạnh. Cho đến nay, nhiều yếu tố văn hoá, nhất là trong lĩnh vực văn hoá vật chất như ăn, ở,
mặc đã trở thành yếu tố chung của cả nhân loại. Tuy nhiên, trong quá trình biến đổi này còn
lại ý thức tự giác tộc người là tiêu chí có thể tin cậy được hơn. Dù bên ngoài hình thức dân tộc
có thể biến đổi (kể cả kinh tế, văn hoá đến lãnh thổ tộc người) thì riêng ý thức về tộc người vẫn
còn lại khá bền vững. Cho nên, hiện nay căn cứ vào những thực tế đó tiêu chí ý thức tự giác tộc
người được đưa lên hàng đầu. Trong xu thế hội nhập hiện nay, chỉ còn ý thức tự giác tộc người
là tiêu chí đáng tin cậy nhất. Với quan điểm mới này, vấn đề xác định tộc người đã có thể có
sức thuyết phục hơn, đáng tin cạy hơn. Với 3 tiêu chí trên, việc xác định tộc người ở Việt Nam t-
ưởng đã được giải quyết xong. Nhưng, trong thực tế lại nảy sinh một số vấn đề phức tạp hơn. Với
bảng xác định thành phần dân tộc năm 1979, tiêu chí ngôn ngữ được xem là căn cứ hàng đầu. Các
dân tộc cùng ngữ hệ thường được xếp vào một dân tộc như dấn tộc Bru - Vân Kiều (gồm người
Vân Kiều, người Bru, người Pa Cô, Pa Hy ) hay dân tộc Phù Lá (gồm Phù Lá Hán và Phù Lá Lão
- Xá Phó). Trong thực tế, văn hoá các nhóm này khá khác nhau. Người phù Lá Hán mặc kiểu trang
phục Hán, còn người phù Lá Lão (Xá Phó) lại có đặc trưng riêng của mình hoàn toàn khác người
phù Lá Hán. Trong khi Phù Lá Hán nói tiếng Quan hoả thì người Xá Phó vẫn giữ tiếng nói truyền
thống của tộc người
Với kiểu xác định như trên, hiện nay nhiều tộc người muốn tách riêng thành một dân tộc.
Khi lấy tiêu chí ý thức tự giác dân tộc người lên hàng đầu đã nảy sinh thêm vấn đề dân tộc nào,
dù nhỏ mấy cũng muốn tách riêng thành dân tộc. Điều này làm cho vấn đề xác định tộc người
thêm phức tạp và khó khăn hơn . Có một thực tế nữa cũng gây ra sự phức tạp trong việc xác định
thành phần dân tộc . Trong thực tế, hiện nay có một số dân tộc tuy tự gọi là dân tộc riêng của
19


mình như các trường hợp dân tộc Kháng, dân tộc Xinh Mun, hay dân tộc La Ha (ờ Tây Bắc), nh-
ưng ngôn ngữ, văn hoá của họ lại hầu như của người Thái. Các dân tộc này vẫn được công nhận
là một dân tộc, nhưng từ lâu họ đã nói tiếng Thái (nhất là Thái Đen), ăn, ở, mặc như người Thái.
Thậm chí, cả bài cúng và các loại ma cũng la ma người Thái Tình trạng này làm phức tạp thêm
cho việc tìm hiểu nghiên cứu. Trong đó nhiều người (nhất là thế hệ trẻ) đã không còn biết gì về
tiếng nói, văn hoá của dân tộc mình tuy lý lịch họ vẫn khai là dân tộc này dân tộc khác.
Tóm lại, cho đến nay, vấn đề xác định thành phần dân tộc vẫn còn nhiều việc bất cập,
nhất là trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, khiến cho việc xác định cụ thể từng dân
tộc theo các tiêu chí đã đề ra quả là phức tạp thêm. Vì thế, các tiêu chí xác định dân tộc vẫn cần
phải tranh luận thêm trên cơ sở thực tiễn của xã hội hiện đại.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái niệm dân tộc và vấn đề dân tộc ở Việt Nam.
2. Các tiêu chí xác định thành Phần dân tộc trên thế giới và Việt Nam
20

