Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Bài giảng lịch sử việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 214 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN VĂN DŨNG (Chủ biên), PHAN THỊ THÚY TRÂM






BÀI GIẢNG
LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI














Hà Nội - 2013
2


3



MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 7
Chương 1: NƯỚC VIỆT NAM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỘNG
HÒA (1945-1946) 8
1.1. Tình hình Việt Nam sau khi chế độ dân chủ cộng hòa được thành lập 8
1.2. Xây dựng nền dân chủ cộng hòa 11
1.3. Hoạt động ngoại giao 18
1.4. Kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và thực hiện “hòa để tiến”
21
CÂU HỎI ÔN TẬP 27
Chương 2: SỰ BÙNG NỔ VÀ TIẾN TRIỂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN
QUỐC (1946-1950) 29
2.1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ 29
2.2. Xây dựng nền dân chủ cộng hòa 33
2.3. Đấu tranh trên mặt trận quân sự 45
CÂU HỎI ÔN TẬP 55
Chương 3: CUỘC KHÁNG CHIẾN PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ VÀ KẾT THÚC THẮNG
LỢI (1951-1954) 57
3.1. Đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương 57
3.2. Sự lớn mạnh của nền dân chủ cộng hòa 61
3.3. Đấu tranh quân sự và ngoại giao (1951 - 1954) 70
3.4. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp . 83
CÂU HỎI ÔN TẬP 85
Chương 4: XÂY DỰNG MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA
CỦA MỸ Ở MIỀN NAM (1954-1960) 86
4.1. Tình hình Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
86
4.2. Xây dựng Miền Bắc 89

4.3. Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới và cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam
chống Mỹ - Diệm (1954 - 1960). 101
CÂU HỎI ÔN TẬP 117
Chương 5: XÂY DỰNG MIỀN BẮC VÀ CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN
TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ Ở MIỀN NAM (1961 - 1965) 118
5.1. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao Động Việt Nam (9-1960) 118
5.2. Thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng miền Bắc (1961-1965) 119
4

5.3. Miền Nam đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ (1961 - 1965) 123
CÂU HỎI ÔN TẬP 132
Chương 6: CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ Ở MIỀN
NAM VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MIỀN BẮC LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC
MỸ (1965 - 1968) 133
6.1. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965-1968) 133
6.2. Miền bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, vừa
sản xuất và thực hiện nghĩa vụ hậu phương kháng chiến (1965 – 1968) 143
CÂU HỎI ÔN TẬP 147
Chương 7: CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH Ở
MIỀN NAM VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MIỀN BẮC LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ
QUỐC MỸ (1969 - 1973) 148
7.1. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến
tranh” của đế quốc Mỹ (1969-1973) 148
7.2. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa, thực hiện nghĩa vụ hậu phương
kháng chiến, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969-1973)
158
7.3. Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam 165
CÂU HỎI ÔN TẬP 167
Chương 8: XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ MIỀN BẮC, HOÀN THÀNH SỰ NGHIỆP GIẢI

PHÓNG MIỀN NAM (1973 - 1975) 168
8.1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng, chi viện cho
tiền tuyến miền Nam 168
8.2. Tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam 172
8.3. Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975) 178
CÂU HỎI ÔN TẬP 179
Chương 9: VIỆT NAM TRONG THẬP NIÊN ĐẦU ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT (1975 –
1985) 181
9.1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975
- 1976) 181
9.2. Xây dựng và bảo vệ đất nước trong những năm 1976 - 1985 184
CÂU HỎI ÔN TẬP 191
Chương 10: BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC THOÁT
KHỎI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI (1986 – 1995) 192
10.1. Đổi mới kinh tế, nội dung trọng tâm của 2 kế hoạch 5 năm: 1986 – 1990, 1991 - 1995
192
5

10.2. Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại 196
10.3. Tình hình văn hóa, giáo dục, y tế trong 10 năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới 198
CÂU HỎI ÔN TẬP 200
Chương 11: ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI (1996 – 2005) 201
11.1. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 201
11.2. Đổi mới hệ thống chính trị, củng cố quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại
204
11.3. Phát triển giáo dục, văn hóa, y tế 207
11.4. Về đời sống xã hội 211
CÂU HỎI ÔN TẬP 213

TÀI LIỆU THAM KHẢO 214

6


7

LỜI MỞ ĐẦU

Nội dung lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 cho đến nay có nhiều sự
kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Đó là sự nghiệp đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ mới –
chế độ Dân chủ Cộng hòa, tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Sau khi đất nước được hòa bình, thống nhất cả nước đã đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém do những nguyên nhân
khách quan và chủ quan.
Lịch sử Việt Nam hiện đại đã được nhiều học giả nghiên cứu và công bố nhiều công
trình, cả ở góc độ thông sử cũng như chuyên khảo. Tuy vậy, để đáp ứng việc giảng dạy và học
tập cho cán bộ và sinh viên chuyên ngành Lịch sử, thì rất cần phải có Tập bài giảng với những
nội dung cô đọng, khái quát được nội dung cơ bản của lịch sử giai đoạn này. Xuất phát từ mục
đích, yêu cầu như vậy, tập thể tác giả chúng tôi đã cố gắng biên soạn Tập bài giảng mà nội
dung dựa chủ yếu vào các cuốn sách thông sử Lịch sử Việt Nam hiện đại mới nhất, đặc biệt là
cuốn Lịch sử Việt Nam, Tập IV (Lê Mậu Hãn, chủ biên, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
2013).
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng Tập bài giảng Lịch sử Việt Nam hiện đại mà chúng
tôi biên soạn cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì lẽ đó, chúng tôi rất mong
nhận được những góp ý của quý độc giả để Tập bài giảng ngày một hoàn thiện hơn cho lần tái
bản sau.
Trân trọng cảm ơn!
TẬP THỂ TÁC GIẢ



8

Chương 1: NƯỚC VIỆT NAM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỘNG
HÒA (1945-1946)

1.1. Tình hình Việt Nam sau khi chế độ dân chủ cộng hòa được thành lập
1.1.1. Tình hình thế giới
Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã hình thành. Uy tín và ảnh hưởng của Liên Xô gia tăng
mạnh mẽ. Liên Xô có vị trí quan trọng trên vũ đài chính trị quốc tế và là trụ cột của phe xã hội
chủ nghĩa cũng như cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc phát triển rộng rãi, làm lay chuyển mạnh mẽ hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản đòi
tự do, dân chủ, đòi cải thiện đời sống đã diễn ra sôi nổi và rộng lớn. Tại một số nước như Italia,
Pháp, Đảng Cộng sản có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước.
Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa đang bị chấn động, các đế quốc Đức, Italia, Nhật
Bản đã bị lực lượng Đồng minh đánh bại; Anh, Pháp thì suy yếu rất nhiều. Riêng đế quốc Mỹ
thì vươn lên thành nước tư bản giàu mạnh nhất sau chiến tranh, ra sức lôi kéo, tập hợp lực
lượng để chống lại phong trào cách mạng thế giới.
Các lực lượng hòa bình, dân tộc, dân chủ trên thế giới đang trên đà tiến công vào chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản cách mạng dưới nhiều hình thức và tính chất khác nhau.
Song các lực lượng đế quốc thực dân, các thế lực phản cách mạng cũng đang tìm mọi cách để
phục hồi và phát triển vai trò của mình, phản kích mạnh mẽ vào các lực lượng hòa bình, dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, hình thành mâu thuẫn giữa các lực lượng hòa
bình, dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội do Liên Xô làm trụ cột với các nước đế quốc và lực
lượng phản động do Mỹ cầm đầu. Cuộc đối đầu giữa “hai cực” Xô – Mỹ diễn ra rất căng thẳng
và gay gắt, dẫn đến cuộc Chiến tranh lạnh, cuốn hút từng quốc gia, từng khu vực vào ảnh

