Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Lịch sử sử học thế giới báo cáo tổng kết đề tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐH SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH










BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
LỊCH SỬ SỬ HỌC THẾ GIỚI
MÃ SỐ: CS.2006.19.07






NGƯỜI THỰC HIỆN
PGS.TS NGÔ MINH OANH





THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


2007


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐH SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH










BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI
LỊCH SỬ SỬ HỌC THẾ GIỚI
MÃ SỐ: CS.2006.19.07






NGƯỜI THỰC HIỆN
PGS.TS NGÔ MINH OANH






THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2007
2

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 4
I. Lý do chọn đề tài 4
II. Lịch sử vấn đề 4
III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu 9
V. Nguồn tƣ liệu 10
VI. Cấu trúc đề tài 10
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG I: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CỔ ĐẠI 12
I. Khái quát nhận thức lịch sử trong thời kỳ công xã nguyên thủy 12
II. Sử học thế giới thời cổ đại 13
1. Hoàn cảnh ra đời 13
2. Sở học phƣơng Đông thời cổ đại 14
3. Sử học phƣơng Tây thời cổ đại 36
CHƢƠNG II: SỬ HỌC THẾ GIỚI TRONG THỜI KỲ TRUNG ĐẠI 45
I. Hoàn cảnh ra đời của sử học phong kiến 45
II Sử học châu Âu thời phong kiến 46
1. Bối cảnh lịch sử 46
2. Sử học Thiên chúa giáo đầu thời Trung cổ 47
3. Sử học biên niên thế kỷ XI - XIV 49
4. Sử học thời kỳ Phục Hƣng 50
III. Sử học Phƣơng Đông thời phong kiến 54
1. Hoàn cảnh lịch sử 54
2. Sử học phong kiến phƣơng Đông 54

CHƢƠNG III: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CẬN ĐẠi 60
I. Hoàn cảnh lịch sử 60
II. Các trào lƣu sử học thời cận đại 61
1. Sử học tƣ sản 61
2. Sự ra đời của sử học Mácxit 73
CHƢƠNG IV: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI HIỆN ĐẠI 80
I. Bối cảnh lịch sử 80
3

II. Sự phát triển của sử học mác xít từ sau cách mạng Tháng Mƣời Nga đến nay 81
1. Bối cảnh lịch sử 81
2. Những thành tựu 81
III. Sử học tƣ sản thời hiện đại 87
1. Bối cảnh lịch sử 87
2. Một số khuynh hƣớng sử học tƣ sản chủ yếu 88
IV. Xu thế phát triển của sử học thế giới ngày nay 92
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHẦN PHỤ LỤC: Một số thuật ngữ lịch sử sử học 103
4

PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khoa học lịch sử ra đời và phát triển từ lâu đời và đã có nhiều thành tựu vô cùng to
lớn. Qua nhiều thời kì khác nhau các nhà sử học đã để lại nhiều công trình nghiên cứu về lịch
sử xã hội loài ngƣời, lịch sử từng dân tộc với nhiều quan điểm và nhiều trƣờng phái khác
nhau. Nhiều công trình lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc đƣợc các nhà sử học để lại không
những cung cấp một nguồn tƣ liệu phong phú mà còn cung cấp những phƣơng pháp tiếp cận
sử học một cách khoa học và hiệu quả.

Phục dựng lại bức tranh quá trình ra đời và phát triển của khoa học lịch sử, ghi nhận
và đánh giá công lao của các nhà sử học cũng nhƣ giá trị của các công trình sử học của các
nhà sử học tiền bối là một công việc cần thiết và có ý nghĩa. Việc trình bày lịch sử sử học
một cách có hệ thống và có phê phán sẽ giúp những nhà sử học hậu thế phát huy những kinh
nghiệm tốt, tránh lặp lại những hạn chế của những nhà sử học tiền bối đã gặp phải.
Lịch sử sử học là một khoa học mới, nó ra đời sau khoa học lịch sử một thời gian dài
trên cơ sở sự phát triển của sử học và nhu cầu nghiên cứu ngay chính bản thân khoa học lịch
sử. Ở Việt Nam hiện nay môn lịch sử sử học đang đƣợc đƣa vào nhà trƣờng giảng dạy cho
sinh viên các khoa lịch sử với một thời lƣợng khiêm tốn. Việc nghiên cứu lịch sử sử học cũng
đang còn ít đƣợc các nhà sử học quan tâm đầu tƣ đúng mức. Vì vậy, việc chọn đề tài nghiên
cứu lịch sử sử học chúng tôi mong muốn góp phần lấp vào khoảng trống đó. Hơn nữa, nghiên
cứu đề tài lịch sử sử học sẽ chuẩn bị một nguồn tƣ liệu quý phục vụ cho việc giảng dạy của
giáo viên và học tập của sinh viên khoa lịch sử trong các trƣờng đại học và cho những ngƣời
quan tâm.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đã có nhiều nhà sử học trên thế giới và trong nƣớc quan tâm nghiên cứu lịch sử sử
học. Có nhiều công trình của các nhà sử học thế giới đã đƣợc xuất bản.
Cuốn "Lịch sử là gì?" của nhà sử học Xô viết N.A. Êrôphêép do nhà xuất bản Giáo
dục Hà Nội xuất bản năm 1991. Có thể nói đây là một
5

cuốn sách trình bày về lí luận sử học đƣợc dịch và phổ biến khá sớm ở nƣớc ta. Cuốn sách
đƣợc trình bày khá hấp dẫn những vấn đề về phƣơng pháp luận sử học và lịch sử sử học.
Trong phần lịch sử sử học Êrôphêép đã trình bày một cách có hệ thống quá trình hình thành
và phát triển của khoa học lịch sử. Từ những tri thức lịch sử đầu tiên mang tính chất truyền
thuyết và huyền thoại, nhận thức của con ngƣời về lịch sử qua các thời kì trung đại, cận đại
và hiện đại. Tác giả chú ý phân tích khá chi tiết và công phu về mốc ra đời của khoa học lịch
sử, đặc biệt là từ khi Chủ nghĩa Mác ra đời đã tạo nên một cuộc cách mạng trong nhận thức
sử học. Đây là một quyển sách có giá trị cung cấp những tri thức nhập môn về lịch sử sử học,
nhƣng do cuốn sách đƣợc xuất bản ở Liên Xô vào những năm 60 nên chƣa thể cập nhật đƣợc

những kiến thức và quan điểm mới về lịch sử sử học.
Cuốn "Các trƣờng phái lịch sử" của tác giả Guy Thuillier và Jean Tulard, giáo sƣ
trƣờng đại học Paris - Sorbonne do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2002. Cuốn sách gồm
có 7 chƣơng, chƣơng 1 trình bày lịch sử trong thời trung đại làm cơ sở cho việc trình bày các
trƣờng phái sử học trong thời cận đại nhƣ Trƣờng phái thực chứng, những biến đổi của sử
học, sự khủng hoảng của sử học, thực trạng của sử học ngày nay và dự báo về tƣơng lai của
sử học.
Cuốn sách cùng tên "Các trƣờng phái sử học" của Guy Bourdé -Hervé Martin là một
cuốn sách trình bày về các trƣờng phái sử học. Sách gồm có 14 chƣơng, trình bày khá hệ
thống về các giai đoan hình thành và phát triển của sử học thế giới nhƣ các quan điểm về
phƣơng pháp biên soạn lịch sử cổ đại, sử học Thiên chúa giáo, sử học biên niên, Chủ nghĩa
Mác và lịch sử, đổi mới lịch sử chính trị. v.v
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây lịch sử sử học cũng đƣợc quan tâm nghiên cứu
ở các trƣờng Đại học Khoa học Xã hội - Nhân văn Hà Nội, trƣờng đại học sƣ phạm Hà Nội
và các trƣờng đại học khác. Nhiều trƣờng đại học có khoa lịch sử đã đƣa môn lịch sử sử học
vào giảng dạy chính khóa cho sinh viên.
Lịch sử sử học đƣợc trình bày trong các cuốn Nhập môn sử học do Lê Văn Sáu,
Trƣơng Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1987. Đây là một cuốn
sách mỏng thƣờng đƣợc dùng để dạy cho sinh viên khoa sử trƣờng đại học sƣ phạm năm thứ
nhất nên việc trình bày lịch sử sử học trong cuốn sách này cũng chỉ ở dạng tóm lƣợc.
6