CHƯƠNG 3: THÀNH PHẦN VÀ SỰ PHÂN BỐ CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM

Theo bảng xác định thành phần các dân tộc Việt Nam 1978
6
các dân tộc Việt Nam thuộc
4 ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á. Đó là các ngữ hệ Nam á, gồm 3 nhóm ngôn ngữ: Môn - Khơme,
HMông - Dao và Việt - Mường; Ngữ hệ Thái- Kađai gồm nhóm ngôn ngữ Thái và các dân tộc
nói tiếng Ka-đai; Ngữ hệ Mã Lai (Pôlinêdiên) (Mã Lai - Đa đảo) và ngữ hệ Hán - Tạng gồm
các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hán - Hoa, các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến.
3.1. Các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á
Gồm 3 nhóm ngôn ngữ là nhóm Môn- Khơme, nhóm Việt - Mường và nhóm ngôn ngữ
HHMông - Dao. Trong mỗi nhóm đó lại gồm các dân tộc (tộc người) cụ thể như sau:
3.1.1. Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme
Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme sinh sống trải dọc theo chiều dài đất

nước từ miền núi Tây Bắc xuống Bắc và Nam Trường Sơn rồi đến tận đồng bằng Nam Bộ (chủ
yếu tập trung ở tỉnh Sóc Trăng). Nhóm ngôn ngữ này không xuất hiện ở các tỉnh Đông Bắc.
3.1.1.1. Nhóm ngôn ngữ Môn- Khơme Tây Bắc
Gồm các dân tộc Khơmú: Có tên gọi là Kmu, Kwm, Kwm Mụ và nhiều tên gọi khác như
Xá Cẩu, Klẩu, Mãng Cẩu, Tày Hạy, Mứn Xen, Pu thênh, Têng.
Hiện nay tên gọi chính thức là Khơ Mú .Tính đến tháng 4 - 1999, dân tộc Khơ Mú ở Việt
Nam có 28,842 người. Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Lai Châu (cũ) 14.894 người, Sơn La 9.950
người, Yên Bái 1.176 người, Lào Cai 2.822 người, còn lại là ở Thanh Hoá, Nghệ An và một số
nơi khác.
Người Khơ Mú là một trong số các tộc người khá thống nhất về văn hoá truyền thống,
tuy họ phân chia thành các nhóm địa phương khác biệt, tuy họ có thể phân bố ở nhiều nơi,
nhiều quốc gia khác nhau. Người Khơ Mú sống chủ yếu bằng nghề canh tác nương rẫy. Tụ cư
thành từng bản ở chân núi hay vung lưng chừng núi (nên người Lào Lum gọi họ là người ở
trên: "Phu Thênh). Các dòng họ Khơ Mú. thường mang tên các loài vật như hổ, chim và các
loài thực vật. Hiện nay một số dòng họ được gọi theo người Thái như họ "Rvai tlắp" thành họ
Lương, "Rvai Krlư' thành họ Lự, họ Chim "ôm" thành họ Lò, họ chim "Ric" và "Chndnẹ"
thành họ Tòng Người Khơ Mú sống trong các gia đình nhỏ phụ quyền, có tục nối dây khá
điển hình, nhuộm răng đen, ăn trầu. Có quan hệ văn hoá khá sâu sắc với người Thái Đen.
Dân tộc Xinh Mun; gồm hai nhóm địa phương là Xinh Mun Dạ và Xinh Mun Ngẹt, với
một số tên gọi khác là Puộc, Xá Puộc hay Pnạ. Hiện nay dân tộc Xinh Mun có 17.985 người,
phân bố chủ yếu ở tỉnh Lai Châu (cũ) 1.331 người , Sơn La 16.654 người.
Người Xinh Mun cũng được coi là lớp cư dân bản địa ở Việt Nam. Sinh sống chủ yếu
bằng nghề làm nương rẫy, săn bắn hái lượm, đan lát giỏi. Gia đình nhỏ phụ quyền, có tục lệ ở
rể và được phép quan hệ trước hôn nhân. Nhưng có tục lệ khá đặc biệt là trong thời gian ở rể
cả hai vợ chồng đều phải mang tên mới do ông cậu đặt cho.