hưởng của cuộc chiến tranh này.
1.1.2. Tình hình trong nước
1.1.2.1. Thuận lợi
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, dân tộc Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới –
kỉ nguyên độc lập tự do. Nhân dân Việt Nam trở thành người làm chr đất nước, làm chủ xã hội
và bước đầu được hưởng những quyền lợi do cách mạng đem lại. Họ hiểu rõ giá trị thiêng liêng
của những quyền lợi ấy, một lòng gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây
chính là nguồn sức mạnh vô tận giúp cho Nhà nước cách mạng còn đang trong thời kì trứng
nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và mở rộng: mặt trận Việt Minh phát triển rất
nhanh chóng. Các Hội cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được thống
nhất trong cả nước. Nhiều Hội cứu quốc mới ra đời như Công thương Cứu quốc, Phật giáo Cứu
9

quốc, Đoàn Sinh viên Cứu quốc… Mặt trận Việt minh thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn
dân rộng rãi, giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Lực lượng vũ trang: thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, nhân dân ta tích cực xây
dựng lực lượng và chỉ trong một thời gian ngắn lực lượng vũ trang bao gồm các đơn vị Giải
phóng quân và các đội tự vệ chiến đấu phát triển nhanh chóng.
Trải qua 15 năm đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930 - 1945), truyền thống
đoàn kết, bất khuất của dân tộc ta càng được phát huy cao độ; Đảng ta ngày càng trưởng thành,
bắt rễ sâu vào quần chúng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo. Sau khi đất nước được độc lập,
Đảng kịp thời mở rộng đội ngũ, đào tạo cán bộ, tăng cường lãnh đạo mọi mặt hoạt động, chuẩn
bị tổ chức cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh mới
Đứng đầu Đảng và Nhà nước là Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài, có uy tín
tuyệt đối trong nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc, cho ý
chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam.
1.1.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, Nhà nước cách mạng Việt Nam, ngay sau khi
ra đời đã phải đứng trước một tình thế hết sức hiểm nghèo.

Về chính quyền: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời chưa được một nước nào
trên thế giới công nhận; khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất và cơ cấu
tổ chức bộ máy chính quyền cách mạng còn đang phải tiếp tục củng cố và mở rộng; lực lượng
vũ trang cách mạng còn non trẻ, trang bị kém, thiếu thốn đủ mọi bề, kinh nghiệm chiến đấu còn
quá ít.
Về kinh tế:
Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thiên
tai thường xuyên xảy ra làm cho sản xuất bị đình trệ.
Công nghiệp lạc hậu và đình đốn. Thương nghiệp ngưng trệ, bế tắc, hàng hóa trên thị
trường khan hiếm.
Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu người chết đói vẫn chưa khắc phục
được thì nguy cơ một nạn đói mới đang đe dọa nhân dân ta.
Về tài chính:
Tài chính nước ta trong buổi đầu trống rỗng, ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000
đồng, quá nửa là tiền rách.
Nhà nước chưa nắm được ngân hàng Đông Dương.
Quân Tưởng tung ra trên thị trường giấy bạc “Quan kim” và “Quốc tệ” đã mất giá trị,
càng làm cho tình hình tài chính và thương mại thêm phức tạp.
Về văn hóa – giáo dục:
Sau Cách mạng tháng Tám hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ do chính sách ngu dân của
thực dân và phong kiến.
10

Di sản văn hóa của thực dân – phong kiến để lại nặng nề, đó là các tệ nạn xã hội rượu
chè, cờ bạc, nghiện hút… khá phổ biến.
Về ngoại xâm:
Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 20 vạn quân Tưởng cùng bọn phản động (Việt Quốc, Việt
Cách) với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật đã ồ ạt kéo vào nước ta,
nhưng thực chất là cướp nước ta. Quân Tưởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông
Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên một chính quyền tay

sai.
Ở phía Nam vĩ tuyến 16, thực dân Anh dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân
đội Nhật đã giúp Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngay từ ngày 2-9-1945, giữa
lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng ngày tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, một số tên thực dân phản động Pháp đã nấp trong các khu nhà, xả súng bắn ra làm 47
người chết và nhiều người bị thương. Ngày 23-9-1945, quân đội Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Lúc này, ở nước ta còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp, trong đó có một bộ
phận theo lệnh của đế quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện cho quân
Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Về nội phản:
Các phần tử tay sai của thực dân Pháp, như Nguyễn Văn Xuân, Lê Văn Hoạch, Nguyễn
Văn Tâm… mưu toan ngóc đầu dậy, chuẩn bị đón chủ cũ trở lại.
Các tổ chức chính trị phản động thân Nhật, như Đại Việt Cách mạng đảng, Đại Việt
Quốc dân đảng, Đại Việt Duy dân đảng… do Trần Trọng Kim. Trần Văn An, Ngô Đình
Diệm… cầm đầu cũng ráo riết hoạt động.
Một số phần tử trong các đạo Thiên chúa, Hòa hảo, Cao đài… vẫn lợi dụng thần quyền
và lòng sùng đạo của tín đồ để hoạt động chia rẽ, chống phá cách mạng.
Bọn Tơrốtxkít dưới chiêu bài cách mạng triệt để - tung ra những khẩu hiệu quá khích: đòi
tăng lương ngay cho công nhân; đòi tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân; đòi đánh
đổ tất cả các đế quốc cùng một lúc… Chúng hô hào liên kết thợ thuyền và dân cày, đấu tranh
chống tư sản và địa chủ, nhằm phá hoại mặt trận đoàn kết dân tộc…
Như vậy, sau cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối
mặt với những khó khăn hết sức to lớn: nạn đói, nạn dốt, thù trong, giặc ngoài… Những khó
khăn ấy đang đe dọa sự tồn vong của chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng đang
đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trọng trách nặng nề đối với dân tộc đã giao phó cho Đảng và Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, với tư cách là người lãnh đạo và quản
lý điều hành cao nhất của đất nước.
Căn cứ vào phương hướng và nhiệm vụ, chiến lược và sách lược do Hội nghị toàn quốc

của Đảng và Quốc dân đại hội họp tháng 8-1945 đã thông qua, ngày 3-9-1945 trong phiên họp
11

đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo cáo với Chính phủ những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là:
1. Phải chống nạn đói bằng cách phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất và trước mắt
phải mở cuộc lạc quyên để cứu đồng bào đang bị đói.
2. Phải chống nạn dốt bằng cách mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.
3. Phải có một hiến pháp dân chủ để thực hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Vì
vậy, phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông bầu phiếu.
4. Xóa bỏ những thói hư tật xấu của chế độ thực dân đã đầu độc nhân dân ta và phải thực
hiện nhiệm vụ cấp bách là giáo dục, phát huy truyền thống dũng cảm, yêu nước, yêu lao động
của nhân dân, xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.
5. Xóa bỏ các thứ thuế bóc lột vô nhân đạo của thực dân để lại và tuyệt đối cấm hút thuốc
phiện.
6. Thực hiện tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị quan trọng về “kháng
chiến, kiến quốc”, xác định nhiệm vụ chiến lược, những nhiệm vụ cấp bách và những chính
sách lớn để chỉ đạo hoạt động của Đảng và toàn dân trong cuộc đấu tranh nhằm giữ vững
quyền độc lập tự do, bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa.
Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cấp bách của nhân dân Việt Nam lúc này là:
1. Củng cố chính quyền cách mạng
2. Chống thực dân Pháp xâm lược
3. Bài trừ nội phản
4. Cải thiện đời sống nhân dân
Bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng là nhiệm vụ bao trùm, khó khăn và nặng nề
nhất vì trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ việc giành chính quyền đã khó, việc giữ chính
quyền càng khó hơn.
Muốn hoàn thành các nhiệm vụ đó, Đảng ta phải tăng cường và mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân, chống chia rẽ, xây dựng đất nước về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa

và ngoại giao; kiên quyết chống giặc ngoại xâm, giữ vững lời thề độc lập.
Các nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ được khái quát thành khẩu hiệu chiến
lược: “Kháng chiến và kiến quốc!”
1.2. Xây dựng nền dân chủ cộng hòa
1.2.1. Xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân và pháp luật
1.2.1.1. Chính quyền Nhà nước ở Trung ương
Ngày 8-9-1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Sắc lệnh số 14-SL về
cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, quy định trong thời hạn hai tháng kể từ ngày kí sắc lệnh này
sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao để ấn định cho nước
Việt Nam một hiến pháp dân chủ cộng hòa.
12

Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời cải tổ thành Chính phủ liên hiệp lâm thời, trong đó
có thêm một số thành viên của Việt Quốc, Việt Cách. Chính phủ liên hiệp lâm thời và Việt
minh tiếp tục triển khai công việc chuẩn bị Tổng tuyển cử với phương châm thực hiện đại đoàn
kết thống nhất dân tộc.
Ngày 5-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu để phát huy
quyền làm chủ của mình, tự do lựa chọn và bầu ra những đại biểu xứng đáng thay mặt cho
mình ra gánh vác việc nước.
Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành trong cả nước, gần 90% cử tri đi bỏ
phiếu, bầu được 333 đại biểu đại diện cho tầng lớp nhân dân khắp ba miền Bắc - Trung - Nam
tham gia vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội là một đòn giáng mạnh vào âm mưu
chia rẽ, lật đổ và xâm lược của bọn đế quốc cùng tay sai. Thắng lợi này góp phần nâng cao uy
tín và địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế, khơi dậy và phát huy
tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ trong mỗi người dân đối với Nhà nước cách mạng. Thắng
lợi của cuộc Tổng tuyển cử còn tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Sau thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử, tình hình chính trị ở nước ta lại có những diễn
biến phức tạp mới. Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam đang lan rộng.

Cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang gặp nhiều khó khăn. Ở miền Bắc, quân Pháp từ Vân
Nam kéo vào Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên. Lợi dụng tình hình đó, các lực lượng Việt
Quốc, Việt Cách đã gây sức ép với chính quyền cách mạng. Chính phủ Pháp và Chính phủ
Trung Hoa Dân quốc cũng đã ngấm ngầm thương lượng dàn xếp để quân Pháp ra miền Bắc
thay thế quân Trung Hoa Dân quốc.
Trong bối cảnh đó, ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I đã họp kì họp thứ nhất tại Nhà hát
lớn Hà Nội, kì họp đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng:
- Nhượng cho Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử.
- Thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến gồm 10 bộ, do Hồ Chí Minh là Chủ tịch và
Nguyền Hải Thần làm Phó Chủ tịch.
- Bầu Ban Thường trực Quốc hội gồm 15 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết,
Trưởng ban là Nguyễn Văn Tố, Phó ban là Phạm Văn Đồng và Cung Đình Quỳ (Việt Quốc).
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử và kì họp thứ nhất của Quốc hội lập Chính phủ liên
hiệp kháng chiến là thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân, của quá trình đấu tranh nhân
nhượng, hòa giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Tổng bộ Việt Minh.
Sau 8 tháng hoạt động của Quốc hội và Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, kể từ kỳ họp
thứ nhất (3-1946), dưới sự chỉ đạo sáng suốt và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước nhà
đã vượt qua nhiều khó khăn. Quốc hội và Chính phủ đã nỗ lực xây dựng được khối đại đoàn
kết thống nhất và giữ vững được chính quyền. Cách mạng Việt Nam đang tiến bước vững chắc.
Trong bối cảnh đó, từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, Quốc hội đã họp kì thứ hai ở Hà
Nội. Tham dự có 290 đại biểu.
13

Quốc hội đã thảo luận các báo cáo của Chính phủ, thông qua các nghị quyết về nội trị,
ngoại giao, thông qua Dự án Luật Lao Động, Hiến pháp, lập Chính phủ mới và bầu Ban
Thường trực Quốc hội.
Ngày 3-11-1946, Quốc hội biểu quyết tán thành Chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành
lập, gồm 14 thành viên. Hồ Chí Minh là Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1.2.1.2. Chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương

Sau Cách mạng tháng Tám, về mặt hành chính, chính quyền các cấp ở địa phương gồm
các kì (sau đổi là bộ), tỉnh, thành phố, huyện và thị xã. Ngày 22-11-1945, Chính phủ ban hành
Sắc lệnh số 63/SL quy định về tổ chức, quyền hạn và cách làm việc của Ủy ban Hành chính
các cấp. Đây là sắc lệnh cơ bản nhất quy định chế độ chính quyền nhân dân các cấp ở địa
phương.
Căn cứ vào sắc lệnh Chính phủ đã ban hành, việc tổ chức chính quyền ở các địa phương
được triển khai khẩn trương. Đến tháng 11-1946, trong số 227 huyện, thị xã ở Bắc Bộ thì có 128
huyện, thị xã đã có Ủy ban Hành chính chính thức. Ở Trung Bộ trừ các tỉnh trực tiếp có chiến sự,
tất cả các tỉnh còn lại bầu Ủy ban Hành chính chính thức và trong số 118 huyện thì có 73 huyện
có Ủy ban Hành chính chính thức. Ở Nam Bộ vì có chiến sự ác liệt nên chưa thể thực hiện được
Sắc lệnh số 63, do đó chỉ có thể đổi Ủy ban Nhân dân sang Ủy ban Hành chính lâm thời.
Chính quyền nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương được tổ chức và làm việc
theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới của dân, do dân, vì dân.
1.2.1.3.Về luật pháp
Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng để bảo vệ quyền dân chủ của mọi công
dân Việt Nam: Sắc lệnh số 40/SL ngày 29-3-1946 về việc bảo vệ quyền tự do cá nhân; Sắc
lệnh 41/SL ngày 29-3-1946, quy định chế độ tự do báo chí và xuất bản; Sắc lệnh 52/SL ngày
22-4-1946, quy định chế độ tự do lập hội; Sắc lệnh 35/SL ngày 20-9-1945 quy định về việc bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng, coi đó là một nguyên tắc của chính thể dân chủ cộng hòa nên nhân
dân phải tôn trọng, không được xâm phạm đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả các nơi có tính
cách tôn giáo, bất kể tôn giáo nào.
Đặc biệt tại kì họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua Dự án Luật Lao động và Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Dự án Luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 8-11-1946 nhằm đặt nền móng cho
Bộ Luật Lao động của Chính phủ đang soạn thỏa lúc bấy giờ. Nội dung Dự án Luật Lao động
gồm 25 điều, trong đó đề cập đến những vấn đề có tính nguyên tắc là:
- Nhìn nhận lao động, không ai được bó buộc, lao động phải được tôn trọng, giá trị phải
được đáp ứng xứng đáng.
- Định rõ chế độ học nghề.
- Định rõ thể lệ trong việc lập và thi hành khế ước.