Lịch sử sử học đã đƣợc trình bày trong cuốn Phƣơng pháp luận sử học do GS Phan
Ngọc Liên và các giảng viên khoa Lịch sử, Trƣờng đại học sƣ phạm Hà Nội biên soạn, xuất
bản vào các năm 1999, 2003. Tuy nhiên mục đích của các cuốn sách là trình bày về phƣơng
pháp luận sử học cho nên phần lịch sử sử học chi đƣợc trình bày một cách sơ lƣợc, nhiều nội
dung chƣa đƣợc đề cập một cách thấu đáo.
Cuốn Lịch sử sử học thế giới của Hoàng Hồng, giáo trình cơ sở giai đoạn 1, Trƣờng
đại học Tổng hợp Hà Nội, in năm 1990. Tác giả đã hệ thống quá trình phát triển của lịch sử
sử học thế giới, tuy nhiên trong khuôn khổ của một giáo trình, cuốn sách không có điều kiện

để trình bày thật chi tiết những nội dung của lịch sử sử học. Hơn nữa vì cuốn sách đã in cách
đây 18 năm nên những vấn đề mới của sử học thế giới chƣa đƣợc đề cập tới.
Cuốn Lịch sử sử học thế giới do Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế xuất bản trình
bày lịch sử sử học một cách có hệ thống hơn. Tuy nhiên do đối tƣợng của cuốn sách là dùng
cho học viên từ xa của Huế nên trình bày lịch sử sử học thế giới từ cổ chí kim mà chỉ vỏn vẹn
59 trang, vì thế cũng không tránh khỏi việc trình bày một cách sơ lƣợc về những thành tựu sử
học thế giới.
Cuốn Lịch sử sử học thế giới do GS. Phan Ngọc Liên và GS. Đỗ Thanh Bình đồng
chủ biên cùng các giảng viên trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội biên soạn, Nhà xuất bản Đại
học Sƣ phạm Hà Nội xuất bản năm 2005. Có thể nói đây là một cuốn sách Lịch sử sử học thế
giới tƣơng đối đầy đủ và hệ thống từ trƣớc tới nay. Sách dày 236 trang với 4 chƣơng đƣợc kết
cấu và phân kì theo truyền thống tƣơng ứng với 4 giai đoạn là lịch sử sử học thời cổ đại, thời
trung đại, thời cân đại và thời hiện đại. Sách có phần đọc thêm chiếm 62 trang làm sáng tỏ
thêm những nội dung vấn đề đã đƣợc trình bày trong phần chính. Tuy nhiên do phần phụ lục
chiếm đến một phần tƣ dung lƣợng cuốn sách nên phần nội dung chính còn lại cũng rất
khiêm tốn. Hơn nữa, phần sử học thời hiện đại, nhất là các xu hƣớng, quan điểm và thành tựu
sử học ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây, sử học các nƣớc Á, Phi, Mĩ - Latinh chƣa đƣợc
trình bày trong sách.
Kế thừa những thành tựu của các nhà khoa học trƣớc đã đạt đƣợc, bổ sung thêm
những nội dung mới để mong muốn có một kết quả nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và toàn diện
về lịch sử sử học thế giới là mong muốn của chúng tôi.
7

III. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu
Thuật ngữ lịch sử sử học tƣơng ứng với thuật ngữ: Historiographie của tiếng Pháp;
Histography trong tiếng Anh; Istoriagraphia của tiếng Nga và từ nhiều thuật ngữ của các
ngôn ngữ có gốc Latinh khác. Lịch sử loài ngƣời bắt đầu từ khi con ngƣời và xã hội ra đời.
Ngay từ khi đó con ngƣời luôn tìm cách để tìm hiểu về nguồn gốc của mình, của xã hội loài
ngƣời và thế giới tự nhiên ở xung quanh. Nhƣ vật từ khi xã hội loài ngƣời xuất hiện con

ngƣời đã có ý thức tìm hiểu thế giới. Từ thực tế đó mà Engels đã nói “Lịch sử bắt đầu từ đâu
thì tƣ duy bắt đầu từ đó".
Lúc đầu mới chỉ là những nhận thức lịch sử còn sơ khai mang nặng tính chất truyền
thuyết, huyền thoại, dần dần khoa học lịch sử ra đời và phát triển. Con ngƣời xuất hiện cách
nay khoảng 3 - 4 triệu năm còn khoa học lịch sử thì mới xuất hiện gần đây.
Từ sự phát triển không ngừng của khoa học lịch sử đến một mức độ nào đó, các nhà
sử học thấy cần thiết phải nhận thức ngay chính quá trình phát triển của khoa học mình. Cũng
nhƣ các sự vật hiện tƣợng, các bộ môn khoa học đều có lịch sử của mình, đó là quá trình ra
đời, phát triển qua các thời kỳ khác nhau.
Nhƣ vậy, lịch sử sử học là khoa học nghiên cứu chính bản thân khoa học lịch sử. Về
cơ bản nội dung của thuật ngữ này thể hiện một trong những hình thức quan trọng để nhận
thức xã hội loài ngƣời.
Nội hàm của thuật ngữ lịch sử sử học có hai nội dung chính. Thứ nhất, nó chỉ toàn bộ
những công trình nghiên cứu về một đề tài nhất định, hay về một thời kỳ lịch sử, nhƣ các
công trình sử học về chiến tranh Việt Nam, về Cách mạng tháng Mƣời Nga, về các cuộc cách
mạng tƣ sản thời cận đại Đó là những tác phẩm sử học của một thời đại, của một nƣớc, một
giai cấp theo một cơ sở lý luận hay một khuynh hƣớng tƣ tƣởng nhất định nhƣ sử học Mác
xít, sử học Liên Xô, sử học Trung Quốc Thứ hai, nó dùng để chỉ một khoa học chuyên
nghiên cứu lịch sử của khoa học lịch sử.
Với thuật ngữ này trên ngữ nghĩa tiếng Việt và cách hiểu thống nhất thì lịch sử sử học
là một khoa học chuyên nghiên cứu lịch sử của khoa học lịch sử với quá trình hình thành,
phát triển của nó. Nghiên cứu lịch sử
8

của khoa học lịch sử trên cơ sở tìm hiểu các giai đoạn của quá trình nhận thức và tích lũy tri
thức lịch sử, quá trình xác lập các quan điểm, các khuynh hƣớng và phƣơng pháp luận nghiên
cứu tác giả, tác phẩm.
Lịch sử sử học với tƣ cách là một khoa học thể hiện việc tổng kết những hiểu biết của
con ngƣời về lịch sử, đạt tới trình độ khái quát hóa, đi sâu vào bản chất, phát hiện quy luật
của việc nhận thức lịch sử, tiếp cận chân lý, phục vụ nghiên cứu lịch sử.