6
Viện Dân tộc học: Xác định thành phần các dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1978.
21


Hiện nay dòng họ người Xinh Mun đều gọi theo họ người Thái như họ Lò, họ Lương hay
họ Mè. . . Đặc biệt là cho đến nay người Xinh Mun đều dùng tiếng Thái trong giao tiếp hàng
ngày và các sinh hoạt ăn, ở, mặc . . . đều tiếp thu văn hoá Thái.
- Dân tộc Kháng: tên tự gọi là Mơ Kháng và các tên gọi khác là Hang, Xá Khao, Biển.
Người Kháng có nhiều nhóm địa phương như Kháng Dẩng, Kháng Hoặc, Kháng Dón, Kháng
Súa, Ma Háng, Bư Háng, Ma Háng Bẻng và Bự Háng Cọi. Tuy nhiên, tất cả các nhóm đó đều
tự gọi là người Kháng. Đây cũng là một trong số cư dân sinh sống lâu đời nhất ở Việt Nam như
các cư dân Môn-khơme khác ở Tây Bắc. Năm 1999, dân tộc Kháng có 10.232 người phân bố ở
Lai Châu (cũ) 3.573 người (tập trung ở huyện Mường Tè) , Sơn La 6.54 người (tập trung ở
huyện Thuận Châu). Tuy ở miền núi, nhưng người Kháng là một trong số cư dân giỏi về sông
nước, với chiếc thuyền độc mộc đuôi én, nam nữ người Kháng có thể ngược xuôi sông Đà một
cách thuần thục .
Người Kháng sinh sống bằng nghề canh tác nương rẫy, có nghề làm thuyền độc mộc và đan
lát mây tre nổi tiếng. Người Kháng ở nhà sàn mái khum hình mu rùa nh nhiều dân tộc nhóm Môn -
Khơme khác. Ăn mặc đã tiếp thu nhiều tố Thái. Gia đình người Kháng là gia đình nhỏ phụ hệ, có
tục ở rể và tổ chức cưới hai lần (lần ở rể và lần đón dâu về nhà chồng). Vai trò ông cậu khá lớn
trong quá trình dựng vợ, gả chồng cho các cháu. Bên mộ người chết có cây ph ớn treo vải vóc, các
con giống chim thú và y phục người chết.
Dân tộc Mảng: tên gọi khác là Mảng , Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O với 2 nhóm địa ph-
ương là Mảng Gứng và Mảng Hệ. Tên gọi chính thức là Mảng. Dân tộc Mảng đến năm 1999
có 2.636 người, tụ cư chủ yếu ở huyện Sìn Hồ (Lai Châu) .
Người Mảng làm nương rẫy là chính, nghề đan lát mây tre cũng phát triển săn bắn hái l-
ượm trở thành nghề phụ quan trọng. Gia đình nhỏ phụ quyền, cư trú theo từng họ trong một địa
bàn riêng, quan hệ dòng họ đã mờ nhạt. Xưa kia có tục cúng chung tại nhà trưởng họ "Mom
Đẳm " vào đầu năm mới và sau khi ăn uống chung có tổ chức múa hát, đánh chiêng kéo dài 2,
3 ngày. Tuy hiện nay không còn duy trì tục lệ trên, nhưng "pli đẳm " (ma nhà) vẫn được các
dòng họ, gia đình trân trọng, tôn thờ. Hiện nay đồng bào dùng họ người Thái.
Người Mảng còn có tục lệ cúng bên ngoại 'Tri duộng tẳm tuê " do phụ nữ và anh em bên
ngoại tham dự, còn nhà chồng không được tham gia mà phải lánh đi chỗ khác. Theo tục lệ,