- Định rõ phụ cấp cùng việc chia lãi.
14

- Thời gian làm việc, thời gian nghỉ.
- Bảo vệ công dân nữ và trẻ em.
- Bảo vệ sức khỏe công nhân.
- Quyền tập hợp và đình công của công nhân.
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Quốc hội biểu quyết thông qua
ngày 9-11-1946 với 240 phiếu tán thành (trong tổng số 242 phiếu). Bản Hiến pháp gồm có Lời
nói đầu, 7 chương, 70 điều.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa được xây dựng dựa trên
những nguyên tắc:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Hiến pháp đã quy định thể chế, nghĩa vụ và quyền lợi công dân, nghị viện nhân dân,
Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, Cơ quan tư pháp và Sửa đổi Hiến pháp.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một hiến pháp dân tộc dân
chủ, khẳng định nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và quyết tâm bảo vệ
Tổ quốc của toàn dân, xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa, một chế độ đảm bảo quyền tự do
dân chủ của mọi công dân Việt Nam.
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc, liên hiệp quốc dân Việt Nam
Mặt trận Việt Minh được củng cố và mở rộng. Một số đoàn thể quần chúng lần lượt ra
đời như các hội công thương Cứu quốc, Sinh viên Cứu quốc, Công giáo Cứu quốc… Các hội
Công nhân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Bộ lần lượt mở hội
nghị để thống nhất hệ thống tổ chức.
Số lượng hội viên của các đoàn thể cứu quốc trong Việt minh tăng lên nhanh chóng.
Công tác vận động, tổ chức, đoàn kết các dân tộc ít người được Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm. Nha Dân tộc thiểu số được thành lập để giúp Chính phủ giải quyết mọi vấn
đề liên quan đến các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Ngày 29-5-1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam được thành lập. Hội chủ trương
đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước, đồng bào yêu nước, không phân biệt giai cấp, tôn giáo,
xu hướng chính trị… để làm cho nước Việt Nam độc lập – thống nhất – phú cường.
Một số tổ chức lần lượt ra đời: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (20-7-1946), Đảng
Xã hội Việt Nam (22-7-1946), Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20-10-1946).
1.2.3. Xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và an ninh quốc gia
Xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân và an ninh quốc gia là một nhiệm vụ
quan trọng của sự nghiệp bảo vệ chế độ dân chủ cộng hòa, bảo vệ Tổ quốc.
Sau Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Giải phóng quân Việt Nam được chấn chỉnh, mở
rộng và đổi thành Vệ quốc quân.
15

Ngày 22-5-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh 71/SL về việc đổi Vệ quốc quân thành Quân đội
quốc gia Việt Nam. Quân đội quốc gia Việt Nam do Bộ Tổng tham mưu quân sự cơ mật, đầu
não của quân đội chỉ huy thống nhất. Quân đội được tổ chức biên chế thống nhất theo trung
đoàn, tiểu đoàn, đại đội… Đông đảo thanh niên ra nhập quân đội. Đến cuối năm 1946, tổng số
quân đội lên đến 80.000 người.
Bộ Quốc phòng được kiện toàn, các Cục Quân nhu, Chế tạo, các xưởng quân giới, ngành
quân y, các trường đào tạo cán bộ chính trị, quân sự của quân đội được thành lập.
Để phát huy mạnh mẽ tinh thần tích cực, chủ động của các địa phương về hành chính và
quân sự trong điều kiện đất nước dài và hẹp, chiến trường dễ bị chia cắt trong chiến tranh,
Chính phủ đã quyết định thành lập các khu quân sự (chiến khu). Cuối năm 1945, cả nước được
chia thành 9 chiến khu và Hà Nội là khu đặc biệt. Đến cuối tháng 11-1946, khi thực dân Pháp
đẩy mạnh khiêu khích và đánh chiếm Hải Phòng, Chính phủ đã chia cả nước thành 12 chiến
khu. Mỗi khu có Khu ủy, Ủy ban kháng chiến và Bộ chỉ huy khu.
Cùng với việc xây dựng quân đội quốc gia, Chính phủ đặc biệt coi trọng việc “quân sự
hóa” toàn dân, vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng lực lượng nửa vũ trang (bao gồm
dân quân ở nông thôn và tự vệ ở đô thị). Đến cuối năm 1946, có khoảng một triệu dân quân, tự
vệ đã được tổ chức và huấn luyện quân sự.
Ngày 30-11-1946, Chính phủ đã cử Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm

chỉ huy quân đội toàn quốc.
Lực lượng an ninh quốc gia được chấn chỉnh và phát triển có hệ thống từ Trung ương đến
địa phương.
Ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 23/SL thành lập Việt Nam Công
an vụ. Công an có nhiệm vụ tìm hiểu, thu thập những tin tức liên quan đến sự an toàn quốc gia;
đề nghị và thực thi những biện pháp đề phòng những hành động làm rối loạn trật tự trị an trong
nước, truy tìm các can phạm để đưa ra tòa án trừng trị.
Ngày 18-4-1946, Bộ Nội vụ đã ban hành Nghị định số 131/BNV quy định cơ cấu tổ
chức, quyền hạn, nhiệm vụ của tổ chức Việt Nam Công an vụ, gồm 3 cấp: cấp Trung ương gọi
là Nha Công an Việt Nam; ở các miền Bắc, Trung, Nam thì gọi là Sở Công an; ở tỉnh – thành
phố gọi là Ty Công an. Nghị định cũng quy định mối quan hệ giữa công an với các cơ quan
hành chính, tư pháp.
Hệ thống tổ chức tòa án đã lần lượt được xây dựng. Ngay từ ngày 13-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 33C/SL thành lập Tòa án Quân sự ở một số tỉnh Bắc Bộ, Trung
Bộ và Nam Bộ, để xét xử những người phạm vào những việc có phương hại đến nền độc lập
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Còn những người phạm pháp là binh sĩ thì thuộc về
nhà binh tự xử theo quân luật.
1.2.4. Khắc phục nạn đói, khôi phục và bước đầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
1.2.4.1. Chống giặc đói
Một trong những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền cách mạng sau khi thành lập là
phải nhanh chóng đẩy lùi nạn đói, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Giải
quyết nạn đói không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mà còn bao hàm ý nghĩa chính trị sâu sắc.
16

Trong phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính
phủ đã quyết định phải chống “giặc đói”, phát động ngay một phong trào tăng gia sản xuất.
Việt minh và các đoàn thể cứu quốc đã vận động nhân dân cứu trợ đồng bào những nơi đang bị
đói.
Biện pháp trước mắt: kêu gọi thực hành tiết kiệm, tổ chức quyên góp cứu đói theo lời kêu
gọi “Nhường cơm xẻ áo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện “Hũ gạo tiết kiệm”, “Ngày