Từ việc phân tích trên đây, chúng ta có thể xác định đối tƣợng của lịch sử sử học nhƣ
sau: Đối tƣợng nghiên cứu của lịch sử sử học là quá trình ra đời và phát triển của chính bản
thân khoa học lịch sử.
Quá trình hình thành và phát triển đó đƣợc nhận thức, nghiên cứu trên các mặt sau
đây:
- Tìm hiểu quá trình hình thành và tích lũy tri thức lịch sử của nhân loại qua các giai
đoạn lịch sử.
- Việc xác lập các quan điểm, các khuynh hƣớng, các trƣờng phái trong nghiên cứu
lịch sử.
- Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử của các tác giả, tác phẩm.
- Các giai đoạn phát triển và những thành tựu nghiên cứu sử học thế giới.
So sánh đối tƣợng nghiên cứu của sử học và lịch sử sử học, chúng ta thấy rằng cũng
nhƣ các khoa học khác, lịch sử sử học với tƣ cách là một khoa học thể hiện ở việc tổng kết
những hiểu biết của con ngƣời về lịch sử, đạt tới trình độ khái quát hóa, trừu tƣợng hóa, đi
sâu vào bản chất, phát hiện quy luật của việc nhận thức lịch sử, tiếp cận chân lý, phục vụ việc
nghiên cứu lịch sử. Còn khoa học lịch sử nghiên cứu ngay chính quá trình phát triển của xã
hội loài ngƣời trong sự nghiệp chinh phục tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển không
ngừng.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ cho phép của một đề tài cấp cơ sở, chúng tôi giới hạn tập trung
nghiên cứu trong một phạm vi sau đây:
- Những thành tựu trong việc khám phá và tích lũy tri thức lịch sử của nhân loại thể
hiện trong các công trình sử học của các nhà sử học tiêu biểu qua các thời đại.
9

- Các quan điểm, các trƣờng phái sử học ra đời và phát triển cũng nhƣ đóng góp của
nó vào kho tàng sử học nhân loại.
- Những thành tựu trong việc ngày càng hoàn thiện phƣơng pháp luận, các phƣơng
pháp chuyên ngành, hệ thống các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể trong nghiên cứu lịch sử
của sử học thế giới.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong giới hạn cho phép, tác giả đề tài đặt ra cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Tìm hiểu sự tích lũy tri thức lịch sử của xã hội loài ngƣời từ thời nguyên thủy đến
ngày nay, chủ yếu là từ khi khoa học lịch sử ra đời.
- Tổng kết và hệ thống những thành tựu nghiên cứu lịch sử của nhân loại qua các
chặng đƣờng phát triển của lịch sử sử học thế giới trong những điều kiện lịch sử cụ thể của
thời đại, của từng quốc gia, dân tộc.
- Các khuynh hƣớng, quan điểm, tƣ tƣởng của một nền sử học, những cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực sử học giữa các trƣờng phái.
- Tìm hiểu quá trình tích lũy hệ thống các phƣơng pháp sƣu tầm tƣ liệu, nghiên cứu
lịch sử, những kỹ thuật nghiên cứu, sự kế thừa và phát triển các phƣơng pháp trong nghiên
cứu lịch sử.
- Thân thế, sự nghiệp của các nhà sử học tiêu biểu, giá trị của những công trình sử
học tiêu biểu.
- Tác dụng của sử học đối với nhân loại, dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử.
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở phƣơng pháp luận
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là cơ sở phƣơng pháp luận cho tác
giả trong quá trình nghiên cứu.
Từ những cơ sở phƣơng pháp luận nói trên, chúng tôi sẽ tập trung vào một số vấn đề
cơ bản nhƣ xuất phát từ thực tế khách quan để xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa tài liệu sự
kiện với khái quát lý luận. Bởi chỉ có xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa tài liệu sự kiện và khái
quát lý luận, chúng ta mới có thể sử dụng tốt phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp lôgic
trong nghiên cứu lịch sử sử học.
10

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng lƣu ý đến vấn đề phân kỳ lịch sử sử học.
Đây là một trong những vấn đề trọng tâm về phƣơng pháp luận trong nghiên cứu lĩnh vực
lịch sử sử học. Việc phân chia các giai đoạn hình thành và phát triển của sử học trƣớc hết

phải dựa trên những lí luận về phân kỳ lịch sử, trên bản thân khoa học lịch sử và học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để phân kì lịch sử sử học một các khách quan, chính xác, chúng tôi dựa trên những
tiêu chí của sự phân kỳ lịch sử sử học sau đây nhƣ dựa vào sự phân kỳ lịch sử thế giới và lịch
sử dân tộc; khi phân kỳ lịch sử sử học phải xác định những mốc lớn, những sự kiện quan
trọng và những thành tựu trong nghiên cứu lịch sử, đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát
triển của sử học.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin nói trên, vì lịch sử sử học là
một chuyên ngành hẹp của khoa học lịch sử nên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng
các phƣơng pháp chuyên ngành khoa học lịch sử nhƣ phƣơng pháp lôgic, phƣơng pháp lịch
sử, phƣơng pháp định lƣợng, phƣơng pháp sử học so sánh và các phƣơng pháp nghiên cứu cụ
thể khác.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành có liên quan.
V. NGUỒN TƢ LIỆU
Để hoàn thành đề tài này chúng tôi đã dựa trên những nguồn tƣ liệu sau đây:
- Những tác phẩm sử học của các nhà sử học tiêu biểu qua các giai đoạn phát triển của
sử học.
- Những công trình nghiên cứu về các nhà sử học, các trƣờng phái sử học và thành tựu
sử học của các nhà sử học trong và ngoài nƣớc.
- Các tài liệu thông tin ở trên các vebsit.
VI. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đƣợc chia làm các phần nhƣ sau:
11


A. Phần mở đầu :
1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
5. Nguồn tƣ liệu
6. Cấu trúc của đề tài
B. Phần nội dung
Chƣơng I. SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CỔ ĐẠI
Chƣơng II. SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI TRUNG ĐẠI
Chƣơng III. SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CẬN ĐẠI
Chƣơng IV. SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI HIỆN ĐẠI
Kết luận
C. Tài liệu tham khảo
D. Phần phụ lục.
12


CHƢƠNG I: SỬ HỌC THẾ GIỚI THỜI CỔ ĐẠI
I. Khái quát nhận thức lịch sử trong thời kỳ công xã nguyên thủy
Loài ngƣời xuất hiện cách ngày nay gần 4 triệu năm. Khi con ngƣời xuất hiện cũng là
lúc đánh dấu sự ra đời của xã hội loài ngƣời với những sinh hoạt xã hội, cộng đồng ở mức độ
sơ khai. Bên cạnh những họat động lao động sản xuất để duy trì và phát triển cuộc sống, con
ngƣời luôn tìm cách để tìm hiểu thế giới tự nhiên và tìm hiểu ngay chính bản thân xã hội loài
ngƣời. "Con ngƣời bắt đầu từ đâu thì tƣ duy bắt đầu từ đó". Tƣ duy sơ khai đầu tiên của con
ngƣời là tìm hiểu chính bản thân mình và thế giới xung quanh. Họ tìm cách trả lời những câu
hỏi về nguồn gốc con ngƣời và xã hội loài ngƣời, tìm hiểu thế giới tự nhiên bao la xung
quanh mình. Những tri thức và quan niệm về lịch sử đã có trong các câu chuyện dân gian,
truyền miệng của mỗi bộ tộc, dân tộc có lẽ cũng không nhằm mục đích trả lời những câu hỏi
đó. Những tri thức đầu tiên đó là sản phẩm của tƣ duy, phản ánh những quan niệm của tập
đoàn ngƣời về chính bản thân mình, về các sự kiện xảy ra xung quanh, về những mối quan hệ
giữa con ngƣời với thiên nhiên, con ngƣời với nhau.
Qua các truyền thuyết, cổ tích, các nhà sử học đã rút ra đƣợc những sử liệu về cuộc
sống của con ngƣời và quan niệm cổ xƣa của họ về lịch sử. Tuy nhiên nhận thức lịch sử của