đám cúng này phải cúng ở ngoài nhà như tại một cái lều dựng tạm cạnh nhà ở hay cúng bên bờ
suối. Nếu trường hợp sinh đôi, phải cho đi một đứa trẻ để người xa lạ lấy làm con và cắt đứt
quan hệ hoàn toàn với bố mẹ đẻ.
Như vậy, các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme ở Tây Bắc gồm 4 dân tộc . Họ đều
thuộc các dân tộc được coi là dân bản địa ở Tây Bắc (trừ người Khơ Mú đến muộn hơn). Các
dân tộc này cho đến nay đều có mối quan hệ khá gần gũi với người Thái nhất là người Thái
Đen. Vì thế, hầu hết các sinh hoạt văn hoá và ngôn ngữ họ đều ăn, ở, mặc như người Thái Đen
và nói tiếng Thái Đen. Ngược lại, các nhóm Thái Đen ở Tây Bắc cũng chịu nhiều ảnh hưởng
văn hoá của các dân tộc này .
3.1.1.2. Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme ở Bắc Trường Sơn
- Dân tộc Bru -Vân Kiều: Thực ra đây là một nhóm gồm nhiều tộc người nhỏ sinh sống ở
dãy Trường Sơn (Đông Trường Sơn) như người Bru, Vân Kiều, Măng Cong, Trì, Khùa thuộc
22

các huyện Hướng Hoá, Minh Hoá (Quảng Bình) và một số huyện ở tỉnh Bình Trị -Thiên - Huế.
Dân số của nhóm này tính đến tháng 4 năm 1999 là 55.559 người. Đồng bào sống chủ yếu
bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy, săn bắn hái lượm, du canh du cư. Thôn bản tập trung dọc
các bờ suối hay quây tròn lại trên bãi bằng mà ở giữa là ngôi nhà chung của bản. Loại hình nhà
sàn mái khum hình mu rùa, hai đầu hồi cắm cọc gỗ hay một túm gianh uốn cong hình sừng dọc
đòn nóc chụm vào lòng nhà là đặc trưng nổi bật của ngôi nhà các dân tộc này.
Y phục nam, nữ đều thích màu chàm (mua vải của Lào), trang trí hoa văn trên váy, áo.
Cả nam nữ đều thích hút thuốc lá tự trồng bằng tẩu, răng nhuộm đen, tóc búi sau gáy. Trai gái
tự do yêu đương và kết hôn. Trong đám cưới, nhà trai phải trao cho nhà gái một thanh kiếm và
cô dâu phải trải qua các nghi thức: bắc bếp, rửa chân cho chồng, đến ăn cơm chung với chồng
trước khi ở nhà chồng. ông cậu có vai trò lớn trong gia đình, nhất là trong tục lệ cưới xin và ma
chay. Già làng được tôn trọng. Thờ cúng tổ tiên qua các vật thiêng như thanh kiếm, mảnh bát
vỡ. Đặc biệt coi trọng việc thờ bếp lửa. Dân bản thuộc các họ khác nhau Lễ đâm trâu cúng thần
linh sau khi tuốt lúa xong là lễ trọng nhất của dân tộc này trong một năm. -
- Dân tộc Cơ Tu: Còn có các tên khác là Ca Tu, Cao, Hạ, Phương và Ca Tang (dùng phổ
biến ở các nhóm giáp Lào). Dân số 50.458 người, phân bố ở các huyện Hiên, huyện Giằng (Đà