đồng tâm”.
Để dồn lương thực cho việc cứu đói, Chính phủ ban hành các biện pháp hành chính, như
cấm dùng lương thực vào việc nấu rượu, xóa bỏ mọi cản trở trong lưu thông gạo giữa các vùng
trong nước, cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo, thành lập Ủy ban Tối cao Tiếp tế và Cứu tế của
Chính phủ. Việc chuyên chở gạo từ các tỉnh ở Nam Bộ và Trung Bộ ra Bắc Bộ được thực hiện
khẩn trương. Chỉ tính trong 3 tháng cuối năm 1945, đã có khoảng 700 tấn gạo được chuyển ra
Bắc Bộ, kịp đem đến các địa phương để cứu đói.
Biện pháp lâu dài: Đẩy mạnh tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: Tăng gia sản xuất! Tăng
gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa; Không để một tấc đất bỏ hoang! Tấc đất tấc
vàng! Giai cấp công nhân, các đơn vị bộ đội, cán bộ, viên chức Nhà nước… tự nguyện tổ
chức thành từng đoàn, từng đội đi về nông thôn đắp đê phòng lụt, khai hoang, phục hóa.
Về nông nghiệp: Để tạo điều kiện cho nông dân đẩy mạnh sản xuất, chính quyền cách
mạng đã thực hiện giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô
lí khác. Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng
đất công theo nguyên tắc công bằng và dân chủ. Ban Khuyến nông cũng được thành lập ở
Trung ương và địa phương để tổ chức giúp đỡ nông dân khắc phục khó khăn về giống, vốn,
nông cụ, sức kéo, hướng dẫn nông dân về kĩ thuật canh tác.
Kết quả: Nhờ những biện pháp trên, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi. Năm
1945, diện tích lúa mùa ở Bắc Bộ đạt được 890.000 ha, sản lượng đạt 1.115.000 tấn (năm 1943 là
952.000 tấn và năm 1944 là 832.000 tấn). Diện tích trồng ngô năm 1946 đạt 212.850 ha, sản lượng
đạt 217.020 tấn (năm 1939 là 119.000 ha và đạt sản lượng 140.000 tấn); diện tích trồng khoai lang
đạt 90.000 ha, sản lượng đạt 330.000 tấn (năm 1939 mới có 68.000 ha và sản lượng là 156.000
tấn). Với số lượng lương thực và hoa màu đó, nhân dân ta không những vượt qua được nạn đói mà
còn duy trì được sức lao động để đảm bảo sản xuất vụ chiêm năm 1946. Đây là một thắng lợi của
chính quyền dân chủ nhân dân.
Về các lĩnh vực kinh tế khác:
Trong các ngành công thương nghiệp và giao thông vận tải, một mặt nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi nhất để cho các thương gia yêu nước người Việt phát triển sản xuất kinh doanh.
Mặt khác cho tư bản nước ngoài, trước hết là tư bản Pháp được tiếp tục hoạt động kinh doanh
tránh gây cho họ những xáo trộn lớn trong công việc làm ăn.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng bắt tay vào xây dựng khu vực kinh tế quốc doanh, trước hết
là trong lĩnh vực khai mỏ. Chính phủ cho khôi phục các mỏ than ở Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Ninh Bình, mỏ thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng)…
17

Trong lĩnh vực thương nghiệp, Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm, nghiêm cấm các
hoạt động đầu cơ tích trữ, chợ đen, mở đường cho lưu thông hàng hóa, kêu gọi các nhà buôn
đứng ra kinh doanh, thành lập Phòng Thương mại và Nha Thương vụ Việt Nam để giúp Chính
phủ bước đầu nắm các hoạt động thương nghiệp trên thị trường nội địa.
Về giao thông vận tải, Chính phủ từng bước quản lý và khai thác kinh doanh hệ thống
đường bộ, đường thủy, đường hàng không, thông tin liên lạc.
1.2.4.2. Tài chính
Ngày 4-9-1945, Chính phủ ra sắc lệnh số 4/SL về xây dựng Quỹ độc lập và phát động
Tuần lễ vàng, kêu gọi toàn dân tự nguyện đóng góp ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc.
Kết quả: Nhân dân ta đã ủng hộ cho Nhà nước 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào Quỹ độc
lập và 40 triệu đồng vào Quỹ Đảm phụ quốc phòng.
Để xây dựng nền tài chính độc lập, ngày 31-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số
18B/SL, phát hành giấy bạc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam. Ngày 23-11-1946, Quốc hội
quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.
1.2.5. Giáo dục và văn hóa
1.2.5.1. Giáo dục
Bên cạnh nhiệm vụ chống “giặc đói” thì nhiệm vụ chống “giặc dốt”, xóa nạn mù chữ
cũng là nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ
chuyên lo việc chống “giặc dốt” và Người đứng ra phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong
cả nước.
Chỉ trong vòng 1 năm, kể từ ngày 8-9-1945 đến ngày 8-9-1946, trên toàn quốc đã mở
được hơn 75.000 lớp học và xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Các trường phổ thông và đại
học cũng được khai giảng nhằm đào tạo những công dân và cán bộ trung thành, có năng lực
phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến – kiến quốc.

Tháng 9-1945, các trường từ tiểu học đến trung học đều được nhanh chóng khai giảng.
Năm học 1945 -1946, ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã mở được 5.654 trường tiểu học với 206.784
học sinh, 25 trường trung học với 7.514 học sinh.
Ở bậc đại học và cao đẳng, cùng với các trường Đại học Y khoa, Dược khoa, Cao đẳng
Kĩ thuật, Cao đẳng Công chính, Cao đẳng Canh nông – Thú y, Bộ Giáo dục cho mở thêm
Trường Đại học Văn khoa và Lớp Chính trị xã hội thay cho Trường Luật của chế độ cũ.
Năm học 1945 - 1946, tất cả các trường đại học có 1.149 sinh viên chính thức và 270
sinh viên dự thính, riêng Đại học Văn khoa có 253 sinh viên và lớp Cao đẳng Chính trị và Xã
hội có 52 sinh viên.
Nền giáo dục mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ khi mới ra đời đã được
gây dựng phát triển, đặt trên ba nguyên tắc cơ bản: đại chúng, dân tộc hóa, khoa học hóa và
theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân chủ. Về tổ chức, các bậc học được dạy và học
bằng tiếng Việt. Đó là một biến đổi cách mạng sâu sắc.
18

Ngành sư phạm cũng được quy định theo Sắc lệnh số 149/SL ngày 8-10-1946 nhằm đào
tạo nam nữ giáo viên cho các bậc cơ bản, sư phạm trung cấp và sư phạm cao cấp.
1.2.5.2. Văn hóa
Báo chí cách mạng và công tác xuất bản sớm trở thành vũ khí sắc bén chống ngoại xâm,
nội phản, góp phần giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần cách mạng cho đông
đảo quần chúng nhân dân. Một số tờ báo tiêu biểu như: Cờ giải phóng, Sự thật, Cứu
quốc…được quần chúng tín nhiệm và có tác động lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, đường lối của Đảng và Mặt trận Việt minh.
Văn học, nghệ thuật cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Các văn nghệ sĩ đã
hướng hoạt động của mình vào thực tế cuộc sống xây dựng và chiến đấu của dân tộc.
Tháng 11-1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội. Hội nghị đã
vạch rõ nền văn hóa mới của Việt Nam là phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của văn hóa nước
ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới sửa được tham nhũng, lười biếng,
phù hoa, xa xỉ; phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập.
Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng lớn.