con ngƣời trong xã hội công xã nguyên thủy còn có những hạn chế nhất định khi nhận thức
về thời gian và về các sự kiện có thực trong lịch sử.
Con ngƣời trong thời kì công xã nguyên thủy tuy đã ý thức đƣợc về thời gian, coi thời
gian là một yếu tố hiện hữu gắn với cuộc sống của họ. Nhƣng thời gian trôi đi trở thành quá
khứ đối với họ chỉ là một cái gì có trƣớc hiện tại, họ không phân biệt đƣợc quá khứ xa và quá
khứ gần, quá khứ của ngày hôm qua và ngày hôm kia. Điều này đƣợc các nhà khoa học
chứng minh trên cơ sở nghiên cứu tâm lí trẻ em mới lớn và ở nhận thức của các bộ lạc còn
lạc hậu hiện nay trên thế giới.
Nhận thức của con ngƣời trong thời kì này cũng còn mang nặng tính chất thần bí, tôn
giáo. Hình nhƣ bất cứ sự thật lịch sử nào cũng đƣợc thần
13


thoại hóa và truyền thuyết hóa. Lúc bấy giờ do con ngƣời chƣa có chữ viết, nên những sự
kiện lịch sử chỉ đƣợc lƣu truyền lại bằng truyền miệng từ thời này qua thời khác. Thời gian đã
trải qua khá lâu, những thế hệ sau cũng không biết những gì mà mình nghe đƣợc có phải là sự
thực không. Việc lƣu truyền bằng miệng các câu chuyện lịch sử, ngoài việc bị "tam sao thất
bản" có lẽ con ngƣời cũng cần truyền thuyết hoá các câu chuyện cho li kì, hấp dẫn để dễ
thuộc, dễ nhớ.
Những hạn chế nói trên đã đƣợc khắc phục khi chữ viết ra đời. Sự phát minh ra chữ
viết đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhận thức lịch sử của con ngƣời trong thời
kì công xã nguyên thủy.
Nhờ có chữ viết, một phƣơng tiện để con ngƣời ghi chép lại những sự kiện xảy ra
trong đời sống hàng ngày. Nhờ sự ghi chép đó mà giúp con ngƣời phân biệt đâu là những sự
kiện có thực và đâu là những sự kiện chỉ có trong truyền thuyết và huyền thoại. Thời gian
nhƣ đƣợc kéo dài ra bởi nó đƣợc nêm chặt bởi những sự kiện đƣợc ghi chép lại. Và cũng nhờ
sự ghi chép đó mà con ngƣời biết đƣợc sự vận động của thời gian theo chiều thẳng đứng đi từ
quá khứ đến hiện tại, đến tƣơng lai không bao giờ trở lại,.
Để tồn tại và phát triển, con ngƣời không ngừng sáng tạo và cải tiến công cụ lao động.
Nhờ sự cải tiến công cụ lao động mà lực lƣợng sản xuất không ngừng phát triển, năng suất

lao động không ngừng đƣợc tăng lên, xã hội phân chia thành kẻ giàu ngƣời nghèo. Giai cấp
và nhà nƣớc xuất hiện, xã hội loài ngƣời bắt đầu bƣớc vào thời đại văn minh. Việc xã hội loài
ngƣời bƣớc vào thời kì văn minh, nhận thức của con ngƣời, trong đó có nhận thức lịch sử có
điều kiện phát triển, nhận thức đƣợc nâng lên một tầm hiểu biết mới cả về tri thức lịch sử lẫn
hình thức thể hiện. Trong thời cổ đại, xã hội loài ngƣời đã bƣớc đầu đạt đƣợc những thành
tựu trong nhận thức và thể hiện lịch sử.
II. Sử học thế giới thời cổ đại
1. Hoàn cảnh ra đời
Sự chuyển biến của xã hội từ không có giai cấp sang xã hội có giai cấp và nhà nƣớc là
một bƣớc phát triển của xã hội loài nguời. Tuy việc xuất hiện giai cấp và nhà nƣớc đã dẫn
đến tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời nhƣng mặt tích cực của nó là từ đây xã hội đã đƣợc tổ
chức và có trật tự nhờ
14

những quy định hay những điều luật bắt buộc tất cả mọi ngƣời trong xã hội đều phải tuân thủ.
Để cũng cố và duy trì sự thống trị của mình, giai cấp thống trị đã biết sử dụng những
tri thức khoa học để làm công cụ thống trị, khống chế và đàn áp giai cấp bị trị. Giai cấp thống
trị tạo điều kiện cho một số ngƣời có khả năng chuyên tâm nghiên cứu khoa học. Việc xuất
hiện một bộ phận những ngƣời không phải trực tiếp lao động sản xuất làm ra của cải vật chất
để chuyên vào việc nghiên cứu khoa học làm cho khoa học bắt đầu ra đời. Làm khoa học
cũng đƣợc coi là một nghề mà trong các ngành nghề khoa học đó có nghề viết sử. Nhƣ vậy
việc nhận thức lịch sử từ nhu cầu và công việc của tất cả mọi ngƣời trong xã hội đã trở thành
một nghề của một số ít ngƣời chuyên viết lịch sử. Họ viết sử để phục vụ cho giai cấp thống
trị, cho nhà nƣớc đã nuôi sống họ.
Bên cạnh nền sử học chính thông của giai cấp thống trị, nhân dân lao động vốn rất
yêu thích lịch sử, vẫn ghi nhớ lịch sử và dùng tri thức lịch sử để giáo dục cho các thế hệ con
cháu. Xuất phát từ địa vị khác nhau, có chỗ đứng và lợi ích khác nhau nên đã hình thành nên
những cách nhìn nhận khác nhau về lịch sử. Điều đó nó phản ánh những quan điểm khác
nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp lúc bấy giờ mà biểu hiện cụ thể của nó là đấu tranh trên
lĩnh vực nhận thức lịch sử.

Sử học trong xã hội có giai cấp nói chung và trong xã hội chiếm hữu nô lệ nói riêng
đƣợc hình thành và mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, phục vụ cho giai cấp thống trị.
Các nhà sử học, các nền sử học thời cổ đại đã hình thành trong bối cảnh lịch sử đó.
Do ra đời ở những vùng đất khác nhau, có những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau nên đã
hình thành các nền sử học khác nhau ở phƣơng Đông và phƣơng Tây.
2. Sở học phương Đông thời cổ đại
2.1. Cơ sở hình thành
Xã hội phƣơng Đông xuất hiện trên lƣu vực những con sông lớn nhƣ sông Nil ở Ai
Cập, sông Hoàng Hà và Trƣờng Giang ở Trung Quốc, sông Ấn (Indus) và sông Hằng
(Gange) ở Ấn Độ, sông Tigrơ và Ơphrát ở Lƣỡng Hà Lƣu vực của những con sông này là
những vùng đồng bằng phì nhiêu, có khí hậu ấm áp, nguồn nƣớc phong phú, đất đai màu
mỡ là những
15

điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Từ những trung tâm nông nghiệp này đã hình
thành nên những nền văn minh từ rất sớm. Ngƣời phƣơng Đông cổ đại đã sớm phát hiện và
lợi dụng những thuận lợi để phát triển sản xuất và xây dựng nên nền văn minh của mình.
Tuy nhiên các quốc gia cổ đại bị ngăn cách bởi hệ thống núi non trùng điệp, những sa
mạc mênh mông, sông sâu, biển rộng mà phƣơng tiện giao thông còn hạn chế lúc bấy giờ
đã làm cho những nền văn minh các nƣớc phát triển một cách độc đáo, mang đậm bản sắc
dân tộc.
Sức sản xuất ở trình độ thấp nên ở phƣơng Đông không phát triển chế độ chiếm hữu
nô lệ một cách điển hình. Chế độ tƣ hữu ruộng đất phát triển yếu ớt, công xã nông thôn tồn
tại dai dẳng, tính chất của xã hội thị tộc nguyên thủy đã gây nên tình trạng trì trệ, yếu kém
của nền văn minh phƣơng Đông.
Về mặt xã hội, phƣơng Đông cổ đại tồn tại một hình thức nhà nƣớc đặc thù, nhà nƣớc
quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong tay nhà vua và một
bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu Chế độ nô lệ gia trƣởng và các hình thức bóc lột kiểu
gia trƣởng tồn tại lâu dài cũng là một yếu đặc thù của xã hội phƣơng Đông.
Hoàn cảnh tự nhiên và xã hội trên đây đã ảnh hƣởng không nhỏ đến nền sử học

phƣơng Đông từ quan niệm về mục đích viết sử, vể hình thức phản ánh và trình bày sử học
2.2. Sử học phương Đông thời cổ đại
2.2.1 Sử học Trung Quốc
Bối cảnh lịch sử:
Trung Quốc là một trong những nền văn minh lớn của phƣơng Đông cổ trung đại.
Cũng nhƣ các nƣớc khác ở phƣơng Đông, Trung Quốc có hai dòng sông Hoàng Hà và
Trƣờng Giang chảy qua đều dài trên 4000 kilômét đã tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển
nông nghiệp từ rất sớm. Cƣ dân ở đây có kinh nghiệm làm thủy lợi, trồng kê, cao lƣơng, dệt
vải, đúc đồng. Chính sự thống nhất hai trung tâm nông nghiệp Hoàng Hà và Trƣờng Giang đã
hình thành nên nền văn minh Trung Quốc.
Khoảng thiên niên kỷ II TCN xã hội có giai cấp và nhà nƣớc đầu tiên của Trung Quốc
đã hình thành trên lƣu vực sông Hoàng Hà. Từ địa bàn chủ yếu vùng lƣu vực sông Hoàng Hà,
các triều đại ở Trung Quốc đã xâm
16

chiếm đất đai, mở mang bờ cõi về phía Nam, vì thế địa bàn của Trung Quốc dần dần đƣợc
mở rộng đến tận lƣu vực sông Trƣờng Giang.
Cƣ dân của Trung Quốc ở lƣu vực sông Hoàng Hà lúc đầu gọi là bộ tộc Hạ hoặc Hoa
Hạ, là tổ tiên của ngƣời Hán sau này. Còn ở lƣu vực sông Trƣờng Giang có các nƣớc Sở,
Ngô, Việt sinh sống có ngôn ngữ và phong tục tập quán khác với cƣ dân vùng Hoàng Hà.
Trong thời Xuân Thu, trải qua quá trình tiếp xúc, cƣ dân ở đây đã đồng hóa với ngƣời Hoa
Hạ. Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, cƣ dân ở đây không những có cùng lãnh thổ mà
còn có cộng đồng về sinh hoạt kinh tế, ngôn ngữ, chữ viết và tâm lí đã hình thành nên một
dân tộc ổn định. Ngƣời Trung Quốc đã tự cho mình ở giữa là trung tâm của tinh hoa nên còn
gọi là Trung Hoa, còn các dân tộc khác ở xung quanh đều lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung,
Địch
Quyền lực của giai cấp thống trị đƣợc mở rộng bao gồm địa chủ, quí tộc, quan lại
(vƣơng hầu, tôn thất, quan lại lớn trong triều đình ). Cũng nhƣ các quốc gia cổ đại phƣơng
Đông khác, do những yếu tố tự nhiên và xã hội chi phối Trung Quốc tồn tại hình thức nhà
nƣớc quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền, vua có quyền lực vô hạn đƣợc coi là Thiên

Tử, còn chính quyền nhà nƣớc đƣợc gọi là Thiên triều. Nhờ quyền lực vô hạn, nhà nƣớc
Trung Quốc đã huy động sức mạnh to lớn của thần dân tạo nên một nền văn minh rực rỡ từ
rất sớm.
Bên cạnh những kinh nghiệm và thành tựu về sản xuất nông nghiệp, ngƣời Trung
Quốc cũng đã có những thành tựu văn minh về khoa học kĩ thuật, về kiến trúc, nghệ thuật. Hệ
thống đền đài, lăng tẩm, hoàng cung, công trình kiến trúc Vạn lí Trƣờng thành là những
kiệt tác tầm cỡ thế giới. Đặc biệt là bốn phát minh về kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc
súng, la bàn đã khẳng định những đóng góp to lớn của nền văn minh Trung Quốc vào nền
văn minh nhân loại. Những học thuyết về tƣ tƣởng - tôn giáo đã ra đời nhƣ Nho giáo, Lão
giáo, Đạo giáo có ảnh hƣởng, chi phối to lớn đến tƣ tƣởng xã hội, trong đó có sử học.
Trên cái nền kinh tế - văn hóa đó nền sử học Trung Quốc từ rất sớm đã ra đời và phát
triển.
Những thành tựu sử học
Trung Quốc là một nƣớc rất coi trọng sử học trên thế giới, vì thế ngay từ thời cổ đại
mầm mống sử học đã xuất hiện từ rất sớm. Cũng nhƣ các dân
17

tộc trên thế giới con ngƣời trong xã hội nguyên thủy Trung Quốc ghi nhớ về những truyền
thuyết của thị tộc, bộ lạc và quá trình phát triển của thị tộc bộ lạc đó. Họ kể lại một cách hệ
thống và hấp dẫn cho hậu thế những điều ghi nhớ ấy bằng truyền khẩu, khắc vào đá hay bằng
văn tự kết thừng. Những ngƣời làm việc đó có thể là những ngƣời tộc trƣởng hay những thầy
phù thủy.
Truyền thuyết Trung Quốc cho rằng ngay từ thời Hoàng Đế, Trung Quốc đã có sử.
Lúc bấy giờ đã xuất hiện những sử gia nhƣ Đại Náo, Thƣơng Hiệt mà tên tuổi còn lƣu lại đến
bây giờ. Tuy nhiên những cứ liệu đáng tin cậy về sự xuất hiện những tri thức lịch sử sớm
nhất ở Trung Quốc là vào đời nhà Thƣơng. Trong các văn tự giáp, cốt ngƣời ta đã phát hiện
ra những tƣ liệu lịch sử có giá trị và có thể xem là mầm mống của sự ra đời của sử học.
Đời Hạ có sử quan Chung Cổ, đời Thƣơng có Hƣớng Chấp, đời Chu có Sử Dật, Chu
Nhiệm, Sử Trụ. Thời Chu, trong bộ máy nhà nƣớc có các viên quan - những ngƣời "thƣ kí"
chuyên lo việc giấy tờ của triều đình. Ngoài việc trông coi, soạn thảo các giấy tờ cho vua, các

thƣ kí còn có nhiệm vụ ghi chép các sự việc xảy ra chủ yếu ở trong cung đình mà ngƣời ta
gọi là sử quan. sử quan còn đƣợc chia thành các loại: Thái sử (Tả sử), tiểu sử, nội sử ( Hữu
sử), ngoại sử, ngự sử
Cùng với những nhiệm vụ khác nhau nên sử quan cũng đƣợc phân chia theo các công
việc đƣợc đảm nhận nhƣ:
Quan nội sử chuyên lo viết các mệnh lệnh của nhà vua để ban bố trong nƣớc.
Quan ngoai sử lo việc đối ngoại, bang giao với bên ngoài nhƣ truyền lệnh nhà vua
cho các chƣ hầu.
Quan ngự sử chuyên viết các bài ca ngợi công đức của nhà vua.
Quan thái sử chuyên ghi chép những sự việc xảy ra trong triều đình, và một phần
những công việc xảy ra trong dân chúng.
Nghề viết sử lúc bấy giờ đã có những quan niệm về đạo đức nghề nghiệp, có sử quan
luôn trung thực, giữ vững lập trƣờng, khí tiết của mình dù bị đe dọa, trấn áp, thà chết chứ
không chịu chép sai sự thực. Ở trung Quốc còn lƣu truyền câu chuyện vào thời Xuân Thu ở
nƣớc Tề có các quan chép sử luôn tôn trọng sự thật, dù tín mạng bi uy hiếp. Các nhà chép sử
Thái sử Bá, Thái sử Trọng, Thái sử Thúc, Thái sử Quý và Nam sử Thị sống
18