Nẵng), huyện A Lưới, Phú Lộc (Thừa Thiên Huế).
Trồng trọt trên nương rẫy là nguồn sống chính và được bổ sung bằng việc săn bắn hái lư-
ợm. 'Phụ nữ biết dệt vải và đặc biệt là trang trí hoa văn bằng hạt cườm (hạt cỏ) trên trang phục
của mình. Đàn ông đóng khố có tạp dề che bụng phần chân tạp dề được trang trí hoa văn sặc sỡ
(đen, trắng, đỏ), thân trên choàng tấm khăn dài màu đen hay kẻ sọc đen trắng chéo qua ngực
thay áo. Người Cơ Tu ở nhà sàn mái khum hình mu rùa, đầu dốc có sừng cong xuống bằng cỏ.
Giữa làng có ngôi nhà rông gọi là "gươl" to đẹp làm nơi tụ họp của cả làng. Già làng có vai trò
lớn và cư dân trong làng được cố kết chặt chẽ theo phong tục truyền thống. Gia đình phụ quyền
gồm nhiều anh em sống trong cùng một mái nhà. Nam giới chủ động trong hôn nhân, thường tổ
chức cưới 2 lần. Tục lệ con trai cô lấy con gái cậu và tục nối dây được khuyến khích. Có thể
sinh đẻ ở ngoài lều dựng tạm cạnh nhà hay cạnh bếp lửa trong nhà. Đám ma khá linh đình và
có nhà mồ. Đồng bào có tục dồn mồ sau một thời gian chôn rải rác, gom hài cốt lại chôn chung
trong một mồ. Máu của con vật hiến tế là lễ vật quan trọng nhất trong các cuộc thờ cúng. Lễ
đâm trâu được tổ chức long trọng trong dịp tết và khi dồn mồ. Nghệ thuật trang trí khá phát
triển, nữ thêu dệt trên vải, nam chạm khắc tượng nhà mồ. Nam nữ có các điệu múa riêng với
những làn điệu dân ca khá hấp dẫn cùng bộ gõ sôi động nh chiêng, trống và sáo, đàn nhị.
- Dân tộc Co: Còn có tên gọi khác là Cor, Col, Cùa , Trầu . Dân số có 27.766 người, cư
trú ở hai huyện Trà Mỹ (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi). Nghề sống chính là làm nương
rẫy trồng lúa và các hoa màu phụ. Sản vật tiêu biểu là quế và trầu không, gần đây đã trở thành
hàng hoá có giá trị kinh tế cao.
Người Co ở nhà sàn dài (có khi tới hàng trăm mét), ra vào bằng hai cửa chính ở hai đầu
hồi. Sàn nhà được chia thành 3 phần có hành lang chung chạy giữa nhà, một bên được ngăn
thành từng buồng cho các thành viên gia đình ở, còn một bên dành làm nơi sinh hoạt chung
(tiếp khách, ăn uống, tụ họp, lễ hội, thờ cúng, đan lát, vui chơi ). Phụ nữ mặc áo, váy, áo cộc
tay, nam đóng khố ở trần. Vải vóc phải mua của người Xơ Đăng hay người Kinh. Phụ nữ thích
23

trang sức, đặc biệt các chị thường quấn nhiều vòng hạt cườm trên đầu, cổ chân tay và eo (nay
đã ít người sử dụng).
Già làng có vị trí lớn trong cộng đồng, đóng vai trò quản lý, duy trì sự cố kết của cộng

đồng thông qua quan hệ huyết thống và hôn nhân. Tục lệ cư trú bên nhà chồng. Nếu vợ chết có
thể lấy chị hoặc em vợ, nhưng vợ hoá của anh không được lấy em chồng. Nếu hai anh em
cùng lấy hại chị em gái làm vợ thì anh phải lấy chị và em lấy cô em. Cấm con dì, con già, con
cô con cậu lấy nhau.
Đồng bào quan niệm có thần núi ông, núi Bà và nhiều loại ma khác nhau gắn với các sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, con người Lễ đâm trâu tế thần là ngày hội lớn của cộng đồng
tổ chức sau khi đã tuốt lúa xong. Chiêng, trống, nhị là nhạc cụ truyền thống cùng các làn điệu
dân ca và múa dịp lễ đâm trâu.
- Dân tộc Ơ Đu: còn gọi là Tày Hạt hay Tày Hay, có 301 người, sinh tụ chủ yếu ở hai bản
Kim Hoà và Sốp Pột, xã Kim Đa, huyện Tương Dương (Nghệ An). Đồng bào làm rẫy, săn bắn,
hái lượm để sinh sống, nghề phụ ít phát triển, không biết dệt vải mà chỉ đan lát mây, tre Xưa
kia, người Ơ Đu ở nhà đất, nay nhiều nhà ở nhà sàn. Gia đình nhỏ phụ quyền. Có tục ở rể 3
năm mới đón vợ về ở hẳn bên nhà chồng. Hiện nay người Ơ Đu hầu như đã quên tiếng mẹ đẻ,
để giao tiếp họ dùng tiếng Lào và tiếng Thái, hay tiếng Khơ Mú. Nếp thu văn hoá Thái, Khơ
Mú khá sâu sắc. Phụ nữ Ơ Đu đẻ ngồi, con được tính tuổi từ khi có tiếng sấm trong năm và
được coi là đầy năm để làm lễ đặt tên (tên gọi theo tiếng Thái) . Lễ lớn nhất của cộng đồng
cũng là lễ đón tiếng sấm trong năm.
- Dân tộc Hrê: Còn có tên khác là Krê (gọi theo tên con sông Krế ở Sơn Hà), người Hrê
(sông Hrê ở Ba Tơ), người nước Đinh (sông Đinh ở An Lão). Các tên gọi khác là Chăm Hrê,
Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Luỹ, Mọi Sơn Phòng, Mọi Đá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi
Chàm, Rê, Màn Thạch Bích.
Dân số có 113.111 người sinh sống ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (Quảng
Ngãi); huyện An Lão (Bình Định) và một số huyện Kon Plông (Kon Tum). Người Hrê làm
ruộng nước là chính, các nghề phụ ít phát triển. Nhà ở truyền thống là nếp nhà sàn, cửa mở ở
hai đầu hồi và một cửa gian giữa.
Trên đầu đốc trang trí cặp sừng thú. Vách nhà hơi nghiêng, phía trên to, dưới thót lại. Sàn
nhà phía đầu giường cao hơn phía chân giường. Y phục xưa kia đàn ông mặc khố, đầu chít
khăn, mình trần, phụ nữ mặc váy, áo ngắn; đầu trùm khăn, nay dùng y phục người Kinh. Hai
đầu hồi nhà bỏ trống không thưng vách hay lợp kín.
Xã hội đã phân hoá khá sâu sắc so với nhân dân dân tộc ở Trường Sơn (ruộng đất tập