Cuộc vận động Đời sống mới do Chủ tich Hồ Chí Minh đề xướng được đông đảo nhân
dân cả nước hưởng ứng, nhằm xây dựng đạo đức mới Cần – Kiệm – Liêm – Chính; bài trừ các
tệ nạn xã hội cũ, những hủ tục cúng lễ ra khỏi đời sống xã hội.
Những thành quả bước đầu trong một năm kiến quốc, xây dựng chế độ mới đã đặt nền
móng vững chắc cho Nhà nước cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo. Cuộc sống mới đang
được hình thành và từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội ra khỏi đời sống xã hội.
1.3. Hoạt động ngoại giao
1.3.1. Phát huy địa vị hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cục diện thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động ảnh hưởng sâu sắc đến
quan hệ quốc tế. Sự phân hóa sau chiến tranh và quan hệ mới của các lực lượng trên thế giới và
Viễn Đông tác động phức tạp đến Việt Nam, nơi có nhiều nước lớn can thiệp. Đây là một thách
thức lớn đối với chính quyền cách mạng. Chủ trương, chính sách đối nội cũng như đối ngoại của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa phải giữ vững nguyên tắc, vừa phải linh hoạt
về sách lược trước mọi tình thế mới thực hiện được mục tiêu giữ vững quyền độc lập tự do.
Ngay từ giữa tháng 8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội Tân Trào
đã nắm vững thời cơ, quyết định khởi nghĩa giành chính quyền để đứng ở địa vị cầm quyền
trước khi quân Đồng Minh kéo vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật và đã đề ra chủ trương,
chính sách ngoại giao để thực hiện sau khi thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hội nghị chủ trương tránh trường hợp cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù.
Tuyên ngôn độc lập của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố quyền
dân tộc cơ bản của nước Việt Nam, xóa bỏ mọi quan hệ thực dân với Pháp và nêu cao ý chí bảo
vệ độc lập của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đó là cơ sở pháp lý đầu tiên về đối nội và đối ngoại
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
19

Ngày 5-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân, nêu rõ lập trường Việt
Nam đối với quân Đồng Minh và quân Pháp: “Nhân dân Việt Nam hoan nghênh quân Đồng
minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, nhưng cương quyết phản đối quân Pháp kéo
vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ hãm hại dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa”
1

.
Ngày 3-10-1945, Bộ Ngoại giao ra thông cáo về “Chính sách ngoại giao của Chính phủ
lâm thời Dân chủ Cộng hòa Việt Nam”, nêu rõ: Nước Việt Nam còn đang trong giai đoạn tranh
đấu kịch liệt nên “ chính sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự tranh đấu ấy
được thắng lợi bằng mọi phương pháp êm dịu hay cương quyết tùy theo thái độ của các liệt
quốc, nhưng bao giờ cũng lấy nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương làm nền tảng.
Chính sách ngoại giao đối với các đối tượng cụ thể:
a. “Đối với các nước Đồng minh, Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực cộng tác trên
lập trường bình đẳng tương ái để xây đắp lại nền hòa bình thế giới. Riêng đối với Trung Hoa,
là một nước có nhiều mối quan hệ về mọi phương diện địa dư, lịch sử, văn hóa, kinh tế, thì
Việt Nam lại càng muốn thắt chặt tình thân ái khiến hai dân tộc Việt – Hoa tương trợ mà cùng
tiến lên”.
b. “Đối với Pháp, hiện nay Việt Nam bắt buộc phải theo chính sách khác mà đối phó.
Trước hết đối với những kiều dân Pháp, nếu họ yên tĩnh làm ăn trong vòng trật tự và tôn trọng
sự độc lập của Việt Nam thì sinh mạng và tài sản của họ vẫn được bảo vệ theo luật quốc tế.
Nhưng đối với Chính phủ Pháp De Gaulle, chủ trương thống trị Việt Nam, thì quyết chống lại,
nếu chính phủ ấy không chịu thừa nhận sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam”.
c. “Đối với các nhược tiểu dân tộc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng
thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng, để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và
giữ vững nền độc lập”.
d. “Riêng về các nước bạn Cao Miên và Ai Lao, thì dây liên lạc lấy dân tộc tự quyết làm
nền tảng, lại càng phải chặt chẽ hơn nữa vì hai nước ấy trước kia, hiện nay và ngày sau cùng
chung một số phận với Việt Nam; đã cùng bị Pháp đô hộ, thì cùng phải chống lại sự xâm lăng
của Pháp, tương trợ mà thực hiện và củng cố độc lập. Và ba nước Miên, Lào và Việt còn có
nhiều mối liên hệ về kinh tế, nên sẽ giúp đỡ nhau để kiến thiết và sánh vai ngang hàng mà tiến
hóa
2
.
Chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được công bố thể
hiện một cách nhìn rộng mở trong quan hệ quốc tế kiểu mới, mang tầm nhìn chiến lược, phù

hợp với thực tiễn Việt Nam và sự thay đổi cơ bản có tính toàn cầu sau Chiến tranh thế giới thứ
hai cũng như quan hệ với các nước trong khu vực và các nước láng giềng đang phấn đấu vì độc
lập tự do.
Trên cơ sở xác định chính sách ngoại giao, Chính phủ lâm thời đã tiến hành các hoạt
động nhằm thiết lập mối quan hệ với đại diện các nước ở Việt Nam, các nước và các tổ chức
quốc tế nhằm xác lập vị thế và chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về ngoại giao.


1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, Nxb CTQG, HN, 1995, tr.11
2
Báo Cứu quốc, số 36, ngày 3-10-1945.
20

Đối với Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có chủ trương thiết lập mối quan hệ với Mỹ
trước khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ 9-1945 đến 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi điện, thư cho Tổng thống và
Ngoại trưởng Mỹ, tố cáo hành động xâm lược của Pháp và đề nghị Mỹ công nhận nền độc lập
của Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã sớm đưa ra sang kiến về ngoại giao nhân dân với Mỹ
bằng cách thiết lập những quan hệ văn hóa với Mỹ. Trong thư gửi Ngoại trưởng Mỹ ngày 1-11-
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam bày tỏ ý muốn của Hội được
gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định thiết lập những mối
quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ và để xúc tiến nghiên cứu về kỹ thuật nông
nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời rất chủ động đưa ra nhiều sáng
kiến trong việc xây dựng mối quan hệ với Mỹ, mong Chính phủ Mỹ ủng hộ nền độc lập tự do
của Việt Nam, song Mỹ đã không đáp ứng. Chính phủ Mỹ ủng hộ Pháp quay trở lại Đông
Dương. Thái độ của Mỹ nhằm tranh thủ nước Pháp trước yêu cầu tập hợp lực lượng mới của
Mỹ ở Châu Âu thành một khối để chống lại ảnh hưởng của Liên Xô sau chiến tranh.

Đối với Liên Xô, là một Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chính
phủ Việt Nam cũng đã tranh thủ bẳng cách thông qua các điện, thư, công hàm, đề nghị đưa vấn
đề Việt Nam ra thảo luận tại Liên hợp quốc.
Liên Xô là một cường quốc có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế
trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, trật tự thế giới chuyển dần sang thế
“hai cực”, thực chất là sự đối đầu tranh giành phạm vi ảnh hưởng của hai siêu cường là Mỹ và
Liên Xô.
Căn cứ vào các văn kiện của các Hội nghị Ianta và Potsdam, lập trường của Liên Xô là
thừa nhận quyền độc lập của các nước thuộc địa. Song, Chính phủ Liên Xô, tính toán sau chiến
thắng phát xít cần tập trung khôi phục đất nước, bảo đảm an toàn cho biên giới quốc gia của
Liên Xô, giúp đỡ cách mạng các nước Đông Âu và tranh thủ Chính phủ Pháp (đứng đầu làm
De Gaulle), giữ mối quan hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp. Chính vì thế, những yêu cầu
của Chính phủ Việt Nam không được Liên Xô đáp ứng.
1.3.2. Hòa hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc
Chủ trương của ta là hòa hoãn với Tưởng ở miền Bắc để tránh cùng một lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù.
Kẻ thù chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp, do đó chúng ta phải tạm hòa hoãn,
tránh xung đột với quân Tưởng, nhằm tập trung lực lượng đánh Pháp ở miền Nam nhưng trên
nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền của dân tộc.
Chúng ta tiến hành đấu tranh chính trị với quân Tưởng một cách khôn khéo, nhưng kiên
quyết nhằm hạn chế sự phá hoại của chúng.
Tháng 10-1945, khi Hà Ứng Khâm – Tổng tư lệnh Lục quân quân đội Tưởng Giới Thạch
đến Hà Nội, Chính phủ cách mạng đã tổ chức một cuộc biểu tình có 300.000 người tham gia,
hình thức là để đón tiếp nhưng thực chất là nhằm biểu dương lực lượng của Việt Nam Dân chủ
21