vào thế kỉ thứ VI TCN. Lúc bấy giờ, Thôi Trữ đã giết vua để cƣớp ngôi nhƣng lại bắt Thái sử
Bá chép là "Tiên quân bị bệnh mà băng hà". Nhƣng Thái sử Bá vẫn chép: "Mùa Hạ, tháng
năm, Thôi Trữ mƣu sát Quốc quân Quang (tên tục Tề Trang Công)". Hai ngƣời em của Thái
sử Bá là Thái sử Trọng và Thái sử Thúc cũng chấp nhận chết để viết sự thật nhƣ anh của
mình, vì "làm chức thái sử chỉ sợ không trung thực chứ không sợ chết". Thôi Trữ phải khuất
phục trƣớc sự khảng khái của ba anh em Thái sử Bá mà chấp nhận tha chết cho hai ngƣời còn
lại.
Mặc dù vậy, nhƣng vì phần lớn các sử quan đều hƣởng lộc của triều đình nên luôn
trung thành với nhà vua, ghi chép mọi sự việc có liên quan đến nhà vua, phục vụ cho triều
đình mà ít đề cập đến đời sống của của nhân dân lao động. Nếu có đề cập đến quần chúng
nhân dân thì cũng đƣợc nhắc tới nhƣ là giặc giã, nổi loạn.

Những nhà sử học tiêu biểu
KHỔNG TỬ (551- 479 TCN)
Khổng Tử tên là Khổng Khâu, hiệu là Trọng Ni, ngƣời nƣớc Lỗ. Cha của Khổng Tử
tên là Thúc Lƣơng Ngột vốn là một quan võ có dòng dõi quý tộc. Mẹ là Nhan Chinh Tại, vợ
thứ của Thúc Lƣơng Ngột, kém chồng rất nhiều tuổi. Hai ngƣời lấy nhau đã lâu nhƣng không
có con, trong lúc Thúc Lƣơng Ngột lại nóng lòng muốn có đứa con trai nên hai ngƣời đã đƣa
nhau lên núi Ni Khâu xin thần Núi phù hộ cho sớm sinh quý tử. Quả nhiên sau đó Nhan
Chinh Tại mang thai và đến năm Lỗ Tƣơng Công thứ 22 ( 551 TCN) sinh đƣợc một con trai
kháu khỉnh. Thúc Lƣơng Ngột rất lấy làm vui mừng và đặt tên con là Khổng Khâu, tên chữ là
Trọng Ni, tức là đứa con trai thứ hai sinh ra nhờ cầu khấn ở núi Ni Khâu.
Khi Khổng Tử mới lên ba tuổi, cha của ông qua đời, vì thế hai mẹ con ông đã phải
sống một cuộc đời rất cực khổ. Ngƣời vợ cả của Thúc Lƣơng Ngột không cho Nhan Chinh
Tại đi đƣa tang chồng và đối xử bất công với mẹ con Khổng Tử.
Mẹ con ông phải dắt díu nhau đến Khúc Phụ vốn là nơi đô thành của nƣớc Lỗ. Là một
phụ nữ giàu nghị lực, mẹ Khổng Tử đã làm đủ mọi nghề để kiếm sống và nuôi con khôn lớn.
Khúc Phụ vốn là nơi đô hội lúc bấy giờ, chỉ thua kém Lạc Ấp vì thế nơi đây còn lƣu giữ
những tục lệ, phép tắc và văn hóa truyền thống của Trung Hoa. Vốn là ngƣời thông minh và
hiếu
19


động, từ tóc còn nhỏ Khổng Tử đã thích thăm viếng những đền đài, lăng tẩm, quan sát những
bậc kì lão trang nghiêm tế lễ. Ngoài việc học tập văn chƣơng, Khổng Tử chú trọng đến
những suy ngẫm về đạo đức nhƣ hiếu đễ với mẹ, kính nhƣờng ngƣời lớn, thƣơng ngƣời nhƣ
thể thƣơng thân
Đến năm 30 tuổi, "tam thập nhi lập" nhƣ ông đã từng nói, Khổng Tử mở trƣờng dạy
học. Đây là một bƣớc ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ông, đánh dấu sự trƣởng thành của
ông. Khổng Tử đã có một học vấn vững chắc trên con đƣờng học tập và tu chính đạo đức.
Tiếng tăm và đức hạnh đƣợc nhiều ngƣời biết đến, ông đƣợc vua nƣớc Lỗ trao cho chức
Trung đô tễ. Đến năm 52 tuổi ông đƣợc thăng chức Tƣ không kiêm Đại tƣ khấu. Và đến năm

56 tuổi, ông đƣợc vua phong cho chức Tƣớng quốc.
Tuy quyền cao chức trọng nhƣng Khổng Tử vẫn một mực khiêm cung, lời nói hòa ái
mà cƣơng trực giúp cho quyền thế nhà vua trở nên mạnh mẽ, địa vị nƣớc Lỗ trở nên hùng
cƣờng. Trong thời gian làm tƣớng quốc, ông đã giúp vua thu hồi những phần đất bị thôn tính
bởi ngoại bang, bộ máy cai trị của nƣớc Lỗ vận hành một cách trôi chảy, dân chúng tin tƣởng
và sống theo lễ nghĩa, nhiệt thành với vua và quốc gia đại sự.
Nhƣng chốn quan trƣờng đã làm ông thất vọng, vào năm 68 tuổi ông cáo quan trở về lo
việc đèn sách với ba việc lớn: Suy ngẫm đạo lí, thuật kinh sách và giáo huấn đệ tử.
Trung Quốc dƣới thời nhà Chu, các nƣớc chƣ hầu thƣờng xuyên đánh nhau để tranh
giành đất đai, quyền lực. Xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ bất ổn, nền nền kỷ cƣơng bị đảo lộn.
Nhân dân oán trách vì đời sống của họ rất cực khổ. Trong bối cảnh đó, Khổng Tử muốn đƣa
ra những cải cách xã hội, lấy Nhân và Lễ làm hạt nhân tƣ tƣởng chính trị của mình. Khổng
Tử đã nêu một số tấm gƣơng đạo đức, nghĩa hiệp trong lịch sử để răn dạy ngƣời đƣơng thời,
góp phần vào việc giữ gìn trật tự phong kiến. Tƣ tƣởng sử học của Khổng Tử đƣợc tập hợp
trong các bộ kinh nhƣ Kinh Thi, Kinh Thƣ, kinh Xuân Thu
Kinh Thi
Là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên của Trung Quốc tập hợp
những sáng tác trong khoảng 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Kinh
Thi trƣớc đó gọi là Thi sau đó đƣợc Khổng Tử san định lại và gọi là Kinh Thi.
20