trung trong tay một số cá nhân, có người ở vì nợ ). Vai trò già làng vẫn được phát huy. Mọi
người đều lấy họ Đinh làm họ của mình.
Trong hôn nhân có lễ trao rượu gắn kết vợ chồng, cư trú bên nhà chồng hay bên vợ là do
thoả thuận. Có tục nối dây; nhưng con cô con cậu, con dì, con già không được lấy nhau. Người
chết được làm mồ giống như nhà ở Tết truyền thống tổ chức vào tháng 10, có tục cúng cho gia
súc. Có lễ đâm trâu như nhiều dân tộc ở Tây Nguyên và lễ đâm trâu cũng là lễ quan trọng nhất
của Hrê. Trong dịp này, nam nữ thi nhau trổ tài múa hát, đặc biệt là biểu diễn các loại nhạc cụ
dân tộc như chiêng, trống hay đàn ống tre,
24

3.1.1.3. Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme Nam Trường Sơn
Gồm các dân tộc như sau:
- Dân tộc Ba Na: có 174.456 người với các tên gọi khác như Tờ lô, Giơ Lơng, Y Lăng, Rơ
Ngao, Krem, Roh, Com Kre, Ala Công, Kpăng Công, Bo Nôm tuỳ theo từng địa phương. Các
nhóm Ba Na sinh sống tập trung ở các tỉnh Gia Lai, Kom Tum, miền tây Bình Định, Phú Yên
và Khánh Hoà. Dân tộc Ba Na là một trong những lớp cư dân sinh sống lâu đời ở vùng Trường
Sơn - Tây Nguyên. Đồng bào đã xây dựng nên một nền văn hoá độc đáo và khá nổi trội ở vùng
này . .
Các nhóm dân tộc Ba Na sinh sống chủ yếu bằng nghề canh tác nương rẫy trồng lúa và
các loại hoa màu khác. Có tập quán chăn nuôi gia cầm, gia súc lâu đời. Gần đây đồng bào đã
biết làm ruộng nước ở những nơi có thể khai phá được. Nghề phụ chủ yếu là nghề dệt vải từ sợi
bông tự trồng , đôi nơi có nghề làm gốm và đan lát mây tre.
Dân tộc Ba Na ở nhà sàn, trên nóc hai đầu hồi trang trí hình sừng, cầu thang bắc ở giữa
nhà. Xưa kia khá phổ biến loại hình nhà dài. Giữa buôn (làng) dựng ngôi nhà chung của làng
gọi là nhà "rông " làm nơi tiếp khách của làng và là nơi ngủ đêm của các chàng trai chưa vợ
cũng như nơi tổ chức các lễ hội, sinh hoạt chung của làng.
Phụ nữ Ba Na mặc váy dài quấn quanh thân, ở hai phần đầu và gấu váy được trang trí
hoa văn kỷ hà, chị em mặc áo ngắn cộc tay không xẻ ngực mà cài cúc trên hai bờ vai, trang trí
hoa văn vạch song song, đơn giản. Phủ ngoài tấm váy trước bụng thường khoác tạp dề, thắt lư-
ng thêu hoa văn sặc sỡ. Các bà già thường đội khăn đen nhuộm chàm, các cô gái trẻ thích buộc