Cộng hòa. Trước khí thế và sức mạnh của quần chúng, Hà Ứng Khâm không thể tự mình thực
hiện ý định lật đổ Chính phủ cách mạng, mà dùng bọn tay sai (Việt Quốc, Việt Cách) phá hoại
từ bên trong.
Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng và tay sai, tại phiên họp đầu tiên (2-3-1946),

Quốc hội khóa I đồng ý nhận nhượng cho Tưởng một số quyền lợi:
Về kinh tế, tài chính: Chính phủ ta buộc phải cung cấp lương thực và chấp nhận lưu hành
đồng Quan kim và Quốc tệ ở miền Bắc.
Về chính trị: Nhượng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và 4 ghế trong Chính
phủ cho bọn tay sai của Tưởng, Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch nước.
Để giảm bớt sức ép công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong nước và nước
ngoài có thể trở ngại đến tiền đồ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời xuất phát từ lợi ích
dân tộc, Đảng Cộng sản Đông Dương tạm rút vào hoạt động bí mật với sách lược tự giải tán,
chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác,
nhưng vẫn tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng.
Tuy nhiên, mọi sự nhân nhượng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Chính quyền được giữ vững.
- Đảng phải lãnh đạo chính quyền.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng đầu Chính phủ.
- Độc lập chủ quyền của đất nước phải được tôn trọng.
Đối với bọn tay sai của Tưởng ra mặt phản cách mạng thì kiên quyết vạch trần bộ mặt
bán nước, hại dân của chúng. Bọn phản động gây tội ác đều bị trừng trị theo pháp luật.
Trong khi thực hiện hòa giải, nhân nhượng, chúng ta cũng đã thông qua công cụ báo chí,
thông tin tuyên truyền, dựa vào sức mạnh của quần chúng để vạch trần những hoạt động chia
rẽ, phá hoại, phản dân hại nước của các lực lượng tay sai của Tưởng Giới Thạch, kiên quyết
trừng trị những tên phản động làm tổn hại đến an ninh quốc gia trên cơ sở đã đủ bằng chứng.
Thực hiện những biện pháp, sách lược nhân nhượng với Tưởng, chúng ta đã hạn chế và
vô hiệu hóa đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của quân Tưởng và tay sai, làm thất
bại mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng chúng. Nhờ đó, chúng ta mới có điều kiện tập trung
lực lượng chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam.
1.4. Kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và thực hiện “hòa
để tiến”
1.4.1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ
Ngày 2-9-1945, khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng ngày độc
lập, thực dân Pháp đã xả súng bắn làm 47 người bị chết, nhiều người bị thương.

Đêm 22 rạng sáng ngày 23-9-1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp cho
quân đánh úp trự sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ Thành phố Sài Gòn, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
22

1.4.1.1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ
Ngày 23-9-1945, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ họp tại đường Cây Mai – Chợ Lớn
quyết định phát động nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ được thành lập do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch, Ủy ban
Kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn do Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch.
Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với quân và dân Nam Bộ nhất tề đứng lên chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc, đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn,
đánh phá kho tàng, phá nhà giam.
Phối hợp với các lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn triệt phá nguồn tiếp
tế, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố. Quân Pháp trong thành phố bị bao vây
và luôn bị tấn công.
Ngày 5-10-1945, tướng Lơcơléc đến Sài Gòn cùng với đơn vị bộ binh và xe bọc thép mới
từ Pháp đưa sang. Có sự hỗ trợ của quân Anh, Nhật, quân Pháp phá vòng vây Sài Gòn, đánh
chiếm các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Ngày 25-10-1945, Hội nghị xứ ủy mở rộng Nam Bộ được triệu tập tại Thiên Hộ (Mỹ
Tho). Sau khi rút kinh nghiệm chỉ đạo kháng chiến, Hội nghị đã kiểm điểm tình hình và rút
kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh, đề ra các biện pháp nhằm củng cố và phát triển lực lượng
chính trị và vũ trang, phát triển chiến tranh du kích, tăng cường công tác chính trị, khôi phục
chính quyền ở những nơi bị vỡ, xây dựng cơ sở bí mật…Hội nghị cử Lê Duẩn làm Bí thư Xứ
ủy Nam Bộ lâm thời, Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ.
Ngày 20-11-1945, Hội nghị Quân sự được triệu tập ở An Phú (Gia Định) để bàn công tác
chỉ đạo kháng chiến. Hội nghị quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 9 và bàn biện
pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc đoàn.
Từ sau Hội nghị Thiên Hộ và An Phú, những thiếu sót về lãnh đạo và chỉ huy từng bước
được khắc phục. Cùng thời gian đó, quân Pháp được quân Anh lần lượt bàn giao những vùng

chúng kiểm soát ở Nam Bộ.
Trung ương Đảng,Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào ủng hộ
Nam Bộ kháng chiến. Hưởng ửng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả
nước đã ủng hộ và chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Về phía thực dân Pháp sau khi nhận thêm quân tiếp viện, đồng thời tiếp tục dựa vào quân
Anh và Nhật, chúng vừa mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Bộ, vừa thực hiện từng bước
đánh ra Nam Trung Bộ.
Đầu tháng 2-1946, sau khi tăng viện binh, thực dân Pháp gấp rút chiếm đóng vùng nông
thôn Nam Bộ. Chúng mở hàng loạt cuộc hành quân “bình định” trên khắp các tỉnh Nam Bộ.
Lực lượng của ta bị tổn thất nhiều, chính quyền và đoàn thể cứu quốc ở nhiều nơi bị tan vỡ.
Tháng 2-1946, Xêđi lập được Hội đồng Tư vấn gồm 12 thành viên là người Pháp và
người Việt mang quốc tịch Pháp. Ngoài ra, thực dân Pháp còn tiến hành tuyển quân, tập hợp
bọn tay sai để thành lập chính quyền bù nhìn ở các thị trấn, thị xã. Chúng tìm cách một số
người trong các đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa… để chống lại lực lượng kháng chiến.
23

Ngày 5-3-1946, quân Anh bàn giao lại toàn bộ địa bàn và vũ khí, trang bị cho quân Pháp,
rút khỏi miền Nam.
1.4.1.2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Trung Bộ
Trong lúc nhân dân Nam Bộ kháng chiến thì tại Nam Trung Bộ, mọi công việc chuẩn bị
để kháng chiến cũng được xúc tiến rất khẩn trương.
Cuối tháng 9-1945, Ủy ban Quân chính Nam Trung Bộ được thành lập để chỉ huy 7 tỉnh
ở mặt trận phía Nam.
Các cơ sở kinh tế, quốc phòng quan trọng ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ được di chuyển
đến những nơi an toàn. Các xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí từng bước được xây dựng.
Từ hạ tuần tháng 10-1945, chiến sự bắt đầu lan tới các tỉnh Nam Trung Bộ. Quân Pháp
đã vấp phải tinh thần chiến đấu của quân ta, quân Pháp bị chặn đứng ở nhiều nơi như Nha
Trang, Tuy Hòa, Buôn Ma Thuột…
Sau 4 tháng chiến đấu anh dũng, với sự chi viện của nhiều đơn vị Nam tiến, bộ đội Nam
Trung Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến, tiêu diệt được hàng