Lúc đầu Thi có trên 3000 bài nhƣng Khổng Tử đã ''bớt những thiên trùng điệp, lấy
những thiên có ích cho lễ, nghĩa". Dƣới thời Tần Thủy Hoàng do chính sách phản văn hóa
của nhà Tần, "đốt sách, chôn học trò" nên nên Kinh Thi cùng chung số phận với các cuốn
sách quý khác, đều bị đem đốt. Rất may là Kinh Thi đƣợc viết bằng thể thơ nên đƣợc nhiều
ngƣời còn nhớ và lƣu truyền đến ngày nay. Bản lƣu truyền đến ngày nay là bản Mao Thi có
305 bài, chia làm 3 phần là Phong (còn gọi là Quốc phong), Nhã (gồm Đại nhã và Tiểu nhã),
Tụng (Chu tụng, Thƣơng tụng, Lỗ tụng ).
Phong là phần tập hợp dân ca của các nƣớc, là phần tinh túy, giá trị nhất của Kinh

Thi, nó phản ánh sinh động và chính xác cuộc sống sinh hoạt của ngƣời dân Trung Quốc thời
bấy giờ. Ngoài những bài vịnh cảnh, hay nói đến đời sống sinh hoạt của tầng lớp quý tộc,
những bài trong Quốc phong cho thấy những tình cảnh nhân dân và bộ mặt của vua quan
phong kiến lúc bấy giờ.
Một phần quan trọng trong Quốc Phong là nói về tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng
thể hiện dƣới nhiều sắc thái rất phong phú và đa dạng. Những tình cảm cao đẹp khác nhƣ tình
yêu thƣơng và biết ơn cha mẹ, tình bạn bè, sự thông cảm giữa ngƣời với ngƣời trong những
hoàn cảnh khó khăn, ca tụng những ngƣời tài đức, phê phán những thói xấu cũng đƣợc
trình bày trong Kinh Thi.
Nhã là phần phản ánh những sinh hoạt của quý tộc phong kiến trong cung đình. Đại
nhã là phần nội dung phản ánh sinh hoạt của đại quý tộc và tiểu nhã phản ánh sinh hoạt của
tiểu quý tộc. Nhiều bài miêu tả cách sinh hoạt, phục sức của các quan lại, ông hoàng, bà
chúa Đây là phần chứa đựng tƣ liệu lịch sử nhiều nhất trong Kinh Thi, nó cho chúng ta
hình dung đƣợc bộ mặt xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, nhất là đời sống của tầng lớp quý
tộc.
Tụng là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và bói toán sáng tác dùng để hát,
khấn vái khi cúng tế ở miếu đƣờng. Tụng bao gồm các bài tụng của các nƣớc lớn lúc bấy giờ
nhƣ Chu tụng, Lỗ tụng, Thƣơng tụng. Do là những bài ca tụng công đức của các vua nến đây
cũng phần có chứa đựng những tƣ liệu lịch sử. Các bài Huyền vu, Sinh dân, Công lƣu trong
kinh thi thực chất là những sử thi anh hùng về tổ tiên của ngƣời Thƣơng, Chu.
Phƣơng pháp biên soạn Kinh Thƣ cũng rất phong phú và đa dạng, làm tăng thêm khả
năng biểu đạt của tác phẩm. Kinh thi đƣợc viết theo 3 thể:
21

phú, tỉ và hứng. Phú là miêu tả, phô bày sự việc một cách trực tiếp và biểu hiện thái độ của
tác giả trong đó, nhƣ các phần Cốc Phong, Thƣơng Trọng Tử, Thất Nguyệt Tỉ là so sánh,
ẩn dụ mƣợn một vật một sự kiện nào đó để ám chỉ điều muốn diễn tả nhƣ các bài Thạc thử,
Xi Hào Hứng là nói quanh co để đƣa đẩy vào chủ đề chính nhƣ Quan Thƣ, Đào Yêu, Ân Kì
Lôi
Khổng Tử đã đặt ra một số nguyên tắc về phƣơng pháp trong khi biên soạn Kinh Thi

nhƣ chổ nào rời rạc, không mạch lạc hoặc thiếu sót thì so sánh đối chiếu với các bản ghi chép
để bổ sung và hoàn thiện. Sự thống nhất về văn thể và ngôn từ trong suốt toàn bộ tác phẩm đã
chứng tỏ tính chất xác thực của văn bản, vì vậy chúng ta có thể coi Kinh Thi là một cuốn tài
liệu "tín hữu tín trung”
(1)
cung cấp cho ngƣời đời sau những sự kiện xác thực để nghiên cứu
về lịch sử.
Trong Luận ngữ - Dƣơng hóa, các học trò của Khổng Tử đã ghi chép lại lời của ông
nhƣ sau: Các trò sao không học Kinh Thi ? Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể giúp ta
mở rộng tầm nhìn, có thể làm cho mọi ngƣời đoàn kết với nhau, có thể làm cho ta biệt oán
giận. Gần thì có thể vận dụng để thờ cha, xa thì thờ vua. Lại biết đƣợc nhiều tên chim muông
cây cỏ.
Kinh Thi không chỉ có giá trị về văn học mà còn là một tác phẩm phản ánh hiện thực
tình hình xã hội Trung Quốc đƣơng thời. Qua Kinh Thi chúng ta có thể hiểu đƣợc tâm tƣ tình
cảm, nguyện vọng cũng nhƣ phong tục tập quán của nhân dân Trung Quốc. Kinh Thi đƣợc
các nhà nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tƣ tƣởng của nó. Dù bất cứ ở phần nào, ít hay
nhiều Kinh Thi cũng phản ánh những sinh hoạt xã hội, những tấm gƣơng trong lịch sử, những
mối quan hệ quốc gia, xã hội và quan niệm về xã hội, con ngƣời. Đây là những tƣ liệu sử học
quý giá để lại cho đời sau.
Kinh Thƣ
Để thực hiện ý định truyền bá tƣ tƣởng Nho giáo, Khổng Tử đã san định Kinh Thƣ
chép những điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh của vua tôi dạy bảo, khuyên răn nhau từ thời
vua Nghiêu, vua Thuấn cho đến đời Đông Chu (2357 - 770 TCN).


(1)
Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu (1922), Kinh Thi, NXB TP. HCM, tr. 23.
22

Kinh Thƣ không chỉ đƣợc coi là cuốn sử cổ nhất Trung Quốc mà còn đƣợc coi là bộ

sử sớm nhất phƣơng Đông (còn gọi là thƣợng thƣ) với cách sắp xếp căn bản theo trật tự thời
gian, gồm các phần sau:
Phần thứ nhất: Ngu Thƣ (sách chép đời nhà Ngu). Ngu là họ vua Thuấn, khi vua
Thuấn lên làm vua thì lấy họ mà đặt tên cho triều đình của mình. Ngu thƣ gồm có 5 thiên :
Thiên đầu là Nghiêu điển chép về điển phạm, đức nghiệp của vua Nghiêu. Khổng Tử
chỉ ra sáu đức tính tuyệt vời của vua Nghiêu đó là kính cẩn, sáng suốt, văn minh, khiêm tốn,
suy nghĩ sâu sắc, có tình có lý.
Thiên thứ hai là Thuấn điển, chép về điển phạm, đức nghiệp của vua Thuấn. Khổng
Tử nhận xét : Đến nhƣ xét về vua Thuấn xƣa quang hoa cũng hợp với đức Vua (vua Nghiêu),
sâu sắc, khôn ngoan, văn vẽ, sáng suốt, hòa nhã, thành thật Đức ngầm thấu tới đức Vua,
Vua bèn trao cho chức vụ.
Thiên thứ ba là Đại Vũ mô, ghi chép những mƣu mô trị nƣớc của Vũ đề nghị lên vua
Thuấn.
Thiên thứ tƣ là Cao Dao mô, mƣu mô của Cao Dao đề nghị lên vua Vũ. Thiên thứ
năm là Ích Tắc mô, ghi chép những mƣu mô của Ích và Tắc. Phần hai: Hạ Thƣ là sách viết
về đời Nhà Hạ.
Thiên đầu là Vũ cống: Vũ tức Đại Vũ là Chúa đất Sùng đƣợc vua Thuấn truyền ngôi
cho. Cống có hai nghĩa, một là những thứ mà các chƣ hầu phải cống nạp cho Thiên tử, hai là
từ chung dùng để chỉ các thứ thuế đời nhà Hạ. Vũ cống có nghĩa là những phép cống do Vũ
định ra.
Thiên hai là Cam Thệ, lời thệ sƣ ở đất Cam khi Đế Khải đi đánh họ Hữ Hộ.
Thiên ba, Ngũ tử chi ca, bài ca của năm ngƣời em khuyên vua Thái Khang tránh việc
ăn chơi vô độ.
Thiên bốn, Dận chinh nói về Dận hầu đi chinh phạt họ Hy và họ Hòa. Hy và Hòa
đƣợc giao coi về thiên văn từ đời vua Nghiêu nhƣng do mê rƣợu chè nơi thái ấp, trễ nải công
việc, không báo trƣớc đƣợc tin nhật thực nên bị thiên tử phái Dận hầu đi đánh.
Phần ba: Thƣơng Thƣ - sách nói về thời nhà Ân - Thƣơng. Thƣơng thƣ gồm các nội
dung sau:
- Thang thệ - lời thệ của Thang khi cất quân đánh vua nhà Hạ là Kiệt.
23