dải vải mầu ngang trán vắt ra bên tai. Đàn ông Ba Na thường mặc khố thêu, mùa rét khoác
thêm tấm vải thay áo.
Tuy là cư dân canh tác nương rẫy, nhưng dân tộc Ba Na lập thành những buôn làng hoàn
chỉnh, có tổ chức xã hội chặt chẽ. Tàn dư mẫu hệ vẫn còn đậm nét, vai trò phụ nữ chi phối
nhiều sinh hoạt gia đình, xã hội, nhất là trong hôn nhân. Tục cư trú bên nhà vợ còn phổ biến, có
nhóm còn tục luân cư trú lúc ở bên vợ lúc ở bên nhà chồng). Vai trò già làng khá quan trọng.
Dân tộc Ba Na cũng là cư dân yêu văn nghệ, các làn điệu dân ca hmon, roi và kể chuyện
sử thi, cổ tích, múa phục vụ nghi lễ khá phát triển và được mọi người yêu thích . Tục chôn
chung một huyệt của các thành viên trong gia đình là khá phổ biến và có nhà mồ trang trí đẹp
với nhiều tượng gỗ (không đặt tượng hướng Tây) sau khi làm lễ bỏ mả. Lễ hội đâm trâu để
cúng Giàng (trời) là lễ hội lớn nhất.
- Dân tộc Xơ Đăng: với các nhóm địa phương như Xơ Đăng, Cà Dong, Tơ dra, Mơ Mâm,
Hà Lăng Dân số là 127.148 người. Sinh sống tập trung ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Đà Nẵng, đặc biệt đông đúc ở Kom Tum.
Hoạt động kinh tế chủ yếu là canh tác nương rẫy. Riêng nhóm Mơ Mâm làm ruộng nước
bằng phương thức dùng trâu bò quần đất rồi cấy lúa. Ngoài ra, việc săn bắn hái lượm phát
triển. Nghề dệt vải có truyền thống từ lâu đời. Nhóm Tơ dra có nghề rèn sắt khá phát triển. Dân
tộc Xơ Đăng có nhà sàn quây quần thành cụm dân cư đông đúc. Trước kia thường ở nhà dài
theo từng đại gia đình, nay có xu hướng tách hộ nhỏ. Giữa làng thường dựng nhà "rông" trang
trí khá đẹp, cầu thang bắc ở đầu hồi khác nhà "rông" người Ê Đê bắc ở gian giữa. Nam giới
25

thường đóng khố, ở' trần, phụ nữ mặc váy, áo ngắn xẻ ngực. Phụ nữ xưa kia thường dùng vỏ
cây làm váy, áo. Mùa rét nam nữ choàng thêm tấm vải thêu, dệt hoa văn trắng, đỏ trên nền đen
chàm. Tục ăn trầu, hút thuốc lá tự chế biến. Có nơi họ nghiền thuốc lá thành bột, lúc cần viên
lại cho vào miệng ngậm chứ không hút tẩu. Nghề đan lát phát triển với nhiều loại gùi khác
nhau như gùi cánh dơi, gùi ốc sên. . . Xã hội dân tộc Xơ Đăng được duy trì bằng chế độ tự
quản với vai trò lớn của già làng và tính cố kết cộng đồng cao. Hôn nhân do nam nữ tự do tìm
hiểu và quyết định, phổ biến tục luân cư, lúc ở bên vợ, lúc ở bên chồng. Trong ngày cưới, cô
dâu, chú rể đưa đùi gà và lợn cho nhau ăn, uống trong cùng một mâm. Người Xơ Đăng không