ngàn tên địch, thu nhiều vũ khí.
Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã
ngăn chặn từng bước tiến công của địch, hạn chế âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của
chúng. Góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho cả nước có thêm
thời gian chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc về sau.
1.4.2. Thực hiện “Hòa để tiến”
1.4.2.1. Pháp và Tưởng câu kết với nhau chống lại cách mạng Việt Nam
Đầu năm 1946, về cơ bản thực dân Pháp đã làm chủ được Nam Bộ và Nam Trung Bộ,
khống chế vùng nông thôn ở Lào, chiếm hầu hết Campuchia.
Ngày 29-1-1946, quân Anh rút khỏi Sài Gòn và đến ngày 5-3-1946, quân Anh rút khỏi
Nam Đông Dương, nhường cho Pháp quyền chiếm đóng từ vĩ tuyến 16 trở vào.
Âm mưu của Pháp là chuẩn bị lực lượng tiến quân ra miền Bắc, thôn tính cả nước ta
nhưng chúng gặp nhiều khó khăn: quân số ít lại chưa bình định xong miền Nam. Hơn nữa, đưa
quân ra miền Bắc lúc này, chúng sẽ gặp phải hai trở lực lớn: một là, lực lượng kháng chiến của
nhân dân ta, hai là, sự có mặt của quân Tưởng và tay sai ở miền Bắc.
Tình hình đó buộc thực dân Pháp phải dùng đến thủ đoạn chính trị: một mặt, điều đình
với Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, mặt khác điều đình với Chính phủ Chủ tịch
Hồ Chí Minh để đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam một cách hợp pháp.
Lúc này, Chính phủ Tưởng Giới Thạch đang gặp nhiều khó khăn: Hồng quân Trung
Quốc đang phản công quyết liệt trên khắp các mặt trận ở lục địa. Quân Trung Hoa dân quốc
buộc phải rút khỏi miền Bắc Đông Dương về nước để củng cố lực lượng. Các cuộc tiếp xúc
giữa Pháp và Tưởng đã được diễn ra.
Đến ngày 28-2-1946, hiệp ước Hoa – Pháp được kí kết ở Trùng Khánh với những nội
dung sau:
24

- Pháp được quyền thay thế quân đội Tưởng vào miền Bắc Đông Dương để giải giáp
quân đội Nhật.
- Ngược lại, Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Hoa, bán cho
Tưởng đoạn đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều, nhượng cho Trung Hoa Dân Quốc một đặc khu ở

cảng Hải Phòng, hàng hóa của Trung Hoa Dân Quốc vận chuyển qua miền Bắc sẽ được miễn
thuế.
Hiệp ước Hoa – Pháp là sự chà đạp thô bạo đối với chủ quyền và nền độc lập tự do của
dân tộc Việt Nam.
1.4.2.2. Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946)
Hiệp ước Hoa – Pháp đã đặt nhân dân ta trước lựa chọn một trong hai con đường:
- Một là, cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc.
- Hai là, hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để nhanh chóng đuổi quân Tưởng ra khỏi miền
Bắc nước ta.
Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn
giải pháp “hòa để tiến”, nhằm mục đích sau:
- Quân Tưởng rút về nước ngay, tránh được tình thế một lúc phải chống với nhiều kẻ thù.
- Bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới,
tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Lập trường đàm phán của ta là: độc lập nhưng liên minh với Pháp để Pháp phải thừa
nhận quyền dân tộc tự quyết của dân ta: chính phủ, quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao…
và sự thống nhất quốc gia của ta. Còn về phía ta, có thể công nhận cho Pháp được đóng quân
tạm thời và có hạn trên đất nước ta.
Ngày 5-3-1946, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tại làng Canh,
Hà Đông) nhất trì tán thành chủ trương “hòa để tiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng.
Chiều ngày 6-3-1946, tại ngôi nhà 38 Lý Thái Tổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí với G. Xanhtơni – đai diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ
bộ, đặt cơ sở cho cuộc đàm phán giữa hai bên để đi đến một hiệp định chính thức.
Nội dung cơ bản của hiệp định Sơ bộ
- Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do ở
trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội
và tài chính riêng. Sự thống nhất đất nước do trưng cầu dân ý quyết định.
- Vấn đề thống nhất ba kì được Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận.
- Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay thế
quân Tưởng. Số quân này phải đóng ở những nơi do hai bên thống nhất quy định và sẽ rút khỏi

Việt Nam trong 5 năm, mỗi năm rút 1-5 số quân.
- Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Các cuộc đàm phán tiếp theo sẽ được
tiến hành tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari.
25

Kí hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 là một bước “hòa để tiến” của Đảng và Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng và Chính
phủ ta và nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng nước ta lúc bấy giờ, đó là:
- Ta đã nhanh chóng đẩy được quân Tưởng về nước, tránh được một kẻ thù nguy hiểm, quét
được bọn tay sai phản động, tránh được cuộc chiến đấu bất lợi cho ta.
- Tranh thủ thời gian hòa hoãn để củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang để
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
- Tạm thời ngăn chặn được âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn quốc của thực
dân Pháp, buộc Pháp phải công nhận Chính phủ của ta.
- Về mặt pháp lí, Chính phủ Pháp đã phải thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do,
không còn là thuộc địa của Pháp nữa.
1.4.2.3.Tạm ước 14-9-1946
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Chính phủ và nhân dân Việt Nam thi hành nghiêm
chỉnh mọi điều khoản đã kí kết. Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ
thị “hòa để tiến”, vạch rõ lí do vì sao ta kí với Pháp Hiệp ước Sơ bộ và đề ra những việc cần
làm sau khi hiệp định được kí kết:
- Giải thích ý nghĩa hiệp định, chống mọi nhận thức và tư tưởng sai lệch đối với việc kí kết.
- Chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đề phòng Pháp bội ước.
- Đấu tranh với Tưởng đề phòng chúng cố tình kéo dài thời hạn đóng quân trên miền Bắc.
- Đề phòng các đảng phái phản động xuyên tạc, phá hoại.
- Chỉ đạo miền Nam gây dựng lại cơ sở đã mất và cổ động phong trào đòi thống nhất Bắc
- Trung - Nam.
Trong khi đó, thực dân Pháp sớm lộ rõ dã tâm phá hoại Hiệp định. Ngày 9-3-1946, quân
Pháp đổ bộ lên Hải Phòng và đóng trái phép ở Bến Bính. Ở miền Nam, thực dân Pháp không
những không ngừng bắn mà còn tiếp tục cho quân càn quét, đánh úp nhiều vị trí của bộ đội ta ở

Đồng Tháp Mười, Bình Thuận, Phan Rang… Với ý đồ tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, thực
dân Pháp thành lập Chính phủ Nam Kì tự trị (1-6-1946) do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu.
Ngày 24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ trên chiến hạm
Pháp tại vịnh Hạ Long. Tại cuộc gặp gỡ này và các lần trao đổi tiếp theo, phía Pháp đồng ý để
một phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang thăm Pháp. Việt Nam đồng ý họp Hội nghị trù bị tại
Đà Lạt và sau hội nghị trù bị, một phái đoàn Chính phủ Việt Nam sẽ sang thăm Pháp đàm phán
và kí một hiệp định chính thức. Chính phủ Pháp cũng mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm
chính thức nước Pháp trong dịp đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam sang thăm Pháp đàm phán.
Từ ngày 9-4 đến ngày 11-5-1946, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do Nguyễn Tường
Tam – Bộ trưởng Bộ Ngoại giao làm trưởng đoàn và đoàn đại biểu Pháp do Max André làm
trưởng đoàn đã họp Hội nghị trù bị tại Đà Lạt để trao đổi các vấn đề phải giải quyết trong cuộc
đàm phán chính thức.

×