- Trọng Hủy chi cáo - lời ông Trọng Hủy giải thích hành động của vua Thang.
- Thang cáo - bố cáo của vua Thang sau khi tiêu diệt nhà Hạ với lời lẽ giản dị, dễ hiểu
để khuyên bảo các chƣ hầu một cách sâu sắc, phù hợp với lợi ích của họ.
- Y huấn - lời của Y Huấn dạy bảo vua Thái Giáp lúc mới lên ngôi.
- Tháp Giáp thƣợng, trung, hạ nói về những lời hối lỗi của Thái Giáp.
- Hàm hữu nhất đức, lời huấn của Y Doãn với vua Thái Giáp trƣớc khi ông về nghĩ.
- Duyệt mệnh thƣợng, trung, hạ, nói về việc Ân Cao Tông lên ngôi do không tìm
đƣợc ngƣời tài mà ba năm không nói và làm việc lớn, khi tìm đƣợc ngƣời tài Phó Duyệt thì
trao quyền và nghe theo.
- Tây Bá kham Lê nói về Tây Bá (Văn Vƣơng nhà Chu). Vua Trụ (Đế Tân) là ông
vua cuối cùng của nhà Thƣơng cho Tây Bá quyền đƣợc đánh các nƣớc chƣ hầu. Tổ Y thấy
Tây Bá diệt nƣớc Lê, một nƣớc chƣ hầu, lo sợ thế nhà Chu ngày càng lớn nên đã vào thƣa với
vua Trụ.
- Cao Tông dung nhật, nói về điềm gỡ nghe chim trĩ gáy lúc vua Cao Tông cúng bái
trong ngày lễ Dung.
- Vi tử, nói về anh vua Trụ định cứu em nhƣng không thành.
Phần bốn: Chu Thƣ - sách về đời nhà Chu gồm các phần sau đây :
- Thái thệ (thƣợng, trung, hạ) nói về những lời răn quân sĩ của Chu Vũ Vƣơng khi đi
đánh vua Trụ nhà Thƣơng.
- Mục thệ, lời thệ sƣ của Văn Vƣơng ở cánh đồng Dã Mục.
- Hồng Phạm nói về chín phạm trù lớn về chính trị, triết học, đạo đức để trị nƣớc. Nội
dung của thiên Hồng Phạm là khái quát toàn bộ học thuyết về chính trị, về tổ chức và quản lí
xã hội thời Ân Thƣơng.
- Kim Đằng, nói về Chu Công khấn tổ tiên xin chết thay vua.
- Đa sĩ, Chu Công kêu gọi các sĩ phu nhà Ân khi mới sang Lạc Ấp. Chu Thƣ còn có
nhiều phần khác nữa.
Trong Kinh thƣ, Khổng Tử trình bày mục đích viết Kinh Thƣ cũng là mục đích viết
sử của mình là: khẳng định mình không chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử một cách khách
quan mà còn đƣa ra những tấm gƣơng nhân vật lịch sử có đầy đủ những đức tính theo quan

niệm của Nho giáo.
Kinh Thƣ khuyên con ngƣời hành động theo Thiên lý: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Tức
là con ngƣời phải rèn luyện để tâm thần thƣ thái,
24

không bị tƣ dục xui khiến, không màng danh lợi, thái độ và cách cƣ xử đúng mực.
Về phương pháp viết sử, Khổng Tử cho rằng mình chỉ "thuật" chứ không "tác", tức là
chỉ kể lại những hành động, cách cƣ xử của thánh nhân xƣa kia để làm gƣơng cho hậu thế,
chứ ông không hề sáng tác ra một lý thuyết, một quan điểm nào về luân lý cả.
Quan niệm chính trị trong sử học, ông chủ trƣơng đƣa ra những phƣơng thức xã hội
cụ thể để nhà cầm quyền noi theo nhƣ vua thì phải mẫu mực, cốt cách, quên mình để lo cho
dân, tôi thì phải "tận trung báo quốc".
Kinh Xuân Thu
Đây là bộ sử nƣớc Lỗ, quê hƣơng của Khổng Tử, đƣợc ghi chép từ đời Lỗ Ân Công
đến Lỗ Ai Công (580 TCN), gồm 12 đời vua với 242 năm. Giai đoạn này là thời kì suy thoái
của nhà Chu. Bọn Ngũ bá gồm Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, Tông Tƣơng
Công, Sở Tang Vƣơng nổi lên lấn át quyền Thiên Tử. Các nƣớc chƣ hầu thì đua nhau xâm
chiếm đất đai của nhau. Đây là thời kì hỗn loạn đƣợc Khổng Tử phản ánh trong kinh Xuân
Thu nên sau này ngƣời ta đã lấy kinh Xuân Thu để đặt tên cho thời kì lịch sử này, thời Xuân
Thu.
Để soạn kinh Xuân Thu, cần phải có nhiều tài liệu, vì thế Khổng Tử đã sai Tử Hạ và
13 môn sinh nữa vƣợt xa hàng ngàn dặm đến Lạc Ấp, nơi có kho tàng thƣ của Chu Thiên Tử
để đọc và sƣu tầm tài liệu. Tàng thƣ của Chu Thiên Tử là một kho tƣ liệu lớn vì không chỉ có
sách sử của nhà Chu mà còn có sách sử của các nƣớc chƣ hầu gửi đến.
Nhờ uy danh của Khổng Tử mà nhóm môn sinh đã mƣợn đƣợc "Bách nhị thập quốc
bảo thƣ", là những tập sách quý để làm tƣ liệu cho việc biên soạn kinh Xuân Thu. Cũng nhờ
vậy mà kinh Xuân Thu là bộ sử nƣớc Lỗ nhƣng thực ra nó là một bộ sử bao quát và tổng hợp
lịch sử của tất cả các nƣớc chƣ hầu.
Kinh Xuân Thu đƣợc chép theo lối biên niên. Phần do Khổng Tử biên soạn ngƣời ta
gọi là Kinh. Khổng Tử tham khảo nhiều sách của các nƣớc chƣ hầu, khảo chứng những chỗ

thật, giả, sửa lại những chỗ sai, bỏ những chỗ rƣờm rà không cần thiết để biên soạn kinh
Xuân Thu.
Do bộ kinh Xuân Thu Khổng Tử viết rất ngắn gọn, hàm súc, ít ngƣời hiểu thấu nên có
ba ngƣời là Công Dƣơng, Cốc Lƣơng và Tả Thị mỗi ngƣời

×