có họ.
Người Xơ Đăng tin vào sức mạnh siêu nhiên xung quanh mình mà đồng bào gọi là "Kia "
(tạm dịch là thần). Trong đó, thần sấm sét, mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước chiếm vị trí
quan trọng nhất. Từ đó, trong một năm có khá nhiều cuộc cúng bái các lực lượng tự nhiên chủ
yếu để cầu mùa và sức khoẻ. Lễ đâm trâu và lễ cúng thần nước (máng nước) được tổ chức khá
long trọng, mang tính chất lễ hội của cả cộng đồng. Người Xơ Đăng không có lễ bỏ mả như
dân tộc khác ở vùng Tây Nguyên .
Nhạc cụ và văn nghệ dân gian khá phát triển, nhất là trong dịp lễ hội.
- Dân tộc Xtiêng: có tên gọi khác là Xa Điêng hay Xa Chiêng với các nhóm địa phương
là Bù Đéc và Bù Lơ, Bù Biêk. Dân số có 66.788 người, sinh sống chủ yếu ở 4 huyện của tỉnh
Sông Bé, một số ở Tây Ninh và Đồng Nai.
Tuy cùng một dân tộc, nhưng mỗi nhóm địa phương lại có những phương thức canh tác
khác nhau. Phần lớn các nhóm Xtiêng đều làm nương rẫy, chỉ riêng nhóm Bù Đặc ở vùng thấp
làm ruộng nước từ lâu đời. Người Xtiêng có tập quán trồng bông dệt vải, tự cắt may váy áo.
Phụ nữ thích đồ trang sức. Đó là những vòng đồng quấn quanh ống chân hay cánh tay và
những dây hạt cườm, dây chỉ màu đeo trên cổ. Đặc biệt là những phụ nữ có tuổi thường đeo ở
dái tai những mẩu ngà voi hay gỗ to (tục căng tai) với hàm răng trên bị cà sát lợi. Đàn ông
thích xăm mình, xăm mặt. Nhà cửa người Xtiêng cũng khá đặc biệt. Những nhóm ở vùng thấp
làm nhà sàn vách nghiêng phần trên phình ra ngoài tạo thành khung nhà hình thang trên to, d-
ưới nhỏ. Xưa kia phổ biến loại nhà đất, mái lợp sát tận mặt đất như kiểu cái lều, mở cửa ở hai
đầu hồi. Đây là loại nhà dài truyền thống của người Xtiêng.
Mỗi làng chỉ gồm vài cái nhà dài như thế, gọi là "yau ", trong đó có nhiều gia đình nhỏ
(từng cặp vợ chồng và con cái của họ) gọi là một bếp "nak". Cai quản chung cả làng là già làng
và các bô lão có uy tín. Xã hội đã phân hoá giàu nghèo, có loại "nô lệ gia đình" do nợ nần hay
được mua về. Tục ở rể và cư trú bên nhà vợ là tập quán pháp truyền thống của người Xtiêng.
Hôn nhân con cô con cậu khá phổ biến, nhưng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.
Xưa kia, phụ nữ tự đẻ một mình ở ngoài rừng, đẻ ở nhà sợ xúc phạm đến thần lúa, đẻ xong
phải cúng một con lợn cho thần lúa mới được về nhà. Nếu chết già hay bình thường thì được
chôn trong nghĩa địa của làng, còn chết bất đắc kỳ tử sẽ pnảỉ chôn ở ngoài rừng một mình với
những nghi lễ phức tạp hơn.

Người Xtiêng thờ cúng các lực lượng trong tự nhiên. Lễ đâm trâu trở thành lễ hội lớn
nhất trong năm trong các dịp mùa màng bội thu hay mừng chiến thắng kẻ thù, mừng con cháu
lớn khôn. Dịp lễ lớn thường mổ 2 trâu, có cả bò và lợn. Thần lúa là vị thần có vị trí quan trọng
nhất trong tâm linh người Xtiêng. Cho nên, tết người Xtiêng được gọi là "lề cúng rơm " sau khi

×